Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2025

Không khói hoàng hôn (kỳ 7)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Ký ức về một làng quê - Mỹ Lợi (phần 2)

Rú ở Mỹ Lợi.

Chúng tôi vào đến khu vực ngày xưa người Mỹ Lợi gọi là Rú. Trước mắt chúng tôi là một khoảng đất bằng phẳng trồng toàn cây bạch đàn. Những cây bạch đàn xơ xác cằn cỗi. Anh Chu Sơn nói:

 

– “Năm 1952 Pháp chiếm Mỹ Lợi và Khu Ba Phú Lộc. Việc đầu tiên người Mỹ Lợi phải làm trước họng súng của thực dân là “đốn rú” để Việt Minh hết nơi trú ẩn. Sau 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục ra lệnh “bới rú” (đào lấy cả gốc rễ) để đẩy đến tận cùng công cuộc tố Cộng, diệt Cộng. Như thế là một dãy sinh thái như một bức tường cao hàng chục mét, rộng chừng non cây số chạy theo bờ biển từ cuối thôn Ba đến đầu thôn Một, dài khoảng ba cây số trở thành bình địa.

Rú ở Mỹ Lợi không có cây to và thú lớn như  núi rừng Trường Sơn. Nó là một mảng thực vật mọc tự nhiên nhiều loại cây tạp. Nhưng người Mỹ Lợi giữ gìn và trân trọng nó như thần hộ mệnh. Rú cho củi, cho phân (bổi và lá cây xanh được khai thác theo kế hoạch và lá khô đều biến thành phân bón). Rú là nơi lưu trú của nhiều loài chim và thú nhỏ. Rú giữ nước và che chắn gió cát. Ngày xưa gió thổi cát bay, rú ngăn lại thành động biển (động cát cao chạy dọc theo bờ biển). Người Mỹ Lợi củng cố động biển bằng việc trồng thêm dương liễu và dứa mộng (một loại cây như cây dứa ăn trái (thơm), tàu lá to dài, gai lớn, rể nhiều bám chặt vào động biển). Ngày nay rú đã tan, gió cát tung hoành không còn vật cản, động biển, gò đồi bị sang bằng; khe, chằm (chằm là một vùng trũng thấp có nước vào mùa mưa) bị lấp; cát bay qua cánh đồng vào tận “trong làng”, nương vườn và con người ngoắc ngoải.

 

Anh Chu Sơn đưa tôi thăm qua “ xứ Khe Long ”, nơi tám vị khai canh từ làng Lương Niệm Quảng Xương Thanh Hóa vào khai mở và taọ lập cơ ngơi cư trú đầu tiên từ hơn bốn thế kỷ trước. Khe Long nay chỉ còn là con mương nhỏ chưa hết mùa xuân mà nước đã khô cạn, lưa thưa hai bên bờ là mấy khu vườn nhà vắng lặng của những gia đình (từ trong làng ra) tái định cư, trước đây sống bằng nghề biển và trồng trọt, hiện tại đang sống bằng hy vọng vào mấy đứa con cháu bất đắc dĩ đã và sẽ vượt biên. Chúng tôi dừng lại bên hai cái miếu nhỏ. Một cái thờ thổ thần bản địa, và một cái thờ bộ xương cá voi đặt trong một cái khám bít kín bằng xi măng. Chung quanh hai cái miếu là mấy chục cây dương liễu đang bị đốn chặt ngã nghiêng. Cả khu vực thiêng liêng mà người Mỹ Lợi gọi là Dinh Ông này, và cả một dãy động biển, bãi biển chạy dài từ cuối thôn Ba lên đầu thôn Hai đang bị đào bới bởi những người xa lạ chẳng biết từ đâu đến gọi là công ty khai thác Titan. Người Mỹ Lợi nghe phong thanh rằng các loại đất hiếm gọi là Titan này được đảng Cộng sản và nhà nước quyết định khai thác để bán cho Nhật Bản. Người Mỹ Lợi cũng nghe nói ở nơi nào cây dương liễu xanh tốt là ở đó có nhiều Titan. Như thế là công ty khai thác Titan được Đảng và nhà nước sai đến khỏi phải thăm dò tìm kiếm, cứ việc đào bới, xúc, lọc đất cát bất cứ khu vực nào có cây dương liễu xanh tốt.

 

Như thế là một dải động biển, bãi biển mà người Mỹ Lợi bao đời xem như là nền tảng của bức tường thành và mái nhà tự nhiên là “Rú” đã và đang bị đào bới, chặt phá tan hoang.

 

Như thế là từ 1952 – khi thực dân Pháp tái chiếm Khu Ba – Phú Lộc, qua 1955 –  khi Ngô Đình Diệm tiến hành công cuộc tố Cộng – diệt Cộng, đến 1977 –  đảng Cộng sản trên đà đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên Chủ nghĩa Xã hội, Rú – thần hộ mệnh của người Mỹ Lợi “trong làng” đã “tan” đến những trụ móng cuối cùng. “Rú tan thì làng nát”. Đứng về phía những thế lực cường bạo và chiến thắng thì đây là một lời nguyền độc địa, đứng về phía những người Mỹ Lợi “trong làng” thì đây là lời đinh ninh căn dặn của cha ông và là tiếng thở dài cam chịu của con cháu

 

*Trong Sông – ngoài chợ.

Sau ngày đi “ra biển”, anh Chu Sơn đưa tôi đi “vô sông”. Đi “vô sông” cũng có nghĩa là đi “ra chợ”. Vì chợ nằm trên bến sông. Vô – ra – trong – ngoài ở đây diễn đạt tâm cảnh của thời trọng nông khinh thương và khát vọng sông nước của người Mỹ Lợi trong làng. Khát vọng sông nước ở đây là nhu cầu giao lưu với “thế giới bên ngoài”, là phương tiện để qui hướng về các trung tâm quyền lực: phủ Chúa mấy trăm năm đầu và triều đình nhà Nguyễn  trăm rưởi năm sau.

 

Anh Chu Sơn đưa tôi đi thăm chợ Mỹ Lợi và những bến sông dọc con đường giữa khu dân cư ven triền đồi phía tây (thuộc thôn Năm, thôn Hai) và cánh đồng lúa.

Chợ Mỹ Lợi nằm giữa bến sông (bến chợ), cồn cát (chợ Cồn) và khu dân cư thuộc thôn Năm, có mặt bằng tổng cuộc chừng 1ha rưỡi, trong lòng chợ rộng chừng ngàn tư mét vuông (20x70). Hai bên theo chiều dọc là mặt tiền hai dãy nhà phố (bên trong là chỗ ở, phía ngoài là cửa hàng). Ở giữa là một cái đình chia thành nhiều lô là sạp hàng của nhiều tiểu thương cư trú ngoài chợ. Nhà phố và đình chợ là khu vực kinh doanh của những tiểu thương chuyên nghiệp. Ở đó bán buôn các nhu yếu phẩm hàng ngày của dân Mỹ Lợi và các xã kế cận. Chung quanh đình là những khoảng đất trống. Khoảng thấp phía bến sông là chợ cá do dân chài ven đầm Cầu Hai và các vạn biển tới bán. Khoảng trống phía chợ Cồn là khu vực bán mua các sản phẩm nông nghiệp của nông dân và người buôn chuyến.

 

Anh Chu Sơn còn cho biết:

 – “Trước 1975 chợ đông nức người bán kẻ mua, còn tràn ra cả các hẻm. Từ chợ Mỹ Lợi, cau trầu, cam quít, chuối, thơm, đu đủ, mãng cầu, ổi, thuốc lá, dầu phụng, thao, lụa, nón lá và các mặt hàng nông, hải sản khác theo đò đến các chợ quê, chợ tỉnh thuộc khu vực Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị. Cau tươi, cau khô Mỹ Lợi theo tàu xe ra tận Hà Nội và các tỉnh phía Bắc (trước 1954). Nón lá Mỹ Lợi vào Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn.

Dân Mỹ Lợi (và các làng thuộc tổng Diêm Trường) tiêu thụ “bách hóa” từ các nơi khác (Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn…) đến qua ngã chợ và các bến đò. Từ đầu thôn Năm tới cuối thôn Một (phía sông) có cả thảy 9 cái bến: Bến Mắm, Bến Chợ, bến Ông Vầy, bến Đò, bến Quảng, bến Đình, bến Dốc Chùa, bến Đùi, bến Quan. Mỗi buổi sáng hàng trăm chiếc đò, nốt, xuồng mang hàng đến, chở hàng đi từ bến Chợ. Từ ba bốn giờ sáng hàng mấy chục nốt phân rong từ các làng Hà Trung, Hà Trữ đến neo đậu ở bến Đò. Nông dân từ trong làng và thôn Năm cũng đến bến Đò từ ba bốn giờ sáng. Sau khi đã thực hiện mua bán theo yêu cầu và giá cả, người bán chèo nốt đến đổ phân ở các bến (trừ bến Chợ) theo yêu cầu của người mua. Suốt mấy trăm năm ruộng vườn, đồng bãi Mỹ Lợi xanh tốt, cây trái Mỹ Lợi thơm ngon một phần lớn nhờ những nốt phân rong này. Suốt mấy trăm năm nông dân Mỹ Lợi gánh phân rong từ các bến leo dốc cát (bàn chân người đi sau bám vào dấu chân người đi trước) lên động vào vườn, và qua tận cánh đồng phía trong rú. Chưa thấy được vai trò của phân rong, chưa thấy được nông dân Mỹ Lợi gánh phân rong và nước tưới (từ các giếng đào cạnh các nương dâu, các đám thuốc lá, đậu phụng) leo dốc cát như thế nào suốt mấy trăm năm là chưa thấy hết nỗi nhọc nhằn và bản sắc của người nông dân Mỹ Lợi.

Từ sau 1954, đầm phá bị nhiểm mặn, những nốt phân rong vắng dần trên các bến. Rú tan. Ruộng đồng, nương vườn vừa bị nhiễm khuẩn, vừa thiếu phân bón đã đẩy nhanh tiến trình suy thoái, các sản phẩm nông nghiệp giảm dần cả lượng và chất, nhưng chợ vẫn còn đông.

Từ sau 1975, đảng Cộng sản áp đặt chủ nghĩa Cộng sản, chợ Mỹ Lợi bị cải tạo. Mấy cửa hàng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán thay thế “đám gian thương”. “Đám gian thương” số thì trốn chạy, số thì ngoan ngoãn lên đồng xuống ruộng cùng các đội sản xuất. Chợ Mỹ Lợi trở nên tiêu điều.

 

Mẹ chồng tôi

Không có một trở ngại tâm lý nào giữa tôi và mẹ chồng từ cuộc giao tiếp đầu tiên đến những năm cuối đời của bà. Cũng như bà Khiêm, mẹ chồng tôi nhẹ nhàng, thân thiện, tự tin trong việc bếp núc và quản lý gia đình.

Cái bếp của bà nhỏ, tranh tre và nền đất nhưng gọn gàng và ngăn nắp. Bệ bếp cao và có hai bộ ông táo (một gạch, một kiềng). Tủ bếp bằng gỗ, nhỏ hơn tủ bếp nhà tôi ở trên Huế, nhưng có đầy đủ các thứ gia vị. Mẹ chồng tôi hay nói: “Nước mắm ngon là con mụ khéo”. Thức ăn thơm ngon một phần nhờ gia vị. Tôi thấy trong ô gia vị có nén (Mỹ Lợi gọi là ném), không có hành. Tôi hỏi, bà nói: “Đất Mỹ Lợi trồng hành củ không thích hợp, ném không thơm ngon bằng hành nhưng khử độc lại tốt hơn. Ở nhà quê rất cần tiết kiệm, cái gì cần lắm mới mua. Tỏi, tiêu…không thể không mua vì đất Mỹ Lợi trồng không được.” Tôi tham dự vào việc bếp núc nhà chồng cứ như là khách du lịch, để cho biết nhiều hơn là nhiệm vụ cần phải làm. Vả lại ở nhà chồng tôi, cái khó là đi chợ, vì chợ ở xa, chứ chẳng phải là việc nấu nướng. Mỗi lần chúng tôi về, mẹ chồng tôi đi chợ mua sắm thứ gì đó con trai bà thích. Có lần tôi theo bà đi chợ, cũng chỉ để cho biết. Chợ Mỹ Lợi vào thời điểm đó tiêu điều, nhưng nếu có tí tiền cũng có thể mua được cá tràu (trong Nam gọi là cá lóc), cá rô đồng, cá hanh và tôm cua của những người dân chài làm nghề trong đêm trên các cánh đồng lúa (ruộng bàu), dọc con kênh và quanh bờ bên này đầm Cầu Hai. Họ cũng cần tí tiền chạy gạo.

Trên đường đi – về chợ, chúng tôi trò chuyện như hai người bạn. Tôi nói:

– “Anh Huệ đã đưa con đi thăm qua nhà thờ họ ngoại. Anh nói họ Tô về Mỹ Lợi đến thế hệ anh là đời thứ tám. Con không hiểu do đâu mà nhà thờ họ Tô cũng to lớn khang trang chẳng thua kém bao nhiêu nhà thờ các họ đã đến trước mấy trăm năm”.

 Mẹ chồng tôi nói:

– “Ông bà cố ngoại thằng Huệ làm nghề buôn bán cau khô đường Huế – Hà Nội, giàu có, về Mỹ Lợi mua vườn lập nghiệp, tiếp tục buôn cau khô và thuốc lá hàng nằm (mua trữ hàng đầu mùa, bán cuối vụ) và gây dựng cơ nghiệp cho sáu ông con trai. Sáu ông con trai có gia đình riêng, mỗi ông có vườn nhà ở liền một dãy hai bên nhà cha mạ mình. Ông bà cố ngoại thằng Huệ qua đời, ngôi nhà và khu vườn là của hương hỏa, trở thành nhà thờ họ Tô như con đã thấy. Trong số sáu ông họ Tô đời thứ hai ở liền một dãy hai bên ngôi nhà thờ thì ông bà ngoại thằng Huệ có cuộc sống bấp bênh hơn hết. Ông là khóa sanh (khóa sinh: người học để đi thi), thi hỏng, làm thầy thuốc, bà tiếp tục buôn hàng nằm và cùng ông trông coi nương vườn. Buôn hàng nằm năm được năm mất. Cau khô, thuốc lá mà tắt đường giao thông Huế – Hà Nội thì cơ nghiệp tan tành. Mạ đi lấy chồng hai bàn tay trắng. Cha thằng Huệ ra riêng cũng với hai bàn tay trắng, nửa thầy nửa thợ, một ít chữ nghĩa hết thời, chân yếu tay mềm chẳng kham nổi công việc nặng nhọc, tính tình nhút nhát, quá ư thận trọng, quá gắn bó với bàn thờ, mồ mã, họ tộc, xóm giềng.

Tụi bay có ăn học nhưng tình cảnh lúc này chẳng khác gì cha mạ lúc ra riêng. Con tiếng là bác sĩ nhưng nếu đi làm cho nhà nước thì lương lậu cũng chỉ vừa đủ gạo cơm mắm muối cho một mình, thằng Huệ lại đang tính chuyện bỏ nhà nước. Rốt cuộc cũng chỉ là hai bàn tay trắng. Mạ thấy hai đứa bay không thế không lo. Cuộc sống gia đình trăm thứ khó khăn nặng nề: Chỗ ăn, chỗ ở, con cái, bệnh tật, học hành… Sức khỏe như thằng Huệ mà tính chuyện đi Ban Mê Thuột để làm nương – vườn liệu có kham nổi những công việc nặng nhọc? Tại sao không tính chuyện đi Sài Gòn?

Tôi nói:

– “Mạ đừng lo. Thế nào tụi con cũng sống được. Hồi trước cha mạ cũng chỉ hai bàn tay trắng, rồi cũng gây dựng được gia đình, còn cho con cái đi học, còn đóng góp cho kháng chiến”.

Mẹ chồng tôi nói:

– “Hồi trước khác. Bây giờ khác. Hồi trước làm ăn riêng. Bây giờ làm ăn chung. Hồi trước chân yếu tay mềm thì đầu óc phải tính toán, lo toan. Bây giờ tụi bay chân yếu tay mềm, nhưng đầu óc thì bị cấm đoán. Ngày xưa nếu cha mạ bị cấm đoán, trói buộc thì mấy đứa lấy gì ăn học, kháng chiến lấy gì đóng góp. Chuyện kháng chiến đừng nên nhắc lại. Mạ coi như chúng nó đã chết rồi. Nhưng chuyện ăn học thì ở Huế dễ hơn Mỹ Lợi, Sài Gòn dễ hơn Ban Mê Thuột. Tụi bay không tính chuyện sinh con đẻ cái sao? Tình hình có thay đổi nên cho con theo nghề buôn bán. Nghề buôn bán đở nhọc cái thân, đầu óc khôn ngoan, lanh lợi ra”. (Ý mẹ chồng tôi là so sánh với nghề nông).

Câu chuyện giữa tôi và mẹ chồng sẽ còn tiếp tục nếu chúng tôi không về tới nhà. Về tới nhà, chúng tôi mỗi người mỗi việc theo sự cắt đặt của mẹ chồng tôi. Bà bảo tôi phụ giúp nấu ăn, chồng tôi xuống nương hái rau nấu canh chua. Bà lấy gạo vo, tôi nhóm bếp. Bà bảo tôi trông coi nồi cơm, bà đi làm cá. Tôi vừa trông bếp vừa quan sát bà làm cá, lột tôm. Tuổi đã ngoài bảy mươi mà hai tay bà vẫn còn nhanh nhẹn chính xác. Mấy phút sau chồng tôi mang từ dưới nương lên một mụt (gốc) chuối non (chuối thanh tiên), mấy bẹ môn tím, vài trái vả, mấy trái khế chín vàng, mấy trái ớt chín đỏ, rau lốt, rau răm, rau thơm, rau húng và một thứ rau mà sau này tôi mới biết tên: rau ngổ (mẹ chồng tôi gọi là rau ngổ điếc, trong nam gọi là rau ôm). Nhìn mớ rau tôi nhận ra nhiều thứ quen, vài thứ lạ. Rau ngổ tôi mới thấy lần đầu. Rau húng lủi, mẹ đẻ tôi – người Hội An rất thích, chúng tôi (ở Huế) chưa quen ăn. Mẹ chồng tôi chỉ cho tôi rổ, rá, dao, chậu rửa các thứ, bà bảo tôi xắt, lặt rau. Tôi hỏi bà về mụt chuối. Bà bảo:

– “Đó là chuối thanh tiên, giòn và ngọt hơn các loại mụt chuối khác, con cắt bỏ phần cứng và các bẹ ngoài, xắt thật mỏng theo chiều ngang, chia làm hai phần: phần mày (gốc non ở trên) để nấu canh, phần lõi để làm rau ăn sống”.

Tôi vừa xắt, lặt rau, vừa so sánh các thứ phụ gia để nấu canh chua ở Huế và ở Mỹ Lợi, vừa nghĩ về một bài viết của tác giả Từ Chi: Món ăn Huế, món ăn Mường (bản đánh máy tặng anh Chu Sơn trong một lần vào chơi Huế sau 1975). Theo ông Từ Chi: Giữa người Huế và người Mường có những món ăn gần gũi: Món “loọng” nấu bằng xương trâu, xương heo cùng với nguyên liệu thứ hai là “lõi cây chuối xắt ngang mong mỏng” người Mường nấu để đãi khách vào những đêm “hát mo” trong tang lễ. Ông nhớ lại những ngày chuyển mùa (nắng sang mưa), ngay cả những gia đình trong nội cũng nấu món ăn tương tự như thế. Nhiều năm ông băn khoăn tự hỏi cái món ăn tương tự món “loọng” của người Mường, người Huế gọi là gì? Sau 1975, ông có dịp trở về Huế, hỏi ra mới tìm được lời giải đáp: “Có gì lạ đâu: “lõm”. Loọng, “lọm”, hai biến tấu âm khác nhau của một từ thôi”. (Nguyễn Từ Chi – Góp phần nghiên cứu Văn Hóa và Tộc người – trang 126 nxb Văn hóa Thông tin – tạp chí Văn hóa Nghệ thuật – Hà Nội – 1996). Trước khi vào Huế sau 30 năm xa cách, ông đã nêu vấn đề với Mạ (ông) và các bà bạn gốc Huế của “Mạ” ở Hà Nội, các bà dứt khoát bảo không có món ăn nào của Huế như thế cả, hoặc các bà đã quên. Tôi tiếc là sau 1975 tôi không gặp được ông Từ Chi tại Huế để thưa với nhà học giả mà chồng tôi rất quí trọng rằng: Tôi đã lớn lên tại Huế 25 năm, tôi không biết có món ăn nào của người Huế tương tự như món “loọng” của người Mường cả, tôi cũng không thể “biến tấu” từ “lõi,” qua “lõm,” qua “lọm” và cuối cùng là “loọng”. Vả lại, người Huế cũng không lấy tên của một nguyên liệu phụ để đặt tên cho một món ăn. Ở nông thôn Thừa Thiên – Huế, tôi biết có một món dưa làm bằng lõi cây chuối sứ (xắt ngang) cùng cây kiệu (lá cắt từng đoạn, củ chẻ từng lát) được làm vào cuối năm để ăn kèm thịt heo mỡ kho ruốt trong dịp Chạp mã. Và đây là lần đầu tiên tôi theo lệnh mẹ chồng xắt lõi chuối thanh tiên để nấu canh chua và làm rau ăn sống.

 

Tôi đã làm xong các thứ theo sự chỉ dẫn của mẹ chồng. Tôi bỏ các thứ phụ gia theo từng nhóm trên rổ (mày chuối non, vả, khế, môn bẹ tím, cà chua, rau lốt, rau răm, ngò gai) và các thứ rau ăn sống (lõi chuối, rau thơm, rau húng và ớt) trên rá. Mẹ chồng tôi nói tiếc là mùa này chưa có thơm, chợ cũng không có măng chua. Bà sai tôi đem các thứ rau mùi ra xắt sợi và chuẩn bị chén đọi, lau bàn, dọn cơm. Tôi vừa thực hiện sự sai bảo của bà, vừa quan sát bà tiếp tục kho nấu. Cá rô đã rim xong, bà đang kho cá hanh, Món canh chua cá tràu bà nấu cuối cùng: khử dầu, um cá (đã ướp gia vị từ trước), lấy cá ra, đổ nước vào soong, bỏ mày chuối và vả vào nấu cho sôi chín, tuần tự bỏ môn tím, cà chua –  đợi sôi – lại bỏ cá đã um vào, nêm, bỏ rau mùi vào cuối cùng. Bà nói canh chua ăn nóng mới ngon.

 

Quan sát mẹ chồng nấu canh chua tôi có mấy nhận xét ban đầu sau đây: Nhìn chung: nguyên liệu chính (cá tràu, cá ngạnh, các loại chả cá như cá phát lát, cá rựa, cá nhồng, cá thu băm quết mịn…) và qui trình nấu chua của người Huế và người Mỹ Lợi không có gì khác biệt. Duy chỉ có nguyên liệu phụ, rau mùi, rau sống thì bên ít bên nhiều và cách chế biến có đôi chút khác nhau. Người Huế bấy giờ (1977) chỉ nấu canh chua với thơm, cà chua, măng chua, mỗi thứ một ít. Các loại rau mùi cũng ít hơn: ngò thì để nguyên cọng, hành cây thì xắt, chẻ từng đoạn dài và sợi mỏng, rãi lưa thưa trên mặt đọi canh sau khi đã múc. Rau sống ăn kèm thì người Huế quen ăn với bắp chuối sứ xắt sợi mỏng (không ăn lõi chuối cây), cọng rau muống chẻ nhỏ, ít cải con (nếu vào mùa) và vài lá rau thơm. Đọi canh chua của người Huế nước trong và loãng, có vẻ thanh cảnh và bắt mắt hơn đọi canh chua của Mỹ Lợi. Canh chua ở Mỹ Lợi nguyên liệu phụ nhiều hơn, tô canh đậm đặc hơn, chưa ăn tôi đã cảm nhận được nhiều mùi và vị đặc biệt ngoài mùi vị của nguyên liệu chính.

Canh chua nóng hổi, cá rô kho rim, cá hanh kho nước (Mỹ Lợi gọi là kho mẳn), nước mắm ngon xắn ớt đỏ và rau sống xanh, bụng đói, lòng vui…, từ sau khi rời nhà cha mẹ đẻ, tôi ít khi có được một bữa ăn ngon như thế.

Buổi tối cuối cùng của chuyến đi Mỹ Lợi lần thứ ba ấy, chúng tôi thức khuya để trao đổi về cuộc sống của mọi người trong gia đình những năm tháng sắp tới…Cha chồng tôi bảo nếu không trụ được ở Buôn Ma Thuột thì về làng…Mẹ chồng tôi thì khuyên nên về Sài Gòn… Chúng tôi ngủ say, bị thức giấc khoảng gần 4 giờ sáng hôm sau. Người đánh thức là mẹ chồng tôi. Bà nói:

– “Lên sớm cho mát thì không thể ngủ nán, còn phải ăn tí chút lót lòng. Buổi sáng không nên để bụng đói mà ra đi”.

Bắt buộc ngồi vào bàn ăn, tôi vô cùng áy náy. Là con dâu, chưa bị làm dâu, mà còn được phục vụ. Tôi không biết mẹ chồng tôi ngủ nghỉ thế nào trong đêm. Tôi không biết bà lấy gì để đong đếm thời gian: Nấu xôi, rang, đâm mè và gọi chúng tôi dậy để đi cho mát. Thấy tôi lúng túng, ngại ngùng, anh Chu Sơn bảo:

 – “Ăn thôi, người Mỹ Lợi không để bất cứ người khách nào ra khỏi nhà mình mà bụng đói vào sáng sớm, huống hồ gì em và anh”.

Buổi sáng hôm ấy tôi và anh Chu Sơn trên chiếc xe đạp đường đi từ Mỹ Lợi ra bến đò Diêm Trường, từ Diêm Trường đi đò ngang qua Hà Trung, từ Hà Trung lên Phú Thứ, lên Hương Thủy, lên Huế, tôi hỏi về những lời khuyên ngược chiều của hai ông bà, anh Chu Sơn trả lời bằng câu chuyện về cha mẹ mình:

– “Cha mạ ra riêng không chỉ với hai, mà bốn bàn tay trắng. Ông nội là lí trưởng, mất sớm, bà nội không nghèo khó, nhưng không giàu, và vườn thì không đủ rộng để chia cho ba ông con trai làm nhà. Hai ông bác có gia đình đã tạo dựng cơ ngơi riêng. Cha là con út, chưa có gì, nên ăn riêng, mà ở thì nửa riêng, nửa chung với bà nội.

Phía sau ngôi nhà rường ba gian hai chái của bà nội, cha mạ làm riêng cho mình một cái chòi tranh tre nền đất. Năm đứa con (một gái bốn trai) tuần tự ra đời cách khoảng ba năm một dưới mái tranh um khói hoàng hôn này. Một trong bốn đứa con trai đã chết vì bệnh đậu mùa khi mới hơn một tuổi. Điều này chứng tỏ cái chòi tranh úm khói đã tồn tại lâu dài, đã chứng kiến không chỉ một giai đoạn sống của một gia đình mà cả cái chết. Cái chòi tranh nhỏ không đủ cho chừng ấy con người nên cánh đàn ông con trai lên ngủ nhà trên với bà nội. Cái chòi tuy là của riêng của cha mạ nhưng nó nằm trong khuôn viên của khu nhà rường sẽ là của hương hỏa – phần của ông con trai trưởng. Ông bác, người sẽ trông coi hương hỏa, thấy gia đình chú em cứ “ở lì” sẽ là trở ngại khi bà nội qua đời, nên ngày càng gia tăng áp lực với bà nội để rồi xẩy ra xung đột con dâu – mẹ chồng, và định kiến anh chồng – em dâu ngày một sâu sắc. Trong căn chòi úm khói, mạ không chỉ ngày đêm lo toan chuyện làm ăn mà còn phải tính toán tích góp các điều kiện để nhanh chóng thoát khỏi các bức xúc oan uổng. Nhưng khó khăn không chỉ từ các điều kiện vật chất mà còn từ cái tính thận trọng, rụt rè, cầu toàn trách bị của cha. Cha không muốn ở quá xa bàn thờ. Cha không muốn có một sự thay đổi đột ngột và quá lớn. Cha không muốn vứt bỏ nghề nông để chuyển hẳn sang nghề buôn bán bởi vì suy nghĩ là “nông tang vi bản”. Do vậy mà mạ đã bỏ những cơ hội thoát khỏi tình trạng chung đụng với đại gia đình để được tự do làm ăn sinh sống theo hướng thương mại. Ba lần muốn mua vườn riêng ở làng (trước 1952), một lần muốn chuyển cư lên Huế (1952), một lần muốn ở lại Đà nắng (sau biến cố Mậu Thân) đều không thực hiện được.

Từ căn chòi úm khói, để gần gủi bàn thờ và bà nội, cha quyết định ra riêng bằng việc san lấp động cát phía sau vườn nhà bà nội để làm nền móng và khuôn viên cho cái nhà rường một căn hai chái mua lại của một thầy giáo trường tổng. Căn nhà rường không chạm trổ nhưng khá đẹp và kiên cố được làm bằng gỗ thượng hạng (cột kèo bằng gõ, đòn tay kiền kiền). Cô Hoa con gái út của cha mạ được sinh ra trong căn nhà này, cách chú Ân (con trai út) 12 năm. Có được nhà rường và chỗ ở độc lâp, sinh con gái út nhưng sức khỏe và sự làm ăn của mạ ngày một sa sút. Đất nước bị chia cắt, đứa con trai đầu (anh Tuệ) đi tập kết, đứa con gái đầu (chị Mau) đi lấy chồng, đứa con trai thứ (là anh) lên Huế học trung học, đứa con trai út (chú Ân) trở nên phá gia chi tử, việc buôn bán cau khô (với miền Bắc) bị ngưng hẳn, trước tình cảnh ấy sức khỏe mạ ngày một sút giảm trầm trọng hơn. Sau này mới phát hiện mạ bị lao phổi. Chắc là căn nguyên bịnh lao phổi của mạ là do lao động, nhịn nhục quá sức trong mấy chục năm liền, trước mắt là do thương nhớ đứa con trai tuấn tú hiền hậu đi tập kết chẳng biết bao giờ về, và phiền muộn vì đứa con trai út còn tuấn tú hơn trở nên hư hỏng (trong ba đứa con trai còn sống, anh là đứa ốm yếu và xấu xí nhất). Người có kiến thức y tế đầy đủ chữa bệnh lao trong vòng một hai năm (lúc bây giờ) là dứt hẳn. Anh mù mờ về căn bệnh nan y, lại thường xuyên vắng nhà nên chữa bệnh cho mạ gần 10 năm.

Trong 10 năm đương đầu với căn bệnh nan y, cha mạ cứ tưởng là ngôi nhà rường và phong thổ là nguyên nhân dẫn đến bệnh hoạn nên quyết định bán ngôi nhà rường, mua một khu đất rộng hơn thành lập khu vườn làm nơi an dưỡng tuổi già (lúc bấy giờ chưa biết đất bị nhiễm khuẩn). Khu vườn cha mạ đang ở xây dựng năm 1965. Năm 1968 khi chạy lánh nạn chiến tranh, mạ muốn ở lại Đà Nẵng, nhưng cha quyết định trở về với bàn thờ, mồ mã tổ tiên, với nhà cửa nương vườn xanh tươi thoáng rộng, với họ hàng xóm giềng bà con thân thuộc.

Anh đã nói với em là cha mạ bắt đầu cuộc sống gia đình với bốn bàn tay trắng, vậy ông bà đã làm gì, làm sao vượt qua đói nghèo, hóa giải các mối xung đột nội thân và những khổ nạn chung – riêng để tiếp tục sống chờ ngày đất nước thống nhất, gặp lại con, nhìn thấy cháu?

Không có đất – thuê đất. Không có ruộng – thuê ruộng. Không đi biển được – chung vốn làm ghe, dệt xăm làm lưới và chế biến mắm ruốc. Nhưng làm đất, làm ruộng, làm biển với bàn tay thư sinh và con nhà buôn là vấn đề nan giải. Cha mạ không thể gánh phân từ ngoài bến vô đồng, không thể cáng đáng những công việc nặng nhọc trên ruộng đồng và trên biển. Do vậy, việc gì cần sức vóc thì thuê người có sức vóc, việc gì cần nhiều bàn tay hơn cho kịp thời vụ thì kết hợp với xóm giềng. Nhiều người muốn làm thuê, làm chung với mạ vì bữa ăn mạ nấu vừa đầy đủ vừa ngon và công cán do mạ chi trả bao giờ cũng hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, việc làm ruộng, làm đồng trên những mảnh đất ruộng manh mún chỉ giả quyết được những nhu cầu cấp bách. Để có của dư của để cần phải kết hợp làm nông, làm thủ công và buôn bán. Trồng dâu, nuôi tằm kết hợp với dệt thao, dệt lụa, dệt đủi, dệt vải, dệt xăm. Trồng đậu phụng kết hợp với ép dầu. Trồng thuốc lá kết hợp với trữ thuốc lá. Và đặc biệt: không có vườn thì bửa cau không chỉ lấy công làm lời mà còn mua trữ cau khô đợi đến cuối mùa bán cho người buôn chuyến. Từng bước mạ dành nhiều thì giờ, công sức cho việc buôn bán hàng nằm. Ngôi nhà rường ba gian hai chái của mệ nội và cả ngôi nhà rường một căn hai chái của ông nội chú ở bên cạnh nhiều năm liền đầy ắp cau khô và thuốc lá của mạ. Nhiều năm liền khi đường sắt Huế - Hà Nội thông thương, mạ trở thành người “có tiền” ở trong làng.

Và những năm kháng chiến mạ đã tham gia đánh Tây bằng cách đóng góp một phần của cải tích góp được. Năm 1952 Tây chiếm khu Ba – Phú Lộc, trường trung học Lâm Mộng Quang chuyển lên chiến khu, mạ tức tốc lên Huế thuê nhà để anh Tuệ tiếp tục đi học (Mạ muốn rời Mỹ Lợi lên Huế trong dịp này, nhưng cha không chịu).

Năm 1956 anh học xong tiểu học, một mình làm đơn thi vào lớp đệ thất trường Nguyễn Tri Phương. Thi đậu. Mạ ủng hộ việc đi Huế của anh. Theo mạ buôn bán là việc của người lớn và học là công việc của trẻ em. Nhưng kháng chiến là công việc của mọi người. Mạ nuôi che cán bộ – đóng góp cho kháng chiến, anh làm liên lạc. Mạ muốn chúng ta đi Sài Gòn vì những suy nghĩ như thế.

Một câu chuyện bên lề để em biết thêm về mạ: Đầu năm 1945 trên biển Mỹ Lợi xuất hiện những bành cao su nguyên chất (sau này đọc sách mới biết cao su chuyển vận trên những tàu Nhật bị máy bay Mỹ đánh chìm), ngư dân vớt bỏ rải rác trên bãi, nhưng chẳng biết làm gì. Mạ mua tất cả và thuê họ đem chôn trên động cát phía sau lùm. Sau 1954 trong những chuyến hàng do các cơ sở bí mật tổ chức tiếp viện cho miền Bắc, mạ gởi những kiện cao su này”.

 

Đi Ban Mê Thuột, đến nơi chúng tôi mới biết Đaklak đang ở trong thời kỳ ông Lê Duẩn – Tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam và ông Trần Kiên bí thư tỉnh ủy Đaklak ráo riết chuẩn bị các thứ để xây dựng nơi này thành một “công trường Xã hội Chủ nghĩa vĩ đại” và là “thủ đô của các nước anh em trong liên bang Đông Dương”. Tôi tối tăm mặt mày với những trận dịch sốt rét, kiết lỵ, dịch hạch, sốt xuất huyết, viêm não…ở khoa nhi bệnh viện tỉnh. Anh Chu Sơn điên đầu trước công cuộc đưa đất nước tiến nhanh – tiến mạnh lên Xã hội Chủ nghĩa của đang Cộng sản và bị lao phổi nặng. Tôi sinh con trai đầu (Trần Khải Xuyên), sức khỏe ở trong tình trạng báo động do thiếu thốn, lại làm việc 10 tiếng mỗi ngày (theo qui định của tỉnh Đaklak lúc bấy giờ). Chiến tranh với Campuchia ở biên giới tây – nam, với Trung Quốc ở biên giới phía bắc. Những biến cố lớn của đất nước góp phần tác động trầm trọng vào cuộc sống của mấy trăm ngàn người Đaklak và của bản thân gia đình chúng tôi. Không còn đủ sức tiếp tục ở Buôn Mê Thuột, chúng tôi quyết định về Đà Nẵng chứ không về Mỹ Lợi theo yêu cầu của cha chồng, cũng không đi Sài Gòn theo lời khuyên của mẹ chồng, và cũng chẳng vượt biên theo sự dẫn giải của bác Nguyễn Đình Hối, thân sinh của Nguyễn Thị Hoài, bạn tôi, là bác sĩ đang hàng ngày “bắt muỗi” ở viện Vệ sinh dịch tể Tây Nguyên. Bác Nguyễn Đình Hối lên Ban Mê Thuột để xắp xếp cho Hoài về Sài Gòn lo chuyện vượt biên. Bác Hối đến thăm, ở lại nhà chúng tôi, khuyên nhủ tôi: “Cháu nói với chồng là không ở với người Cộng sản được đâu. Bác đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đã có kinh nghiệm thực tế sống chung với người Cộng sản. Sau 1954 bác tham gia chống Mỹ nhưng đồng thời cho con trai (anh của Hoài) đi du học, mua nhà ở Sài Gòn làm trạm chuyển tiếp. Nhiều gia đình bà con, bạn bè bác ở Huế cũng làm như vậy”. (bác Nguyễn Đình Hối là chủ tiệm buôn Tân Tân đường Trần Hưng Đạo – Huế).

 

Những lý do để chúng tôi quyết định về Đà Nẵng, sau này nhớ nghĩ lại, có phần ngớ ngẩn và hàm hồ như bản thân cuộc sống. Bởi rất khó để có một chọn lựa chính xác trong tình thế mà mấy trăm năm trước Ôn Như Hầu – Nguyễn Gia Thiều đã mô tả trong Cung Oán Ngâm Khúc: “Cái quay búng sẵn giữa trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.

Chúng tôi về Đà Nẵng vào đầu năm 1980. Chữa bệnh cho anh Chu Sơn và nói một cách khoa trương rằng tạm ổn định cuộc sống gia đình mất hai năm. Đầu năm 1982 tôi sinh cháu gái (Trần Hảo Nhiên). Trong hai năm đó, vài ba lần anh Chu Sơn đưa Khải Xuyên ra Mỹ Lợi thăm ông bà nội. Giữa năm 1983, chuyến đi Mỹ Lợi lần thứ tư của tôi có thêm Hảo Nhiên hơn một tuổi, vị chi là bốn người. Từ đó cho đến khi cha mẹ chồng tôi vào Đà Nẵng ở với chúng tôi (1988), hằng năm vào mùa hè, tôi chia hai thời gian nghỉ phép (15 ngày) làm hai, nửa đi Mỹ Lợi, nửa đi Huế. Mẹ chồng gặp lại tôi sau hơn sáu năm xa cách đã nói điều mà tôi phải hỏi anh Chu Sơn mới hiểu hết: “Con là bác sĩ mà chẳng hơn gì mạ. Con nghe thằng Huệ đi lui để nhận phần cực về mình”. Anh Chu Sơn dẫn giải: “Mạ cho rằng quyết định về Đà Nẵng là của anh, em chỉ việc nghe theo. Mạ vẫn trách chúng ta sao không đi Sài Gòn. Trong đời mạ, mạ ấm ức là ba lần nghe lời cha để rồi không mua vườn, ở riêng, cứ quanh quẩn bên bà nội, và hai lần không bỏ được làng để đi Huế (1952), và Đà Nẵng (1968). Mạ nói chúng ta từ Ban Mê Thuột quay lui Đà Nẵng là để gần nhà, gần làng để lo cho cha mạ: Như thế là chỉ có cực mà thôi.”

Quan hệ giữa tôi và mẹ chồng còn lưu lại trong ký ức tôi rất nhiều những kỷ niệm sâu đậm. Ở đây tôi ghi lại vài chuyện rời vì nghĩ rằng nó không nhàm chán đối với bạn đọc:

 

*Chuyện mắm nêm

 

Trong sáu lần đi nghỉ phép thường niên ở Mỹ Lợi có ba lần chúng tôi được ăn mắm nêm. Không phải là chuyện tình cờ, mà là chủ ý của mẹ chồng tôi: “Thằng Huệ sắp đưa vợ con về”. Từ vài năm trở lại, mẹ chồng tôi không còn đi chợ được nữa, bà nhờ người cháu gái nhà kế cận đi chợ. Chị ấy kể: “Bà mệ dặn rất kỹ: mua cho được cá cơm sọc đỏ (cá cơm huyết), thật tươi và đều con, cở bằng đầu chiếc đũa ăn cơm. Có cá cơm rồi, bà nhờ thằng con tui chạy ù ra biển lấy nước về rửa cho kịp. Tụi tui làm mắm nêm thư thả hơn, không chọn cá kỹ như vậy và chỉ rửa bằng nước muối pha loãng”.

So với ba lần về Mỹ Lợi đầu tiên, những lần đi phép thường niên của tôi ở quê chồng vui và rộn rã hơn. Tôi và cha mẹ chồng đã thân quen, gần gũi nhau hơn, các con tôi làm cho ngôi nhà của hai người già trở nên sinh động. Tôi chủ động hơn trong công việc bếp núc. Đặc biệt những bữa ăn mắm nêm cứ như là những bữa tiệc, hơn rất nhiều những bữa tiệc tự chọn thức ăn ở thành phố. Bữa tiệc mắm nêm của chúng tôi ở Mỹ Lợi còn có sự tham gia chuẩn bị của các thành viên trong gia đình. Trong lúc tôi và mẹ chồng nấu nướng. Khải Xuyên và Hảo Nhiên theo bố ra vườn lục tìm rau trái theo sự chỉ dẫn của ông nội. Ông là người làm vườn, ông biết nên hái thứ gì, ở đâu. Ông ngại anh Chu Sơn và hai đứa cháu nội làm càn, gây hại không cần thiết cho các cây ông trồng và bảo dưỡng. Ông cũng biết nhu cầu của người làm bếp chúng tôi. Ông còn phải trả lời những câu hỏi không bao giờ dứt về cây trái hoa lá của Khải Xuyên.

Mẹ chồng tôi ngồi trên chiếc ghế đặt cạnh bếp để vừa chỉ trỏ cái này cái kia, vừa dặn dò tôi về cách thức làm mắm nêm. Bà nói:

 –“Ở Đà Nẵng thỉnh thoảng cũng mua được cá cơm sọc đỏ tươi, Con chọn những mớ cá đều con, cở bằng đầu chiếc đũa ăn cơm. Cá lớn quá xương cứng, thịt nhiều, ướp nhiều muối thì mắm mặn – ít thơm, ít muối thì sanh thúi (thối). Cá nhỏ quá thì mắm sẽ mau nát, mùi vị nhạt nhẽo. Cá bằng đầu chiếc đũa thì ướp một muối – bảy cá, cá lớn – nhỏ hơn một chút thì tùy đó mà gia giảm muối. Phải là muối sống và sạch. Cá phải rửa bằng nước biển và rửa tay thật kỹ trước khi mó tay vào cá. Cá tươi và sạch thì mắm nêm mới thơm ngon và có màu sắc đẹp. Mắm ngon và có màu sắc đep còn tùy thuộc vào thời gian mắm chín. Tốt nhất là bảy – tám ngày. Mắm chín quá thì nát, ít thơm. Mắm ăn vội (chưa chín) thì tanh. Nhà ít người chẳng nên ham hố mà làm nhiều. Nhắm vừa đủ để ăn một hai bữa. Mắm nêm hở gió sẽ có màu đen xỉn rất khó coi và hết thơm.

Thịt heo luộc mềm (thịt ba chỉ là tốt nhất), rau sống tươi, đầy đủ các thứ với phẩm chất cần thiết (khế, ớt phải chín, vả không già, rau non và không bầm…) càng làm cho bữa ăn mắm nêm ngon miệng, ngon mắt”.

Trong lúc chúng tôi đang nấu nướng và chuyện trò thì anh Chu Sơn mang từ vườn vào với các thứ rau trái: một trái thơm chín, mấy trái khế chín vàng, mấy trái vả xanh, mấy trái ớt đỏ, một mụt chuối thanh tiên non và các thứ rau mùi: rau thơm, rau húng lủi, rau tía tô, rau ngổ điếc, rau ngò gai và cả mấy cây rau “chúa lẻ” (một loại rau mọc hoang đứng lẻ loi một mình đâu đó trong vườn, có vị chua chua – chát chát rất đặc biệt).

Mẹ chồng tôi vừa chỉ cho anh Chu Sơn gọt thơm và cắt thành miệng để ăn trán miệng và xắt lặt rau để ăn ghém, vừa bày tỏ một điều tiếc là thiếu chuối chát. Trong lúc đó Khải Xuyên, Hảo Nhiên còn lẻo đẻo theo ông nội để hỏi han gì đó ở ngoài vườn.

Khi tôi nấu nướng xong, đã bày biện các thứ lên bàn, mẹ chồng tôi mới chỉ thẩu mắm nêm ở trên tủ ăn, bà bảo: “Cũng như canh cá trau nấu chua, mắm nêm nên dọn sau cùng. Con lấy mắm ra hai chén. Một chén cho nhà mình và một chén cho nhà chú Phú” (nhà chú Phú là nhà người cháu gái đi chợ giúp). Từ sáng sớm tôi đã ngửi thấy mùi mắm nêm thơm nhẹ đâu đó. Khi tôi dùng đũa gắp cái vĩ đậy ra khỏi miệng thẩu, mùi mắm tỏa thơm nức cả khu bếp. Mẹ chồng tôi gọi chị cháu gái xuống lấy mắm. Chị hít hà mừng rở cám ơn rối rít. Cha chồng tôi nghe mùi mắm nêm, đưa hai cháu tới giếng rửa ráy tay chân. Mọi người tề tựu vào bàn ăn.

Phần mắm “cho nhà mình” tôi chia thành ba chén nhỏ. Một chén cho ông bà. Một chén để anh Chu Sơn bày cho Khải Xuyên ăn món đặc sản của quê nhà. Một chén cho tôi và Hảo Nhiên để Hảo Nhiên khỏi vấy vít. Hảo Nhiên là đứa biếng ăn, nhưng món mắm của bà nội thì tôi bón không kịp. Tôi vừa chú ý chọn phần mắm nạt không xương để bón cho con, vừa nôn nao phần mình. Vài lát khế, lát vả mỏng, một lát thịt ba chỉ luộc, một con mắm và mấy cọng rau chuối, rau mùi các thứ… là một miếng ăn vô cùng hấp dẫn mà sau này nhớ lại tôi mới nhận ra các mùi thơm thảo, các vị mặn ngọt, chua cay, giòn béo hàm chứa trong đó là do cái gì? Là phụ nữ Huế –  người bạn thân thiết của các loại mắm, tôi có lạ gì mắm nêm do mẹ tôi làm, mắm nêm mua từ chợ. Tôi đã ăn bao nhiêu lần không nhớ hết món rau muống hồ Tịnh Tâm luộc tướt nhỏ chấm mắm nêm, thịt phay chấm mắm nêm, và đã bao nhiêu lần hít hà ràn rụa nước mắt với món bún mắm nêm ớt đỏ. Nhưng lần đầu ăn mắm nêm do mẹ chồng làm để “chờ thằng Huệ đem vợ con về” là không thể lẫn lộn. Trong cái đặc biệt của một món ăn địa phương còn chứa cả tấm lòng của một Bà Mẹ.

 

*Chuyện chiếc áo may – ô.

Đầu năm 1988 cha mẹ chồng tôi không còn đủ sức để “tự lực cánh sinh” ở Mỹ Lợi, chúng tôi đã đón ông bà vào Đà Nẵng. Trong khi sắp xếp các thứ ông bà mang theo vào tủ, tôi tìm thấy một chiếc áo may – ô ba lổ rách bươm được gói cẩn thận trong một tấm lụa tơ tằm đẹp còn nguyên vẹn. Cái gói bất thường làm tôi tò mò. Tôi muốn đem vứt bỏ chiếc áo may – ô, nhưng không dám. Tôi hỏi. Mẹ chồng tôi giẫy nẩy bảo: “Con cứ để nguyên gói, bỏ vào bao gối cho mạ”.

Tôi nói đã thay cái gối mới, cái áo may – ô quá cũ, mạ giữ làm gì. Mẹ chồng tôi rơm rớm nước mắt nói:

– “Đó là cái áo thằng Tuệ bỏ lại sau khi đi tập kết. Mạ đã để dưới gối suốt mấy chục năm, nhiều đêm nhớ nó quá mạ đem ra hôn hít và khóc một mình. Thằng Tuệ là đứa con thông minh, thật thà và dễ thương nhất của mạ. Cả làng Mỹ Lợi và cả những người quen trên Huế, ai cũng thương, cũng muốn kết thân với nó…”.

Tôi cắt ngang câu nói của bà: nhưng anh Tuệ đã về, vẫn mạnh khỏe…và thành đạt, mạ còn giữ cái áo đó làm gì. Mẹ chồng tôi nói:

– “Cái áo này là của thằng Tuệ ngày xưa của mạ: thông minh, thiệt thà, tốt bụng. Còn ông Tuệ ngày nay thì mạ nhận không ra. Chẳng biết chánh phủ Cộng Sản đã làm gì để nó ra nông nổi này. Ông ấy dối trá, khoe khoang và lương lẹo. Ông ấy khoe là cha vợ làm tướng làm tá gì đó to lớn lắm. Ông ấy còn khoe có hai ba cái nhà ở Sài Gòn. Ông ấy nài nỉ cha mạ vào để ông ấy phụng dưỡng. Cha mạ không đi, ông ấy nài nỉ… Nhưng khi cha mạ nhận đi thì ông viện cớ này, cớ nọ… Khi thì để chuẩn bị chỗ ăn chỗ ở cho tươm tất mới đón cha mạ vào. Khi thì chờ vợ đi công tác ngoại quốc về. Khi thì tìm thuê người giúp việc chưa ra”…

Tôi nói:  

– “Mạ đã ghét anh Tuệ đến thế thì giữ cái áo để làm gì”.

Mẹ chồng tôi nói:

– “Thằng Tuệ con mạ thì làm sao mạ ghét nó được. Nhưng đau lòng thì không sao cho hết. Ngày xưa dù khó khăn thế nào mạ cũng cố sức cho nó đi học để nó thông minh thêm, giỏi giang thêm, tốt bụng thêm. Mạ cũng thuận theo lẽ phải để nó đi tập kết. Cuối năm 1954 cha nó theo ghe chở hàng ra miền Bắc thăm nó, mạ gởi mấy chục bành cao su, mấy chục thùng dầu lửa, ý là góp thêm để chánh phủ có cái nuôi nó thành người. Chẳng biết chánh phủ đã dạy dỗ, nuôi nấng hay hành hạ nó thế nào để nó ra thân thế tệ hại như ngày nay. Mạ thương cái thằng Tuệ thông minh, thật thà, tử tế của mạ. Mạ không thể thương được cái ông quan tên Tuệ khoe khoang, dối trá và lương lẹo. Cả làng Mỹ Lợi đói mà ông ấy khoe có hai ba cái nhà. Nó ở miền Bắc đói khổ hai chục năm, mới vào Sài Gòn có mấy năm làm sao có được hai ba cái nhà…?”

 

*Chuyện cái phong bì của ông Phan Trung Thu

 

Ông Phan Trung Thu là một trong nhiều ông cán bộ được mẹ chồng tôi che chở, nuôi dưỡng thời chống Pháp và thời Ngô Đình Diệm tố Cộng, diệt Cộng. Sau 1975, từ Hà Nội, ông được điều về làm giám đốc nhà máy cao su Sao vàng Đà Nẵng. Nhà máy rất lớn, trực thuộc trung ương. Ông là nhà quản lý giỏi được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Nghe cha mẹ chồng tôi vào Đà Nẵng hai vợ chồng ông đến thăm. Ông đem đến một phong bì tiền nói là để chú Huệ mua thức ăn cho ôn mệ. Cha mẹ chồng tôi nói: “cám ơn và mừng chú được phong Anh Hùng, nhưng tiền bạc thì cô chú mang về, chúng tôi già rồi ăn uống chẳng được bao nhiêu, vợ chồng thằng Huệ còn lo được”. Vợ chồng ông Phan Trung Thu ra về, một mực để phong bì lại. Mẹ chồng tôi bảo: “Thằng Huệ đem phong bì trả cho vợ chồng chú ấy ngay trong chiều nay”. Cha chồng tôi bảo: “Người ta có lòng, nhận cho người ta vui”. Nhưng mẹ chồng tôi dứt khoát: “Mấy năm sau giải phóng, thấy thằng Tuệ thân tàn ma dại trở về, cùng người Mỹ Lợi ăn trầu thay cơm, tôi tiếc là ngày xưa đã cưu mang họ, đã chịu tra tấn, tù tội, đã mất rất nhiều tiền hối lộ mới được tha. Tôi xem như họ đã chết rồi. Vợ chồng thằng Huệ chịu khó nuôi cha mạ, đừng bắt cha mạ ăn tiền của người đã chết. Đem phong bì trả lại cho người ta đi”.

 

*Chuyện quì lạy

 

Năm 1999 cha chồng tôi qua đời tại Mỹ Lợi. Chúng tôi về làm đám tang. Anh Tuệ con trai trưởng nhưng không đứng làm chủ tang, không chịu quì lạy theo nghi lễ. Chị Nhu con dâu trưởng, theo như anh Tuệ nói là bận đi công tác ngoại quốc không về kịp. Anh Chu Sơn và tôi là con trai và dâu thứ cùng với mọi người khác trong gia đình nghiêm túc chấp hành nghi thức tang lễ theo phong tục của Mỹ Lợi. Sau lần quì lạy thứ nhất, mẹ chồng tôi kêu riêng tôi ra nói: “Mạ thấy con quì lạy chứ không xếp bè he ngồi lạy như những người khác, phụ nữ mà quì lạy giơ mông, giơ đít cho người ở sau coi không được mắt”. Năm ấy tôi 49 tuổi, nghe lời mẹ chồng, nhiều lần chắp tay cúi lạy theo tư thế ngồi xếp bè he (khác với tư thế quì lạy mà tôi đã quen từ thuở còn thơ ở Huế), và lo toan mọi việc cho đến khi hết tang lễ. Người rã rời, nhưng lòng thì nhẹ nhàng len lén một niềm vui vì đã tránh được một cử chỉ vô tình nhưng chướng mắt trước bà con họ hàng Mỹ Lợi. Mấy năm rồi cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh, có dịp quan sát người phụ nữ miền Nam thực hành tư thế lạy ngồi xếp bè he trong các lễ hội dân gian, tôi nhớ lời nhắc sửa của mẹ chồng 15 năm trước và nghĩ về cuộc giao lưu tương tác giữa Mỹ Lợi – Huế và miền Nam trong suốt mấy trăm năm. Theo tôi giữa Mỹ Lợi và miền Nam thuở trước có hai điểm rất gần gũi, đó là mô hình qui hoạch, thiết kế, cách làm vườn và cách thực hành nghi lễ lạy của người phụ nữ. Còn chuyện bánh chưng, canh chua và mắm nêm… nữa, có những dấu ấn đậm nhạt khác nhau nào đó của miền Bắc, của Mường, của Quảng Xương – Thanh Hóa, của Thuận Hóa – Quảng Nam, của Chăm, của Khờ me - Nam bộ, và xa hơn nữa… nơi một Mỹ Lợi tôi chưa sáng tỏ. Anh Chu Sơn nói tiếc là không có anh Từ Chi để cùng nhau tiếp tục câu chuyện Món ăn Huế –  món ăn Mường và cội nguồn dân tộc.

 

Anh chồng tôi

 

Câu chuyện chiếc áo may-ô và những tâm sự của mẹ chồng làm tôi băn khoăn và tò mò về ông anh chồng. Băn khoăn về cách ứng xử thế nào cho thuận hợp phải phép trong tư cách một thành viên trong gia đình lớn. Tò mò trong tư cách một bác sĩ, một thầy thuốc trước đối tượng mà tôi nghi ngờ là một con bệnh.

 

Ông Tuệ có đến nhà tôi năm ba lần hồi cha mạ chồng tôi ở với chúng tôi tại Đà Nẵng. Tôi còn gặp ông Tuệ hai lần trong đám tang của ông bà nội các cháu vào năm 1999 và 2006. Lần cuối cùng tôi gặp ông khi ông nằm trong quan tài tại lễ đường bệnh viện 108 (thành phố Hồ Chí Minh). Tôi cũng tiếp cận ông anh chồng hai lần qua chị Nh – vợ ông, vài ba lần qua cháu Tr và cháu Th con trai đầu và con trai thứ của ông. Cháu H con trai út của ông nhiều lần đến nhà chúng tôi ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi còn gặp ông Tuệ gián tiếp qua những câu chuyện của chồng tôi, anh Chu Sơn, trong suốt những năm tháng chúng tôi cộng nghiệp. Những gì tôi viết sau đây về ông Tuệ – anh chồng tôi – là kết tập những điều gì tôi nghe thấy cộng với những suy nghĩ của riêng mình.

Ông Tuệ sinh năm 1937, học tiểu học tai trường Tổng (tổng Diêm Trường) ở Mỹ Lợi (1943-1948), học trung học Lâm Hồng Quang trong vùng kháng chiến (1949-1952) và tư thục Nguyễn Du Huế (1952 – 1953). Năm 1953 thi đậu Diplôm. Niên khóa 1953 – 1954 là học sinh lớp đệ tam trường Khải Định (Quốc Học) – Huế. Đầu 1955 tập kết ra Bắc. Năm 1956 tốt nghiệp trung học phổ thông (hệ 10 năm) tại Đồng Hới - Hà Tĩnh; ông Tuệ được triệu tập ra Hà Nội chuẩn bị các thủ tục du học Liên Xô. Được vào phủ Chủ tịch găp “Bác Hồ” cùng nhóm “chuẩn sinh viên du học”. Ngày đi Liên Xô, một mình ông Tuệ không được lên tàu. Ông bị đưa trở lại Đồng Hới. Lý do là “ông đã khai man lý lịch”: “Là con địa chủ nhưng ông Tuệ đã khai là con nông dân, theo lệnh Mỹ Ngụy làm gián điệp ra miền Bắc chun sâu leo cao chống phá cách mạng lâu dài”. Tại Đồng Hới ông bị hội đồng hương và công an thẩm vấn nhiều ngày, cuối cùng bị đuổi ra khỏi khu tập thể học sinh đồng hương Thừa Thiên – Huế vì là thành phần phản động nghiêm trọng. Nguyên nhân của vụ việc này là ông không chịu cưới cô Ph T X, con gái ông Ph S, chủ tịch hội đồng hương. Ông Ph S người Mỹ Lợi, đảng viên Cộng sản từ thập niên 30, năm 1945 làm chủ tịch ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế, tham gia kháng chiến 9 năm. Sau Genève Ph S tập kết ra miền Bắc, làm công tác đảng và chủ tịch hội đồng hương Thừa Thiên – Huế. Ph T X con gái ông tập kết cùng cha và anh trai (Ph S). Cả hai anh em đều tham gia kháng chiến, Ph T X và Ph S đang học bổ túc văn hóa. Ph T X lớn hơn ông Tuệ mấy tuổi, không có nhan sắc, lại tỏ ra ta đây là con quan thần thế. Ông Tuệ không muốn có một người vợ như thế. Vả lại ông còn nhỏ tuổi, đời ông còn dài, ông muốn học tập lên cao và sẽ trở về miền Nam khi đất nước thống nhất, ở đó ông có những người bạn gái dịu dàng, xinh đẹp hơn Ph T X nhiều.

Bị đuổi ra khỏi hội đồng hương và khu tập thể học sinh, ông Tuệ lâm vào tình trạng nhục nhã, khốn đốn. Ông không biết đi đâu, về đâu, làm gì để có chỗ ở, có cái ăn cái mặc hằng ngày trong bối cảnh ở miền Bắc đảng Cộng sản đã hoàn thành cải cách ruộng đất, cải tạo trí thức và văn hóa văn nghệ, cải tạo công thương nghiệp; đang từng bước củng cố chính quyền công nông binh, hình thành các tổ chức quần chúng: thanh niên, phụ nữ, nông hội, công đoàn, mặt trận để trói buộc quần chúng. Ông Tuệ không dính vào đâu trong cái xã hội miền Bắc lúc bấy giờ. Ông sống dở, chết dở bên lề xã hội. Hơn thế nữa, trước mắt nhiều nguời, ông trở thành “kẻ nguy hiểm”: “Là con địa chủ, là phần tử được Mỹ - Ngụy đưa ra miền Bắc với âm mưu “chui sâu, leo cao chống phá cách mạng”. Nhiều đồng hương xì xầm mắng nhiếc ông. Nhiều người khác tránh mặt khi gặp ông đâu đó trên đường. Nhiều người khác biết ông bị vu oan nhưng sợ quyền lực của ông Ph S và hội đồng hương nên không hó hé gì. Ông Phan Trung Thu và bà Phan Thị Quế - họ hàng ruột thịt với ông Phan Sung - hai người được mẹ chồng tôi che chở chăm nuôi trong chiến dịch tố cộng, diệt cộng, đầu năm 1956 vượt tuyến ra miền Bắc, cũng có mặt ở hội đồng hương nhưng không làm gì để minh oan cho ông Tuệ. Không gia đình, không đồng xu dính túi, không họ hàng lân lý, không bạn bè trường học, không hội đoàn, không tổ quốc. Ông lang thang rày đây mai đó, đầu đường xó chợ, đói lạnh, run sợ, tuyệt vọng, căm hờn. Nhiều lúc ông toan tính tự tử để chấm hết cái tình cảnh phi lý, khốn cùng ông đang gặp phải. Nhưng rồi cái phi lý cùng cực không dừng lại ở đó.

 

Đầu năm 1957, một đêm ông đang run cầm cập trong một xó chợ Đồng Hới, thì hai người dân quân xuất hiện, bắt ông đưa về đồn công an. Công an bảo ông nên thành khẩn khai báo về những liên hệ giữa ông và “bọn Nhân Văn Giai Phẩm”. Ông Tuệ nói không biết gì về “bọn Nhân Văn Giai Phẩm” cả. Công an chìa ra một xấp giấy. Ông Tuệ nhận ra đó là bài thơ Chống tham ô lãng phí Phùng Quán viết tặng ông trong lần gặp thứ hai. Hè 1956, từ Nghệ An vào Đồng Hới thăm hội đồng hương và các học sinh Thừa Thiên – Huế tập kết, Phùng Quán đem theo mấy tập Vượt Côn Đảo làm quà. Người có kẻ không. Riêng ông Tuệ ngoài tập Vượt Côn Đảo, Phùng Quán còn tặng thêm bài Chống tham ô lãng phí chép tay với lời căn dặn. “Làm thơ thế này mới xây dựng được đất

nước…”

 

Thủy chung là từ cuối năm 1954 đến giữa năm 1956, Phùng Quán từ Nghệ An vào Đồng Hới thăm hội đồng hương và học sinh Thừa Thiên – Huế tập kết hai lần. Lần đầu vào dịp Tết Nguyên Đán năm Ất Mùi (1955). Là chiến binh, ông phải tập kết theo đơn vị, không về quê được sau khi đất nước tạm thời chia đôi, nên ông vào Đồng Hới thăm hội đồng hương cho đỡ nhớ. Đó là cái Tết hòa bình thứ hai sau 9 năm chiến tranh. Lần thứ hai Phùng Quán vào Đồng Hới vào cuối tháng Năm 1956, khi kỳ thi trung học phổ thông trên miền Bắc kết thúc. Phùng Quán đặc biệt quan tâm bọn học sinh đồng hương đàn em. Qua chuyện trò, Phùng Quán biết ông Tuệ có mày mò làm thơ…Mấy lời căn dặn “Văn dĩ tải đạo” Phùng Quán nhắc nhủ ông Tuệ khi tặng ông bài thơ Chống tham ô lãng phí phát xuất từ những điều nung nấu trong lòng.

 

Sau khi nhận được lệnh ra Hà Nội để đi Liên Xô học đại học, ông Tuệ đã xếp bài thơ Chông tham ô lãng phí vào túi hành lý cùng với tập thơ chép tay những bài hay của các tác giả Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư… Lúc này Ông Tuệ ngỡ ngàng không biết tại sao bài thơ Chống Tham Ô Lãng Phí lại lọt vào tay công an Đồng Hới?

Quan hệ giữa ông Tuệ và Phùng Quán chỉ có thế. Ông đã thành thật khai báo tất cả với công an. Nhưng công an một mực cho rằng có sự liên kết giữa ông Tuệ - Phùng Quán và “bọn phản động Nhân Văn Giai Phẩm”. Cuộc thẩm vấn kéo dài gần tuần lễ. Không phát hiện được những chứng cớ cụ thể nào để buộc tội ông Tuệ, công an Đồng Hới quyết định đuổi ông Tuệ ra khỏi Đồng Hới để cách li ông với những người nhẹ dạ trắc ẩn ở hội đồng hương, chỉ định cư trú cho ông ở một nông trường tận ngoài Nghệ An. Công an cấp cho ông năm ki lô gạo, một tờ giấy “giới thiệu”, bảo ông tự tìm đường đến nơi cư trú mới. Phải mất cả tuần lễ ông mới lếch thếch đi bộ đến địa chỉ theo hướng dẫn của công an. Nông trường nằm tại một vùng quê cách Vinh chừng 40 cây số. Ở đó người ta cắt đặt ông thế chân người chăn bò là nông trường viên chính thức.

 

Theo sự hướng dẫn của người chăn bò đương nhiệm, ông Tuệ tự làm lấy một cái chòi tre lá làm chỗ ở cho riêng mình bên cạnh chuồng bò, vừa để tự cô lập với cộng đồng nông trường, vừa để canh giữ đàn bò trong đêm. Như thế là ông Tuệ trở thành một thằng Bờm đặc biệt và đồng thời là một tên tù đặc biệt. Là thằng Bờm nhưng ông không được cho ăn và trả công hằng năm như những thằng Bờm khác trong các gia đình “địa chủ ác ôn”. Là tên tù đặc biệt nhưng ông không bị nhốt trong một nhà tù chuyên biệt, cũng không được hưởng các chính sách về ăn ở, áo quần, thuốc men như những tù nhân chính thức. Tại nông trường quốc doanh ông Tuệ chỉ được cấp phát lương thực gồm khoai sắn, gạo, một chút mắm muối (lúc đầu) để đầy bụng (mà không no) hằng ngày. Mọi thứ khác ông phải tự lo lấy. Theo sự hướng dẫn của người chăn bò tiền nhiệm, hàng ngày từ sáng sớm ông Tuệ lùa đàn bò lên các đồng bãi, núi đồi cách nông trường năm, mười, mười lăm hai chục cây số; ông tranh thủ bắt ốc, kiếm rau, bẻ trái, đào củ cây rừng làm thức ăn cho mình và cũng để cho, hay trao đổi gì đó với những người già, trẻ em ông gặp trên đường. Ông cần đủ thứ: “thức ăn tanh”, áo quần, mền chiếu, nón tơi, dép lốp, mắm muối, nồi niêu, chén đọi và cả bút giấy. “Chất tanh” đối với ông Tuệ là nhu cầu ngày một khẩn thiết. Bởi vì ốc hến, ếch nhái, cóc rắn, cào cào, châu chấu chẳng phải lúc nào, ở đâu cũng kiếm được. Vả lại những thứ ấy cũng là đối tượng “săn lùng” của người già và trẻ em các thôn ấp quanh khu vực nông trường.

 

Cuộc sống bên rìa ở nông trường của ông Tuệ ngày một khó khăn thêm cả về tinh thần lẫn vật chất. Về tinh thần ông Tuệ bị cô lập gần như hoàn toàn với các nông trường viên. Thỉnh thoảng “người chăn bò tiền nhiệm” mang tới cho ông chục cân khoai sắn, vài cân gạo và những lời hỏi han tra vấn về đàn bò và về các mối quan hệ giữa ông và những người dân các làng chung quanh. “Người chăn bò tiền nhiệm” là một người thật thà, chơn chất nhưng không giúp ông được gì trong việc cải thiện những khó khăn ngày một gia tăng, bởi vì ông ta răm rắp tuân lệnh của đảng ủy nông trường. Vả lại sự quan tâm các “vấn đề xã hội” và cá nhân, gia đình của hai người rất khác nhau. Ông Tuệ rất cần những thông tin về miền Nam và cả miền Bắc, về Phùng Quán và nhóm Nhân Văn Giai Phẩm mà cách tra hỏi, trấn áp của hội đồng hương, công an Đồng Hới và cuộc lưu đày kỳ quái ác độc mà ông phải chịu đựng đã thôi thúc nhu cầu “muốn biết sự thật” về tất cả.

Thực tế, tất cả đối với ông ngày càng mù mờ và xa lắc. Không sách vở, không báo chí, không máy thu thanh, không người hỏi han, chuyện trò tâm sự. Suốt ngày đêm ông chỉ nói chuyện với đàn bò và trăng sao, mưa nắng. Những ông bà già và trẻ em ông gặp trên các nẻo đường làng chỉ giao tiếp với ông về các sự việc đơn giản như cóc nhái, rau củ, mắm muối… Những người dân làng là thanh niên, trung niên, phụ nử cũng như đàn ông đều đã được lệnh xa lánh ông.

Khi bị đuổi ra khỏi hội đồng hương, khu tập thể và đồn công an ở Đồng Hới, ông Tuệ chỉ được mang theo những thứ tùy thân như áo quần, nón dép…, những thứ ông sắm sửa tại Huế trước khi đi tập kết và một vài thứ mà cha mang thêm cho ông trong chuyến đi thuyền ra miền Bắc trong 300 ngày sau Genève. Những thứ ấy ngày một hao mòn, rách nát. Còn những thứ có gốc nguồn từ miền Bắc ông phải trả lại hết ở Đồng Hới. Mấy năm ở nông trường với đàn bò, sự rách nát hao mòn càng trầm trọng thêm. Việc sắm sửa qua mua bán trao đổi với người già và trẻ em trên đường đi chăn bò chỉ cải thiện chút đỉnh những nhu cầu cấp thiết hằng ngày như mắm muối, tơi nón, áo quần, chiếu chăn phế thải. Ở miền Bắc đặc biệt ở những khu vực nông thôn, rừng núi sau chín năm chiến tranh và mấy năm cải cách ruộng đất chẳng còn dấu vết gì của ấm no và bình ổn… Người thanh niên “con nhà địa chủ, tay sai Mỹ Ngụy, đội lốt học sinh tập kết, dính líu đến bọn Nhân Văn Giai Phẩm” như ông Tuệ sau mấy năm đi chăn bò không công cho nông trường chẳng khác gì tên ăn mày phung hủi.

 

Năm 1960, loáng thoáng ông Tuệ nghe nói “ở miền Nam nhân dân không chịu nổi   sự áp bức bóc lột tàn bạo của Mỹ - Ngụy đã vùng lên thành lập Mặt Trận Giải Phóng”. Ông còn nghe nói ở miền Bắc nhiều người tập kết tình nguyện vào Nam tham gia Mặt Trận để đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào. Ông Tuệ thử thời vận làm đơn (giấy bút ông nhờ mua, nhưng vì sợ nên không viết được gì) xin vào Nam chiến đấu. Đơn được chuyển đến đảng bộ nông trường qua trung gian người chăn bò tiền nhiệm (ông Tuệ bị cấm lai vãng ở bộ chỉ huy nông trường). Đơn không được trả lời.

 

Năm 1961, ông Tuệ làm đơn…

Năm 1962, ông Tuệ làm đơn…

Năm 1963, ông Tuệ làm đơn…

 

Cuối năm 1963 ông Tuệ nghe (qua loa phóng thanh của nông trường và qua người đưa khoai gạo) rõ hơn tình hình miền Nam: “Nhân dân đã vùng lên lật đổ bạo quyền Ngô Đình Diệm, nhưng Mỹ thì hiện nguyên hình là tên xâm lược, trực tiếp nắm quyền cai trị miền Nam. Nhân dân miền Nam tiếp tục đấu tranh…”

 

Năm 1964, máy bay Mỹ oanh tạc ngày đêm các tỉnh phía nam vỹ tuyến 20. Nông trường thường xuyên báo động.

Thường xuyên bị an ninh nông trường rình mò theo dỏi, nhưng ông Tuệ vẫn làm đơn xin vào Nam. Bí thư đảng ủy nông trường gọi ông vào văn phòng nói những lời cay độc: “Cậu đừng tiếp tay cùng bọn Mỹ đánh phá đất nước, đừng viết đơn này nọ làm phiền chúng tôi. Miền Nam dù thiếu người đánh Mỹ, Đảng cũng không cho cậu vào. Hội đồng hương Thừa Thiên – Huế ở Đồng Hới báo ra là em trai cậu lấy vợ con nhà đại tá Ngụy. Gia đình địa chủ, tập kết theo kế hoạch của địch, bản thân liên hệ với bọn phản động Nhân Văn Giai Phẩm, em trai cấu kết với Ngụy quân; Cậu vào Nam để hợp đồng chống phá cách mạng à? Đừng quấy rối chúng tôi nữa. Thôi đi ra với đàn bò. Liệu hồn tiếp tay với bọn biệt kích, gián điệp”.

 

Ông Tuệ đi ra khỏi phòng bí thư đảng ủy nông trường như một kẻ mất hồn, hai vai nặng trĩu, lại thêm một khối đá to chồng chất trên cái thân thể ngày một ốm o tiều tụy của ông. Người ta bị nghi ngờ một tội đã sống dở chết dở, huống hồ chi ông bị qui kết đến bốn tội: Gia đình địa chủ, mưu đồ gián điệp, Nhân Văn Giai Phẩm, đến cả liên hệ với Ngụy Quân. Trưa hôm đó ông Tuệ đưa bò lên một ngọn đồi cách nông trường bốn năm cây số với một quyết định dứt khoát: chết. Từ lâu ông đã chuẩn bị các thứ để treo cổ trên cây cổ thụ đứng một mình ở đỉnh đồi. Nhưng rồi ông đã không thực hiện. Ông không biết đích xác vì lý do gì. Thiếu can đảm? Bản năng sinh tồn? Hay là có chút gì đó hy vọng? Nay thì ông đã dứt khoát. Cực nhục, khốn khổ, vô vị và cùng đường đến như thế này còn hơn cả cái chết.

Tuy nhiên, cái chết đã không đến với ông một cách dễ dàng như ông đã toan tính. Trên đỉnh đồi, dưới gốc cây cổ thụ, từ xa ông Tuệ đã nhận ra có mấy người lính đang ngồi. Trời nắng chang chang ông không thể tránh nắng bất cứ nơi nào trên ngọn đồi trọc mặc dù ông không muốn gặp mặt họ. Ông Tuệ ngã lưng trên cỏ bên này gốc cây nằm chờ mấy người lính ra đi để ông thực hiện “cuộc ra đi” theo cách riêng của mình: Leo lên cây, kéo sợi dây xuống, ngồi trên lưng bò, thắt một cái thòng lọng, đưa cổ vào, thít chặt, đẩy con bò đi. Thế là xong.

Nhưng mấy người lính không để cho ông yên. Họ mời ông ăn trưa. Hỏi han ông chuyện này chuyện nọ, bởi họ nhận ra người thanh niên chăn bò nằm bên kia gốc cây không ở trong tình trạng bình thường: Mặt mày thất thần, xanh tái, người gầy yếu xác xơ như cây lau héo, có vẻ như đang bệnh. Bất đắc dĩ ông Tuệ ầm ừ cho qua chuyện. Qua giọng nói, mấy người lính phát hiện ông Tuệ không phải là người địa phương, cũng không phải là người miền Bắc, và chắc chắn là tên chăn bò bất đắc dĩ. Một người trong tốp lính, mặt mày khó coi, nhưng có vẻ là chỉ huy, đến ngồi bên ông Tuệ ân cần bày tỏ sự quan tâm đặc biệt. Ông ta dồn dập hỏi ông Tuệ.

 – Có phải là học sinh miền Nam tập kết?

– Có phải đang gặp tai ương hoạn nạn?

– Có phải đang chán nản tuyệt vọng?

– Có cần tôi giúp gì không?

Sự quan tâm và thái độ lịch lãm, hiểu đời của “người lính – có vẻ là chỉ huy” chẳng làm cho ông Tuệ yên lòng mà càng làm cho ông thêm căm giận. Công an, lính tráng, hội đồng hương, đảng viên, bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy… đối với ông Tuệ đến thời điểm đó đều cùng một giuộc, tất cả đều là đạo đức giả, lưu manh, gian ác, muốn hãm hại và đẩy ông đến đường cùng. Ông Tuệ cảm thấy chẳng còn gì để sợ, cũng chẳng cần lịch sự, lễ độ. Ông vùng dậy chỉ vào mặt người đối diện: “ông đi đi, các ông đi đi. Tôi không cần các lời giả dối của ông. Tôi không sợ tất cả các ông. Các ông có súng, bắn tôi đi. Tôi là con địa chủ, tập kết theo kế hoạch đưa gián điệp ra miền Bắc của Mỹ - Ngụy. Tôi cấu kết với bọn Nhân Văn Giai Phẩm. Em trai tôi ở miền Nam lấy vợ con nhà đại tá Ngụy. Tôi là kẻ đại nguy hiểm, là kẻ thù của các ông. Các ông bắn tôi đi. Trước sau gì tôi cũng chết”. Người lính đối diện chửng hửng, mấy người lính bên kia gốc cây chạy qua vây lấy ông. Những từ ngữ ông vừa nói quen thuộc đối với họ. Chẳng có gì may mắn, tốt đẹp nơi nhưng từ ngữ ấy. Tai họ đã nghe quen, miệng họ đã nói quá nhiều lần trong suốt cuộc đời làm cách mạng của họ. Chết chóc, tù đày, đói khổ, cực nhục của hằng triệu con người vì những lời nói ấy. Nhưng lần này nó phát ra từ cửa miệng của một “tên chăn bò bất thường” làm họ kinh ngạc. Họ chưa gặp bất cứ ai cùng một lúc tự xác nhận mình những tội lỗi chết người như thế cả. Có người nhìn ông trong ánh mắt của kẻ đối diện với kẻ thù. Có người coi ông là kẻ điên. Có người nửa tin nửa ngờ lời ông nói. Nhưng “người lính có vẻ là chỉ huy” thì trầm ngâm và thương cảm.

 

Giữa năm 1964 không khí miền Bắc sôi lên sùng sục không chỉ vì lửa mặt trời mà còn vì lửa chiến tranh. Máy bay Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa ném bom ngày đêm trên các tỉnh phía nam vỹ tuyến 20. “Người lính có vẻ là chỉ huy” xuất hiện dưới bóng cây trên ngọn đồi trọc ở Nghệ An trưa hôm ấy là ông Đặng Tính. Ông Đặng Tính là sĩ quan cao cấp, tư lệnh hay chính ủy gì đó của quân chủng Phòng không Không quân miền Bắc, cùng các thuộc cấp của mình đi điều nghiên thực địa để thiết lập các đài quan sát và các ụ súng cao xạ nhằm bắn máy bay địch. Cuộc nghỉ trưa tình cờ trở thành cuộc hội ngộ giữa một người là tâm phúc và một người là nạn nhân của chế độ đã và đang chuyển dần từ một tổ hợp tinh hoa hoang tưởng qua một băng đảng tham lam, gian dối và tàn ác vô độ. Không như những đồng sự của mình, ông Đăng Tính vẫn còn sót lại một mảnh lương tri. Cái mảnh lương tri ấy khiến ông trầm ngâm và thương cảm trước phản ứng tuyệt vọng của người thanh niên chăn bò mà ông cảm nhận một cách chính xác rằng anh ta đã bị cáo buộc oan.

 

Ông Đặng Tính là người tham gia cách mạng sớm, là đảng viên Cộng sản từ đầu những năm bốn mươi, năm 1946 đã là bí thư tỉnh ủy Hải Dương, trong kháng chiến chống Pháp đã kinh qua chức vụ Cục trưởng một cục chuyên môn nào đó trong quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau 1954 Đặng Tính được đi Liên Xô huấn luyện về phòng không. Từ Liên Xô trở về, năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng cục Phòng không Không quân với quân hàm đại tá. Từ 1964 ông Đặng Tính được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm chính ủy Phòng không Không quân. Từ 1964 đến 1971, ông Đặng Tính là người chỉ huy trực tiếp các trận đánh trả máy bay Mỹ trên toàn miền Bắc. Từ năm 1971 được bổ nhiệm làm chính ủy đường vận chuyển 559 (đường mòn Hồ Chí Minh, tư lệnh là Đồng Sĩ Nguyên), là một trong ba ông “tướng” mang quân hàm đại tá: Đặng Tính, Đồng Sĩ Nguyên, Phùng Thế Tài) của quân đội miền Bắc hoạt động trên Trường Sơn. Tháng Tư năm 1973 bị tử nạn trong khi đi làm nhiệm vụ ở nhánh tây đường Trường Sơn. Đặng Tính xuất thân từ gia đình tầng lớp trên của chế độ và xã hội cũ, là người từng trải nghiệm trong chiến tranh trên cả hai lãnh vực chính trị và quân sự, dĩ nhiên ông biết nhiều về Rèn cán chỉnh quân, về Cải cách ruộng đất, Cải tạo nông nghiệp, Cải tạo công thương nghiệp, Cải tạo trí thức trên miền Bắc. Ông cũng biết ít nhiều vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Đặc biệt ông biết nhiều và cụ thể về những tệ nạn tham quan ô lại và tranh quyền đoạt vị, hãm hại lẫn nhau trong đảng Cộng sản, trong chính quyền và quân đội miền Bắc sau 1954. Ông cũng biết nhiều về những bất mãn của nhân dân và trí thức trước tình trạng ruỗng mục của chế độ. Đặng Tính thuộc phe Hồ Chí Minh – Võ Nguyên Giáp…, nên cái chết của ông cũng như cái chết của tướng Nguyễn Chí Thanh, tướng Hoàng Văn Thái…, và tình trạng bị tù đày, bị đẩy ra rìa, bị cách chức, bị cho về hưu của nhiều tướng tá khác đã gây nên làn sóng dư luận cho đó là thủ đoạn diệt trừ đối lập của phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng…

 

Trở lại câu chuyện của ông Tuệ. Sự can thiệp của mấy người lính đã tạo tác nên một chuyển biến, làm thay đổi cuộc đời ông Tuệ. Lúc đầu nó làm chậm lại kế hoạch “treo cổ” của ông, bởi vì ông không thể thực hiện nó trước sự chứng kiến của bọn “ác ôn” kia. Đến khi thấy mấy người lính có súng và sự quan tâm đặc biệt mà ông cho là thủ đoạn giả dối của “tên chỉ huy”, ông Tuệ quyết định thay đổi cách chết. Ông nghĩ một cách đơn giản là nếu bị “bọn ác ôn” đó bắn chết thì ông sẽ “thoát nạn” dứt khoát và nhanh chóng hơn. (Biết đâu lại thêm một lần ông thiếu can đảm?). Nhưng mấy người lính đã không bắn giết theo kế hoạch mới của ông, và “tên chỉ huy” lần hồi biến thành “vị cứu tinh”, cuối cùng là cha vợ.

 

Máy bay Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tăng cường các cuộc không kích ngày đêm các kho tàng, địa điểm quân sự, và những hoạt động vận chuyển trên các trục giao thông thủy bộ. Trong tư cách tư lệnh kiêm chính ủy Quân chủng Phòng Không, ông Đặng Tính qua lại nhiều hơn các tỉnh phía nam vĩ tuyến 20. Ông quan hệ nhiều hơn với các cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền, quân đội, công an ở các địa phương ông đi qua để phối hợp hành động chống trả cuộc chiến tranh phá hoại của đối phương. Trong quá trình thực hiện công vụ, ông Đặng Tính âm thầm thực hiện các “tư vụ” giúp ông Tuệ vượt qua những khó khăn tinh thần và vật chất. Ông đến Nông trường Quốc doanh ở Nghệ An, Công an tỉnh Hà Tĩnh và Hội đồng hương Thừa Thiên – Huế ở Đồng Hới đề nghị phục hồi một mức nào đó cuộc sống bình thường cho ông Tuệ. Ông lấy tư cách là tư lệnh kiêm chính ủy quân chủng phòng không bảo lãnh về hành vi chính trị cho ông Tuệ. Như thế là ông Tuệ - “tên chăn bò có vấn đề” trở thành nhân viên nông trường, được cho đi học khóa trung cấp nông nghiệp ở Hà Tĩnh. Cuối năm 1965 ông Tuệ ra Hà Nội theo học Đại học Nông lâm chuyên ngành cơ khí. Năm 1968 ông làm đám cưới với chị Đ T Nh, con gái ông Đặng Tính.

 

Là con quan, sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, được giáo dục và đào tạo trong môi trường xã hội chủ nghĩa, bản thân lại là quân nhân (từ Liên Xô về chị Nh “tình nguyện” vào quân đội với cấp bậc khởi đầu là trung úy, năm 1975 chị Nh đã là thiếu tá) tính tình đơn giản, khô cứng, nóng nảy, chị Nh không thích hợp với vai trò làm vợ, làm mẹ. Nhưng rồi chị đã làm vợ, làm mẹ.

Ông Tuệ tốt nghiệp kỹ sư cơ khí nông nghiệp năm 1968, lúc bấy giờ cuộc chiến phát triển đến đỉnh điểm. Trận “Mậu Thân” đã là một biến cố trọng đại trên cả hai miền Nam Bắc. Tại miền Nam quân “Giải Phóng” đã tấn công vào Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và hàng trăm cứ điểm khác của “Mỹ - Ngụy” trên khắp các tỉnh thành. Tại miền Bắc Không quân và Hải Quân Mỹ đánh phá không hạn chế trên khắp lãnh thổ. Hà Nội thường xuyên vang vọng tiếng còi báo động, phố xá tiêu điều, trường học và nhiều cơ quan ban ngành sơ tán về vùng nông thôn. Chiến thắng vang dội ngày đêm trên các loa phóng thanh và hai tờ báo: Quân Đội Nhân Dân và Nhân Dân. Thỉnh thoảng ông Tuệ còn nhận được tin chiến sự từ ông Đặng Tính, vị cứu tinh và cha vợ tương lai. Cuối năm 1969 do sự gợi ý và sắp xếp của ông Đặng Tính, ông Tuệ tình nguyện gia nhập quân đội. Với quân hàm trung úy, ông công tác tại đội xe của quân chủng Phòng không.

Đám cưới của hai quân nhân Tuệ - Nhu diễn ra trong tiếng bom đạn vang rền của bom Mỹ, súng phòng không và tiếng còi báo động. Ông Tuệ không có cảm giác nôn nao hồi hộp của một tân lang trong giờ phút trọng đại của đời mình. Lấy vợ cũng như gia nhập quân đội, ông Tuệ đã tuân thủ ý kiến của ông Đặng Tính, đã thi hành ý kiến đó như một hành động đền ơn đáp nghĩa có tính cách cá nhân và đồng thời là một động thái bản năng. “Cô Nh” (sau này ông Tuệ thường gọi vợ như thế) không gây cho ông một cảm xúc yêu đương nào. Nhưng “cô Nh” là nữ và là con gái ông Đặng Tính, người mà từ đây, khi đến cơ quan ông gọi là Tư lệnh, về nhà ông gọi là bố vợ. Cả hai nơi ông Tuệ đều một lòng tôn kính “vị tướng tài đức, văn võ song toàn”. Điều mà ông Tuệ càng về sau càng nhận thấy mình sai lầm một cách nghiêm trọng: “Một vị tướng tài đức văn võ song toàn” không tất yếu có một cô con gái sẽ chính danh là một người vợ, một người mẹ của con rể và cháu ngoại mình.

 

Ông Tuệ đã ngỡ ngàng tham dự đám cưới của chính mình. Ông cảm thấy lạc lõng, cô đơn trước một tình thế bất thường. Từ khi ra miền Bắc, cho đến thời điểm này, ông chưa hề tham dự bất cứ một đám cưới nào. Thời gian đầu ở Đồng Hới, ông có bạn ở hội đồng hương và trường trung học, nhưng vào thời điểm đó, các bạn ở hội đồng hương và trường học chưa ai làm đám cưới cả. Từ sau vụ án “con nhà địa chủ và Nhân Văn Giai Phẩm” ông Tuệ trở nên người tứ cố vô thân: Không có gia đình, không họ tộc, không quê làng, không bạn bè, không đồng nghiệp. Thời gian ở trường trung cấp và đại học Nông Lâm, ông Tuệ vẫn là kẻ xa lạ, “cơ thể ở trong, tâm tưởng ở ngoài”. Ông nhớ lại thời thiếu niên ở quê làng Mỹ Lợi và ở Huế, các đám cưới thường được tổ chức bởi hai gia đình, có sự tham dự của bà con cô bác hai họ và bạn bè của cô dâu chú rể. Có lễ hỏi, lễ cưới, có bái lạy ở bàn thờ tổ tiên.

 

Ông nghe nói, thời chống Pháp, trong những khu chiến, nhiều đám cưới đã được tổ chức không do gia đình họ tộc mà do cơ quan của một hay hai bên đồng chí nam nữ hợp thức hóa bằng một lễ hội đơn giản ở một lán trại giữa rừng hay tại một ngôi nhà nào đó mượn tạm ở nông thôn. Trên miền Bắc từ sau 1954 các đám cưới, tùy theo hoàn cảnh mà được tổ chức theo tập quán lễ tục truyền thống, hay theo cách thức “đời sống mới” từ chiến khu đem về. Tuy nhiên dù lễ hội được tổ chức theo nghi thức truyền thống hay “đời sống mới,” các đám cưới hầu hết do hai họ, hay một họ và một cơ quan, hoặc do hai cơ quan hay hai phía bạn bè cô dâu – chú rể chủ trì và tham dự. Đằng này đám cưới ông Tuệ chỉ có một phía. Ông Đặng Tính thay mặt gia đình họ tộc (họ Đặng), bạn bè, đồng thời vừa đại diện cơ quan (bộ tư lệnh binh chủng phòng không) chủ trì mọi việc trong lễ tiệc. Với tư cách là người chủ hôn, ông Đặng Tính nói lời chào và cám ơn các “đồng chí” khách mời, các bà con cô bác (họ Đặng)…

 

Cũng như mấy tháng trước trong lần tới nhận việc ở đội xe (trực thuộc văn phòng bộ tư lệnh quân chủng phòng không), lần này trong đám cưới của chính mình, ông Tuệ vẫn cảm thấy là kẻ xa lạ, cô đơn lạc lõng trong cái thế giới ông không bao giờ thuộc về.

 

Sau đám cưới, ông Tuệ dọn về ở chung trong ngôi nhà ông Đặng Tính được cấp trong khu vực (phi trường) Gia Lâm. Ngôi nhà vốn là một villa do người Pháp xây dựng. Villa nằm trên một diện tích rộng chừng 1000m2, có tường bao quanh, gồm tầng trệt và một tầng lầu, mỗi tầng trên 100m2. Tầng trệt gia đình tư lệnh Không quân Phùng Thế Tài cư trú. Tầng trên gia đình tư lệnh Phòng không Đặng Tính. Hà Nội và cả miền Bắc vào thời điểm đó (1969) vấn đề chỗ ở cho cán bộ công nhân viên là vô cùng nghiêm trọng. Ngoại trừ những đại công thần mới được cấp nhà như là nhà – những villa do Tây để lại. Đa phần những gia đình thuộc tầng lớp khác thường chui rúc trong một căn phòng nhỏ từ 10 – 20 – 30 mét vuông (tùy theo cấp bậc hay mức độ quen biết, chạy chọt) được chia từ những ngôi nhà cải tạo, hoặc trong những khu tập thể xây dựng cẩu thả thường xuyên thiếu điện nước và cũng thường xuyên tranh chấp, đụng độ giữa các hộ đồng chí chung cư.

Gia đình ông Đặng Tính gồm 5 người: hai ông bà và ba cô con gái đã trưởng thành, chị Nh vợ ông Tuệ là con đầu. Ông bà Đặng Tính xem ông Tuệ như con trai và cố tình vun đắp để ông trở thành người họ Đặng, thừa kế gia nghiệp, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường. 

Cuối năm 1971, ông Đặng Tính được điều động đi làm chính ủy con đường huyết mạch 559 nối liền hậu phương miền Bắc và chiến trường miền Nam. Trước khi đi, ông Đặng Tính căn dặn vợ con điều này việc nọ như nói lời vĩnh quyết. Riêng với ông Tuệ, ông Đặng Tính rút lại hai điều: một là phấn đấu để được kết nạp vào Đảng, hai là cố gắng để đảm trách vai trò người trụ cột của gia đình (họ Đặng). Cả hai mục tiêu, ông Tuệ đều không muốn. Ông đã quá sợ “đảng” từ sau cái ngày bị qui kết là con địa chủ..., ông không muốn trở thành hiểm họa của bất cứ ai. Còn “vai trò trụ cột của gia đình họ Đặng”, theo ông là cách động viên của ông bố vợ hơn là một thực tế:

Ông Đặng Tính đi công tác chiến trường chẳng biết sống chết thế nào và có còn sống để trở nữa không? Nhà còn lại năm người lớn, bốn người là nữ, chỉ một mình ông là nam. Trong bốn người nữ, bà Đặng Tính trưởng thành trong kháng chiến và đấu tranh cách mạng, đã góp phần làm nên một gia đình công thần, ba cô con gái trưởng thành trong nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa, lại là con quan. Với môt “lực lượng” như thế còn lâu ông mới trở thành “người trụ cột”. Vả lại, từ sau biến cố ở Đồng Hới, ông Tuệ ngày một thành kiến nặng nề với phụ nữ, ông vừa căm ghét vừa khinh bỉ bất cứ cô bà nào ngay cả mẹ đẻ. (Những lần tiếp xúc với ông Tuệ, tôi thường nghe ông thở dài và phát biểu: “đàn bà là cái thá gì”).

Ông Đặng Tính ra đi, ông Tuệ thấy mình trở nên trống rỗng, cô đơn, lạc lõng giữa “một thế giới toàn đàn bà”, lại là đàn bà có quyền lực (đối với ông), mặc dù bà Đặng Tính “cố gắng xem ông Tuệ như con đẻ”, và chị Nh cùng hai cô em gái là người thật thà, chơn chất; nhưng tất cả đều là thành tựu của kháng chiến và “đấu tranh cách mạng - giáo dục Xã hội chủ nghĩa!” Kháng chiến là giấc mơ của ông thời trẻ dại, nhưng cách mạng Xã hội chủ nghĩa thì ông đã từng là nạn nhân do sự đê tiện gian ác của đảng Cộng sản.

 

Tháng tư năm 1973, tin từ chiến trường đưa về: ông Đặng Tính đã qua đời trong một tai nạn khi đang làm nhiệm vụ. Ông Tuệ kinh hoàng hơn bất cứ người nào trong gia đình họ Đặng.

Sau cái chết của đại tá Đặng Tính, ở Hà Nội, trong quân đôi, và đặc biệt tại cơ quan bộ tư lệnh Phòng không loan truyền những lời rì rầm rằng: “Cũng như Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái... Đặng Tính bị phe Lê Duẩn thanh toán vì ông thuộc phe Võ Nguyên Giáp...”. Những lời rì rầm đó đến tai ông Tuệ, cùng với những chi tiết xem ra là một kế hoạch có đầu có đuôi: “Ông Đặng Tính  đã là bí thư tỉnh ủy từ năm 1946, đại tá từ năm 1958, cục trưởng nhiều cục quan trọng trong quân đội nhân dân, đang là tư lệnh kiêm chính ủy binh chủng Phòng không – một binh chủng rất quan trọng trong công cuộc đương đầu với chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đang hồi quyết liệt – bị đẩy đi Trường Sơn và bị giết chết trước khi về lại Hà Nội để được phong trung tướng và nhận chức phó tổng cục chính trị quân đội nhân dân”. Những tin đồn như thế làm ông Tuệ nhanh chóng suy sụp. Ông khiếp đảm nhớ lại quãng thời gian hơn 10 năm bị hãm hại ở Hà Tĩnh và Nghệ An. Ông nơm nớp lo sợ đến mất ăn mất ngủ vì đinh ninh rằng tai ương hoạn nạn sắp sửa quay trở lại với đời ông.

( ... )

Sau biến cố 1975, không phải tất cả người Miền Bắc đều “nhận hàng” như dân gian khẳng định, mà chỉ với những người thuộc phe Lê Duẩn “làm nên đại thắng mùa xuân” mới nắm thực quyền trong các cuộc Cải tạo và bán bãi (cho người vượt biên) ở Miền Nam: vơ vét hết vàng bạc, hàng hóa, nhà xưởng, đất đai, rừng biển... Phe ông Võ Nguyên Giáp và những người khờ dại đánh Mỹ vì lý tưởng, những người bị qui kết phản động, và “bọn kẻ thù giai cấp còn mai phuc,...” không được chia phần chiến lợi phẩm, họ chỉ được vào khi cả Miền Nam tan hoang và trống rỗng.

Cuối năm 1976 ông Tuệ mới về thăm nhà tại Mỹ Lợi. Nhưng tin đồn “ông Tuệ lấy vợ con nhà tướng” thì đã râm ran “trong họ ngoài làng” nhiều tháng trước. Ít ai biết “ông tướng” cha vợ ông Tuệ đã qua đời và vì lý do gì. Cũng ít ai biết ông Tuệ bị vùi dập suốt cả thời xanh trẻ vì bị chế độ qui kết gia đình và bản thân thuộc giai cấp và thành phần phản động nguy hiểm. Do vậy mà câu “Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng” chỉ đúng một nửa, nửa đầu: “Miền Nam nhận họ”. còn nửa sau: “Miền Bắc nhận hàng” thì hoàn toàn oan cho ông Tuệ.

Năm 1981, một buổi tối, hai người bộ đội xuất hiện ở nhà tôi tại Đà Nẵng nói là đã tới Mỹ Lợi thăm ông bà già (cha mẹ chồng tôi). Họ không hỏi han gì, chỉ quan sát nơi ăn chốn ở của chúng tôi và xã giao năm ba câu rồi từ giả. Trước khi ra cửa, họ nói với nhau: “gia cảnh như thế này mà bảo là gia đình địa chủ”. Sau này chúng tôi mới biết là họ đi xác minh để kết nạp đảng cho ông Tuệ. Như thế là ông Tuệ đã muốn vào đảng – một guồng máy quyền lực đã hãm hại đời ông và đã có thời ông căm thù khinh ghét. Chẳng biết lúc này ông Tuệ vào đảng vì động cơ gì: “giác ngộ cách mạng” hay cơ hội?

 

Sau năm 1982, hai vợ chồng (ông Tuệ và chị Nh) theo một bộ phận của văn phòng bộ Tư lệnh phòng không vào Tân Sơn Nhất. Lúc bấy giờ cả nước đang đói và Sài Gòn điêu tàn sau mấy cuộc cải tạo và sau mấy năm “Miền Bắc nhận hàng”. Cuối năm 1982, anh Chu Sơn vào Sài Gòn, nghe ông Tuệ ở Tân Sơn Nhất mới tìm vào thăm. Thấy anh chị cư trú trong một căn phòng của một ngôi nhà vườn hoang phế do cơ quan quản lý, vợ chồng ngủ trên nền nhà với những điều kiện sinh hoạt tối thiểu. Anh Chu Sơn hỏi về ba đứa cháu. Ông Tuệ nói là chưa có chỗ ở riêng nên chưa đưa các cháu vào được. Các cháu tạm gởi nhờ bà ngoại và mấy dì chăm sóc. Anh Chu Sơn bèn nghĩ ra một giải pháp là “xin nhà” cho anh chị qua hai người bạn (P và M) đã từng kháng chiến trong nội thành đang là nhân viên của sở nhà đất. Hai người ấy bảo “đã qua thời kỳ Miền Bắc ồ ạt nhận hàng, mọi thứ đang ngày càng khó khăn với những người chưa có hộ khẩu tại thành phố cho dù là sĩ quan hay cán bộ viên chức. Cũng có cách là phe cánh và chạy chọt, nhưng chúng tôi không thuộc về cả hai”. Mấy ngày sau, hai người ấy nói với anh Chu Sơn: “Chúng tôi đã bàn với nhau là có thể ứng biến để giúp anh chị ấy có chỗ ở với điều kiện gởi cho chúng tôi hồ sơ nhà đất của liệt sĩ đại tá Đặng tính.” Mấy tuần sau, qua anh Chu Sơn, ông Tuệ gởi cho hai người bạn nhà đất bộ hồ sơ do sở nhà đất thành phố Hà Nội cấp. Hồ sơ khẳng định rằng “Liệt sĩ đại tá Đặng Tính đã được cấp nhà ở Hà Nội.” Cách mà hai người bạn của anh Chu Sơn “ứng biến vòng vo” là: tẩy xóa hai chữ “đã cấp”, thay bằng hai chữ “chưa cấp”. Như thế là căn nhà số 25 đường Học Lạc (quận 5) được sở nhà đất thành phố cấp cho liệt sĩ đại tá Đặng Tính vào năm 1984. Mấy tháng sau sở nhà đất thành phố Hồ Chí Minh sang tên căn nhà số 25 Học Lạc cho con gái Đ T Nh khi chị đã có hộ khẩu (tại thành phố). Nhà số 25 Học Lạc có diện tích nền 4x20 và một gác lửng chay suốt từ trước ra sau là tầng trệt của một căn trong dãy nhà cao tầng tọa lạc tại một khu vực buôn bán sầm uất của Chợ Lớn.

Sở dĩ phải mất một thời gian lâu như vậy vì ý của hai anh bạn ở sở nhà đất là “để anh chị cho thuê phần dưới nhằm cải thiện sinh hoạt”.

 

Có được nhà, ông Tuệ chạy tiền sửa chữa, phần dưới cho thuê, phần trên làm chỗ ở. Từ Tân Sơn Nhất đến 25 Học Lạc (Chợ Lớn) khoảng cách khá xa với phương tiện đi lại bằng xe đạp nên ông Tuệ dọn về một mình, chị N và cháu H (út) vẫn ở Tân Sơn Nhất. (Hai cháu Tr và Th vẫn ở Hà Nội). Cả hai vợ chồng đều là sĩ quan, tiền lương cộng với tiền cho thuê nhà giúp anh chị bớt khó khăn.

 

Sau khi có nhà riêng, ông Tuệ được nhiều người đến “nhận họ” hơn mấy năm ở trong doanh trại quân đội. Những người “nhận họ” gồm hai thành phần: Thứ nhất là một số bà con nội ngoại, người làng và bạn bè (bạn gái) ở Huế vẫn lưu giữ những kỷ niệm quý mến trước hồi ông Tuệ đi tập kết. Sự thật này chứng tỏ lời mẹ chồng tôi nói: “thằng Tuệ của mạ ngày xưa thông minh, thật thà, tốt bụng; bà con ở làng và cả mấy người trên Huế ai cũng thương, cũng muốn làm thân”. Những người này lần hồi tỏ ra áy náy và thất vọng khi thấy “vợ ông Tuệ không có nhan sắc” và bản thân “ông Tuệ có những biểu hiện bất thường” (hay khoe khoang và nói năng bất nhất...). Thứ hai là những người đang lâm vào tình cảnh khó khăn muốn nhờ vã ông Tuệ việc này việc nọ vì nghĩ “ông Tuệ giàu có và thế thần”. Lại có người rủ rê, xúi dục ông Tuệ bung ra làm ăn trước “cơ hội” đảng Cộng sản thay đổi sách lược: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

 

Khoáng năm 1986, ông Tuệ xin chuyển ngành (rời quân đội, trở thành công chức), nhận làm giám đốc một công ty gì đó. Anh Chu Sơn quyết liệt khuyên can với lập luận rằng: “Anh Tuệ hoàn toàn không có khả năng “làm ăn”, xã hội phức tạp, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là cái gì chỉ có đảng Cộng sản mới biết được. Mà đảng Cộng sản thì anh Tuệ và quần chúng có thừa những kinh nghiệm đắng cay! (...). Ông Tuệ bảo rằng: “Đây là cơ hội vừa để giúp bà con có công ăn việc làm, vừa làm giàu cho gia đình.” Anh Chu Sơn nhất mực khuyên can, ông Tuệ nhất quyết làm theo ý mình. Anh em bắt đầu xa cách.

 

Tình hình chỗ ở, sinh hoạt và công việc như thế nên trong một lần ra Mỹ Lợi ông Tuệ khoe với cha mạ chồng tôi là “có hai ba cái nhà”, “làm ăn giàu có” và “chị Nh thì đi công tác nước ngoài không về thăm cha mạ được”. Để chứng minh mình “giàu có”, trước khi vào lại Sài Gòn, ông Tuệ tặng mẹ chồng tôi tờ 100 đô la. Đã hơn bảy mươi tuổi nhưng mẹ chồng tôi vẫn còn sáng suốt để nhận ra rằng: đứa con trai yêu quí, thông minh, thật thà, tốt bụng trước khi đi tập kết nay không còn nữa; thay vào đó là “ông quan tên Tuệ, lẩn thẩn, khoe khoang và dối trá”. Mẹ chồng tôi nói: “Thay vì đưa cho mạ tiền Việt, nó lại đưa tờ 100 đô la. Ở nhà quê, đối với mạ tờ 100 đô la khó tiêu hơn tiền Viêt; mạ phải đem ra chợ đổi, sự việc trở nên phức tạp, chẳng có lợi gì, lại mang tiếng tiêu tiền Mỹ. Tính khoe khoang làm cho nó u mê”.

 

Năm 2008, sau khi về hưu, gia đình tôi chuyển cư vào Sài Gòn, chúng tôi không tìm thăm ông Tuệ ở 25 Học Lạc (nơi anh Chu Sơn đã biết từ ngày đầu anh chị chưa nhận nhà), khó khăn lắm chúng tôi mới tìm ra nhà chi Nh trên đường Bạch Đằng. Qua chị Nh tôi biết hai người đã li dị, ông Tuệ ở Học Lạc, còn “cô Nh” được quân đội cấp đất tự xây một căn nhà hình ống chiều ngang 4m, chiều dài 20m. Cháu H đã tốt nghiệp đại học và ở với mẹ. Hai cháu Th, Tr đã lập gia đình và ở riêng. Qua chị Nh, chúng tôi biết anh chị đã li dị từ khi “ông Tuệ bắt đầu làm kinh tế”. Chúng tôi mới vở lẽ ra chuyện “cô Nhu đi nước ngoài” mà ông Tuệ viện cớ mỗi khi ra Mỹ Lợi hoặc Đà Nẵng có việc cần là nhu thế. Sau này, qua cháu Tr. và cháu H, chúng tôi biết thêm rằng ông Tuệ làm ăn bết bát, bị lợi dụng, bị lừa gạt và tham nhũng làm cho sạt nghiệp, sức khỏe ngày một kém, tính khí ngày càng thất thường. Ông Tuệ cũng là mục tiêu đàm tiếu, cạnh khóe của những người đã từng xum xoe, tâng bốc trong những ngày đầu “nhận họ”.

 

Năm 2014 ông Tuệ qua đời. Đám tang được tổ chức theo nghi thức Phật giáo tại nhà tang lễ bệnh viện 108. Cháu Tr, con trai đầu chủ tang. Chị Nhu mặc áo tang như một người vợ. Trên xa tang, cháu Trung sắp xếp anh Chu Sơn và tôi ngồi bên quan tài cùng với các con trai và cháu nội; chị Nh ngồi xe riêng.  Cháu Tr nói: “Cả đời bố cháu chưa ăn được một bữa cơm ngon do mẹ cháu nấu”.

Thi hài của ộng Tuệ được thiêu ở Bình Hưng Hòa, tro cốt và lư hương được gởi ở chùa Chơn Quang (?). Bản thân Ông Tuệ rất có thành kiến với những gì thuộc về Phật giáo; các cháu và chị Nh không ai là Phật tử cả. Thì ra: Phật giáo đã và đang là cái đáy để cho “những người ngoại đạo” giải quyết sự khủng hoảng văn hóa trong quá trình gia đình tan rã và đặc biệt trong lãnh vực tang ma.

             Nhà thờ họ Trần Mỹ Lợi

Chu Sơn ở nhà thờ họ Trần Mỹ Lợi