Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

Chiều rơi trên cây ginkgo

 Trần Kiêm Trinh Tiên

“LAC DU SOUPIR” – Hoàng Ngọc Biên

Lần thứ hai, tôi trở lại Akiko gallery. Cửa hiệu nằm ở cuối dãy con phố dài. Kyoto cuối tháng Hai, tiết trời còn mưa lạnh. Anh đào chưa nở hoa.

Không gian bên trong yên tĩnh, có thể nghe cả tiếng đàn Koto nhỏ xuống từng giọt, nhẹ như mưa, rả rích rơi từ mái lá.

Bà Michiko, chủ tiệm, có vẻ vui khi nhận ra tôi. Tôi xin đến ngắm lại bức tranh “Storm Boy” của hoạ sĩ Abe Hiro. Bức tranh không bán, chỉ để trưng bày trong tủ kính.

Tôi trở lại để thăm đôi mắt của “Storm boy”. Đôi mắt ấy đã làm tôi thức trắng đêm qua. Nó khiến cho tôi nhớ một tiếng khóc.

Bức tranh chỉ ghép bằng vỏ lụa của cây melaleuca, mà sao người hoạ sĩ có thể tạo cho “Storm boy” một đôi mắt kỳ lạ như thế? “Storm boy” ngồi chống cằm, khuôn mặt thông minh, thoáng chút bực tức ở khoé môi, ánh nhìn xa xăm, thất vọng, như đang nhìn thấy giấc mơ đi học của mình như xác những con phù du nằm chết quanh cây đèn dầu mỗi buổi sáng. Không gian của nó đang ngồi, bị vây kín bởi bốn bức vách ghép ván màu nâu. Nâu như cánh hoa anh đào tàn, rơi đầy mặt sông Kamogawa. Phía trên đầu nó là mái gỗ thấp, xếp ngang dọc đây đó một vài khúc tre. Nó ngồi trước cây đèn dầu tù mù, không sách, không giấy bút, cái ly không còn nước, cái chén trống không.

Và ai biết được trong đôi mắt ấy đang thao thiết chảy qua dòng ký ức thẳm sâu của một tuổi thơ bất hạnh?

Bà Michiko đến bên tôi với cuốn album, bìa và gáy đã cũ sờn. Bên trong có hình hoạ sĩ Abe. Khuôn mặt ông thật bình yên. Nét thông minh tìm thấy ở đôi mắt lớn, một mí của ông. Khi ông cười, nụ cười đôn hậu của ông như còn giữ lại ở cuối đuôi mắt.

Bà Michiko chỉ nói khẽ khàng:

– Hiro có một tuổi thơ không mấy vui. Sau này nhiều lần ông về lại quê xưa tìm gia đình nhưng không còn ai biết. Nhất là sau hai biến cố ở Hiroshima và Nagas Ông mất đã ba năm nay.

Năm Hiro lên bảy, một buổi sáng mùa hè, nó được theo mẹ đi chợ rất sớm. Trên đường, mẹ ghé vào một quán nhỏ bên sông mua cho con chiếc bánh Kagami-mochi. Bánh làm bằng bột gạo trắng phau, ghép thành một đôi, miếng nhỏ xếp lên trên miếng lớn. Ôi miếng bột dai, mềm, nhân đậu đỏ tán nhuyễn còn ấm, ngọt bùi, tan nhanh trong miệng thằng bé! Được nắm tay đi bên mẹ, nó thầm ước cho con đường quê cứ dài mãi ra.

Đến nhà ông Kenzo, Hiro được cho ra vườn chơi với thằng Chikao. Chơi mãi đến trưa đói bụng chạy vào tìm mẹ. Không ngờ mẹ đã đi về. Thằng bé hốt hoảng, thảng thốt khóc, những mong mẹ có nghe tiếng nó thì quay lại. Hồi lâu, sợ ông Kenzo, nó úp mặt khóc trong cánh tay, mùi bánh thơm còn vương quanh má.

Trong làng, ông Kenzo là một người giàu có.

Từ sau hôm bị mẹ bỏ quên, không mang nó về nhà, công việc của Hiro mỗi buổi sáng là quét dọn sạch nhà cửa, tưới hoa, nhổ cỏ. Lúc mặt trời đổ bóng bên cây Ginkgo, Hiro vào hâm nóng cơm và thức ăn trưa ông Kenzo đã làm sẵn, trước khi Chikao đi học về.

Buổi chiều là khoảng thời gian thần tiên nhất đối với Hiro. Nó phải đứng quạt muỗi cho Chikao tập viết, học bài. Có nhiều chữ nó đã được cha dạy cho lúc còn ở nhà. Ông đã mất một chân trong chiến tranh Nhật-Trung ở Mãn Châu. Suốt ngày ông chỉ quẩn quanh bên góc chiếu ông ngủ. Và ông dạy nó học. Nếu biết nó ở đây, ông cũng làm sao đi tìm nó về được?

Nhớ đến cha, Hiro ứa nước mắt.

Ngày một ngày hai, đứng quạt muỗi cho Chikao được chừng ba năm, Hiro cũng học theo được từ những bài tập ở nhà của Chikao. Nó tập viết và học bài lúc Chikao ngủ trưa. Những hôm trời mưa phải mang dù ra ngoài trường đón Chikao, nó được nhìn thấy thầy Kyoshi. Tiếng nói ông vang vang, lớp học im phăng phắc. Dáng người ông cao lớn. Bộ áo dài đen bên trong, khoác ngoài chiếc áo Kimono màu nâu, thắt dây lưng màu đen, trông thầy Kyoshi oai nghi như tượng ông Thần ngoài Chùa Làng. Hiro ước ao phải chi trưa nào trời cũng mưa!

Năm nay Chikao học lớp Hai.

Hôm ấy, ông Kyoshi đang dạy về thơ Haiku. Đứng ngoài hiên mưa, nó nhẩm theo thầy:

Bài thơ Haiku có 3 câu,

 câu 1 viết 5 từ

 câu 2 viết 7 từ

 câu 3 viết 5 từ…”

Trên đường về, Chikao băn khoăn về thơ Haiku và cũng là bài tập ở nhà của nó chiều nay.

Hiro hỏi:

– Ông thầy dạy bạn viết gì trong Haiku?

– Về thiên nhiên, bốn mùa…

Cơm trưa xong, Chikao không chịu đi ngủ. Nó hỏi Hiro biết gì về thiên nhiên.

– Thiên nhiên là vườn quanh nhà bạn, có cây Ginkgo, cây trúc, hoa Fuji, hoa anh đào, hoa Tsubaki…

Chikao yên tâm đi ngủ trưa. Có con thằn lằn chắt lưỡi trên đầu hồi.

Dọn rửa bát chén xong, Hiro đi làm bài tập. Nó không quên đem con thằn lằn vào bài thơ Haiku của nó:

Chiều rơi trên Ginkgo

Nhớ mẹ, thằn lằn đi ngủ sớm

Anh đào im thôi nở

Bây giờ tôi mới hiểu vì sao trong tủ kính, bên cạnh bức tranh “Storm Boy”, lại có bình mực nhỏ xíu bằng gốm cổ màu lam và nhánh trúc Ikebana màu xanh, dáng thanh như cây viết trong giấc mơ đi học của thằng bé.

***

Đôi mắt của Storm Boy trong bức tranh của hoạ sĩ Abe Hiro đã khiến cho tôi nhớ đến một tiếng khóc. Tiếng khóc của ông tôi.

Tôi sắp kể câu chuyện về tiếng khóc ấy, đã rất xưa, xưa lắm!

Thuở ấy, trong làng, ai cũng gọi ông tôi là “thằng Côi”, “thằng Côi không có mạ”.

Thằng Côi mất cha năm lên bảy tuổi. Cũng như Storm Boy của hoạ sĩ Abe Hiro, thằng Côi rất thèm được đi học.

Sau khi cha chết, một ngày làm việc của thằng Côi dài lắm.

Sáng sớm phải qua dắt trâu nhà Ôn Trợ lên ăn cỏ gần trên đồng Liễu Thượng. Trưa trả trâu về, được cho cơm ăn. Buổi xế, đi lo tiếp cho hai trâu nhà Ôn Khoá Diếp. Đánh trâu về, chiều đã nhá nhem. Hôm nào được ăn chén cơm với cái đuôi cá nục kho khô là mừng lắm.

Về nhà, dì Gái đang cho con Bê ngủ.

Dì hỏi vọng ra từ trong mùng:

– Ăn chi chưa?

– Dạ rồi dì.

– Tưởng chưa thì có cơm với dưa môn kho trên bếp.

Ngọn đèn dầu leo lét cũng soi thấy cái trách cá kho dì Gái bỏ trong chiếc gióng con, treo trên giàn bếp. Dì hay nói “Sợ mèo ăn”.

Khi thằng Côi lớn lên, dì Gái đã có mặt. Dì lớn tuổi, không chồng nên Ôn Trưởng họ tác hợp cho cha thằng Côi đang “gà trống nuôi con”. Dì Gái ít nói. Căn nhà buồn thiu. Chỉ có tiếng người khi con Bê khóc. Mỗi lần dì đi chợ, thằng Côi phải giữ em.

Lúc cha dạy học, con Bê bò quanh chiếu. Ông viết chữ trên nền đất, trước bàn thờ. Thằng Côi tập viết theo. Viết rồi xoá, xoá rồi viết lại. Học đến từ nào, cha giảng tường tận nghĩa của từ ấy. Cha còn dạy cẩn thận cách viết sao cho đúng từng nét, từng chấm.

Dắt trâu ra đồng vào sáng sớm mưa lạnh mới thấy thấm thía cái đói. Thằng Côi nhớ cha hay nói “đói sa mạc”. Không tìm được cả ngọn lá hay cọng cỏ xanh để nhai giữa cánh đồng nước.

Mỗi lần nhắc đến cha, lòng thằng Côi thật buồn. Buồn như khi nghe tiếng ve râm ran trưa hè, học trò trong làng nghỉ học. Chúng chơi từ sáng tới trưa, chơi chán thì rủ nhau ra sông Hương Cần mà tắm.

Hết hè, chúng lại đi học. Ngẩm cho cùng, ngày hai buổi giữ trâu của thằng Côi chỉ đổi được hai bửa cơm ăn. Tôi thầm nghĩ phải chi ông tôi ngày ấy, cũng được đứng quạt muỗi cho thằng Chikao học như hoạ sĩ Abe.

Thằng Côi không sao học được thêm chữ mới từ ngày cha mất. Ngồi trên lưng trâu, Côi như nhìn thấy chữ của cha đang viết trên mặt nước lụt mênh mông:

Hỗn mang chi sơ

 Vị phân thiên địa

 Bàn Cổ thủ xuất

 Thuỷ phán âm dương…”

Thế là nó gào thật to một bài học cũ, sợ có ngày sẽ quên. Tiếng nó tan nhanh trong gió. Cánh đồng mưa chỉ có mấy chú cò, ba con trâu đen với thằng Côi. Chiếc tơi lá tả tơi, xoay quanh chiều nào cũng bị ướt.

Thuở còn cha, nó không phải là thằng Côi như bây giờ. Ông thường gọi nó là thằng Minh. Nó vẫn nhớ cha kể, sau khi đã đậu qua kỳ thi khảo hạch, năm ấy, ông đi thi Hương, kỳ một. Nếu thi đậu, được vào trường, hàng tháng ông sẽ được phát cho một đồng tám hào. Có tiền nuôi nó ăn học.

- Rứa cha có đi thi không?

Cha lắc đầu nói, con mới sinh được năm tháng, còn nhỏ quá, cha không đi thi.

 - Rứa lúc nớ mạ ở mô?

Câu hỏi ấy, ông tôi, là thằng Côi, chẳng bao giờ được cha trả lời.

 ***

Giữa trưa, vừa đem quyển thi lên Quan Trường lấy dấu nhật trung về, người lính canh đến báo:

– Chú học trò có lệnh lên hầu quan Chánh Chủ Khảo bên nhà Tân Thơ Viện.

Đến nơi, được ngài Chánh Chủ Khảo phán:

– Gia đình học trò tới báo có việc gấp phải về. Học trò nộp quyển lại đây. Chờ ba năm nữa, trừ khi có đại tang cha hoặc mẹ thì không được, còn nếu việc nhà yên ổn, học trò có thể tiếp tục đi thi lại.

Nghe xong, ông điếng người. Không biết có chuyện chi đây.

Ông lặng cúi đầu vái Quan Chánh Chủ Khảo rồi lui ra.

Cổ họng đắng khô. Ông bước đi, chân như hỏng đất.

Ra tới bậc thềm đá cao, ông ngạc nhiên thấy bên phía bờ sông, vợ ông đang bồng con, ngồi dưới cội tùng già.

Ông băng vội qua đường, ống quyển đeo trước ngực. Vai trái, gánh gói lều, chiếu, cuộn tròn khá kỷ, buộc thêm bên ngoài cây đèn và chai dầu lửa. Ông đã sửa soạn cho đoạn đường đi bộ về nhà xa hơn cả mười cây số.

 Chưa kịp nhìn thằng con đang ngủ say, người vợ đã trao con cho ông.

 Ông bối rối. Ông sửng sốt. Chỉ một tiếng “Mình” ông thốt ra cũng nghẹn lại trong cổ. Người vợ im lặng một lúc, cúi xuống bên con, rồi nói vội:

– Mình tha tội cho tui. Một đường đây liên lạc với sĩ phu Cần Vương bị lộ. Tây đang truy lùng. Tui phải đi tránh.

 Hai con mắt thiếu ngủ của ông đỏ ngầu, bắt đầu ngấn nước. Đêm hôm kia, ông đi gặt thuê, về muộn. Ông lo nấu mớ khoai sắn mới vừa đem về, rồi lăng xăng sửa soạn lều, chiếu, đồ đạc… Vừa ngã lưng thì gà đã gáy.

Đến trưa hôm qua, ông mang theo mấy củ khoai còn lại vào trường thi. Ông đưa cho vợ năm xu và dặn có mấy lon gạo mới xay để trong lon bơ, nhớ nấu mà ăn. Ông vào nhìn con rồi ra đi vội vàng. Phải có mặt sớm trước giờ cổng trường thi mở. Ông theo số phiếu báo danh, đến đúng vị trí đã được qui định cho mình. Cắm lều xong, ông thắp đèn lên rồi mài mực. Ông chợt thấy bóng mình trên tấm phên tre, răng mà buồn hiu buồn hắt! Ông cầu mong chữ nghĩa Thánh hiền sẽ giúp ông qua được cái cầu nghèo khổ. Ông âm thầm thương vợ thương con. Ông lầm lũi như con chim bồ nông đi tìm miếng ăn ngoài đồng cả hai mùa mưa nắng.

 Ông đẩy ống quyển ra sau lưng, sửa lại cái gánh bên vai trái rồi đưa tay ra bồng con. Người vợ đưa thêm cho ông gói đường cát nhuyễn gói trong lá chuối dặn ông pha cho thằng bé uống và năm hào để ông mua gạo nấu cháo cho con.

– Xã, huyện có tra khảo về tui, mình cứ nói tui đi theo trai để cho được yên!

 Giọng người vợ run run:

– Cùng lắm mình cứ ký giấy “để” tui!

Nói xong, người vợ khóc, quay lưng đi nhanh, cắp bên tay trái chiếc nón lá có buộc sợi dây chuối khô làm quai. Chiếc áo dài vải nâu bạc thếch, tóc búi củ tỏi, chân đi đôi guốc gỗ mức.

 Đến gần khúc quanh đồi Thiên Mụ, có o bán chè gánh từ trong đường xóm đi ra, cất tiếng rao vừa đủ nghe, như tiếng con ve ri đang buồn ngủ trên nhánh phượng:

– Chè đậu xanh, đậu ván!

– Có đậu ván nước không o?

– Có!

Họ trao nhau đúng mật khẩu.

Từ đó bà cố tôi đi theo o bán chè đậu ván nước!

***

Ngày bà cố tôi trở về, “thằng Côi” đã năm mươi.

Sự trở về, im lặng, ngậm ngùi, như một vết thương.

Trong nhà, ai cũng chỉ biết bà đem giao con cho ông cố tôi lúc ông đang đi thi Hương. Về sau do buồn mà ông chết sớm. Nhưng không ai biết vì sao hôm giỗ đầu ba thằng Côi, ôn mệ ngoại lên thăm, có ý xin đem nó về nuôi. Hôm ấy, thằng Côi mừng trong bụng hung lắm mà không dám nói ra. Lúc mệ ngoại nói chuyện với dì Gái, nó đi theo ôn ngoại đến nhà ôn Trưởng họ rồi đi ra thăm mộ cha. Bao giờ thắp nhang cho cha, nó cũng van vái cha phù hộ cho nó được đi học.

Sau hôm ấy, thằng Côi theo ôn mệ ngoại về làng Thuận An.

Ôn biểu kêu hắn là thằng Minh như tên cha đã đặt.

– Chơ kêu chi mà nghe côi cút tội nghiệp!

Cũng như việc đem thằng cháu ngoại về ở với ôn mệ, chỉ một mình ôn ngoại biết. Con Miên, mất tăm tích gần cả mười năm, trở về nhà một đêm gần sáng. Đừng cho mạ biết mạ khóc rồi lộ công chuyện của con.

– Con nhờ chú mạ đem thằng Minh về nuôi, cho hắn đi học giùm con. Cha của hắn chết gần giáp năm.

Ôn ngoại nghe mà mủi lòng, nằm trông trời mau sáng.

***

Trở về, bà cố sống một mình trong gian nhà nhỏ ở cuối vườn. Chưa bao giờ tôi thấy bà bước vào nhà trên của ông bà nội. Bà đi lại ngoài sân vườn, lặng lẽ như một cái bóng.

Mỗi buổi sáng, bà ra vườn cắt lá chè xanh để nấu nước. Tôi còn nhớ bà cố tôi pha nước chè rất công phu. Trong khi chờ ấm nước sôi, bà rửa sạch lá chè, vò lá cho mềm ra, bỏ vô cái bình lớn, thêm một củ gừng đã giã nhỏ. Chế nước sôi vô bình xong, bà chờ khoảng nửa tiếng cho nước thấm lá chè. Sau đó, bà cố lọc nước chè qua cái bình tích, đặt trong cái ấp. Như thế nước sẽ được giữ ấm suốt ngày.

Nếu tình cờ ông tôi xuống bếp, thì đó là khoảng thời gian hai mẹ con nói chuyện. Chắc chỉ được vài câu là cùng. Khi nghe có tiếng chân ai đến gần, ông tôi bưng bình nước sôi lên nhà trên.

Nấu xong nước chè, bà đi quét lá. Bà quét sân trước sân sau sạch hết lá mít rụng. Bà gom lá rụng đem vào sau nhà bếp.

Như thế là xong việc trong ngày của bà.

Ngày còn nhỏ, mỗi khi về nhà Nội, tôi hay đi theo bà cố qua nhà bà ở cuối vườn. Bà cố tự nấu cơm, kho cá. Hôm nào trong nhà có giỗ, bà cố có thêm được chút thức ăn ngon.

Nhiều lần tôi được ngồi với bà cố lúc bà dùng cơm. Cơm bà nấu trong cái om một nhỏ xíu. Trách cá cũng nhỏ, kho đủ ba, bốn khúc, thêm vài trái ớt chín, quánh nước màu đường vàng óng, nhìn vào là thấy đói bụng.

Lúc ăn cơm, bà cố hay nghẹn. Mỗi lần ngồi yên nhìn ra vườn, bà cố hay chảy nước mắt. Tuổi nhỏ ngây thơ, tôi hỏi:

– Vì răng bà cố khóc?

Vừa lau hai con mắt với chiếc khăn ca rô màu xanh cũ kỹ, bà cố nói:

– Cố hay chảy nước mắt sống.

 Nói xong bà quay sang cười với tôi. Hai con mắt bà cố đỏ hoe.

Một lúc sau, bà đã quên có tôi bên cạnh. Bây giờ bà cố là o Miên. O Miên ngồi nhìn sững cây sầu đông ở cuối vườn. O Miên còn nhớ như in lúc trao cho chồng đứa con đang ngủ say bỗng giật mình khi rời vòng tay ấm của mẹ. Dường như cả một chuỗi ký ức thác ghềnh về nương náu trên tàng lá xanh đầy gió. Từ hôm đi theo o bán chè đậu ván nước, cuộc đời o Miên ngược xuôi theo những chuyến ghe thương lái chở hàng vô ra xứ Quảng. Hàng của o Miên mang theo bao giờ cũng tuyền là thư và tin.

Ngày bà cố tôi mất, cây trong vườn đều mang tang. Khu vườn đã có nhiều lá rụng. Không còn tìm thấy tách nước chè thơm gừng, màu xanh trong veo.

Tôi không hề quên tiếng khóc của ông tôi buổi tối về nhà, sau khi đưa đám bà cố. Bà nội tôi cùng con cái hoảng hốt, chạy đến bên nhưng ông vẫn không dừng khóc.

Tiếng khóc, tiếng nấc khiến ai cũng lặng người, nghe thảm sầu, tức tưởi, như đã cất giấu cả trăm năm trong lòng núi.

(2024)