Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles S. Kraszewski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- duyên
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E. M. Forster
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Henry
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Diễm
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Bảo
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hứa Lập Chí
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Manuel Casimiro
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghĩa Đặng
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Việt Trung
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Đức
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Phương
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Như Mây
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phan Quế Mai
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Kim Thoa
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Chương
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- phap
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Bình
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thích Quảng Độ
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tom Fawthrop
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Chung
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trung Dũng Kqđ
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyên
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Trọng Phụng
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Hỗ Ninh
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wiesiek Powaga
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Władysław Reymont
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ỷ Lan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Không khói hoàng hôn (kỳ 2)
Nguyễn Thị Kim Thoa
Vườn Phủ - Vườn Nhà
ở thôn Vỹ Dạ
Trước khi viết những dòng ký ức này, tôi không có ý định làm một đối sánh giữa Vỹ Dạ xưa và Vỹ Dạ nay. Tôi chỉ muốn ghi chép lại những gì tôi đã quen biết về các thứ cây trồng trong vườn nhà tôi và những vườn nhà khác thuộc khu vực Vỹ Dạ trước 1975 để giúp những ai trong các độc giả đời sau muốn biết về một khía cạnh đã góp phần làm cho một làng đã một thời đi vào tâm hồn của một nước.
Nhưng khi nghĩ lại cái tựa đề đã viết, tức thì sự đối sánh xưa – nay hiện ra trước mắt tôi như hai cực ở hai đầu cuộc đời mình. Đầu kia là ký ức với những năm tháng sinh thành của một người nữ trẻ giữa một Vỹ Dạ vườn với những thăng trầm của cuộc sống: có vui, có buồn, có đau khổ, có hạnh phúc, có tự hào hãnh diện, có tự ti xấu hổ, có hy vọng, có tuyệt vong… Đầu này duy chỉ có nhức nhối – nhức nhối – nhức nhối trước một Vỹ Dạ chợ đang phát triển như một cái bướu ngày một to, một nặng trước trán, trên lưng của tuổi già.
Cảm nhận như thế tôi không hề có ý định bài bác “chợ” như một khâu không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường chính danh mà thương mãi được xem là bộ máy tuần hoàn vận chuyển “máu” theo nhu cầu của mọi cơ phận lớn nhỏ khác nhau của một cơ thể sống (xã hội) bình thường và lành mạnh.
Thời nhỏ đã nhiều lần tôi đi chợ Vỹ Dạ để bán những thứ thu nhặt từ trong vườn và để mua các thứ mình cần hoặc theo lời dặn của mẹ, của chị.
Con buôn trong nền văn hóa quan lại trọng sĩ đã bị đánh giá thấp nhất trong hệ thống giá trị xã hội bấy giờ (sĩ – nông – công – thương). Nhưng con buôn tại chợ Vỹ Dạ mà tôi đã giao tiếp không hoàn toàn là “một lũ thương nhân đa trá”. Họ đã để lại trong ký ức những ngày thơ dại của tôi những dấu ấn đẹp đẽ mà khi lớn lên tôi gọi là văn hóa: Không mua rẻ bán đắt, không trao hàng giả hàng xấu, tôm thúi cá ươn cho trẻ con, người già, phụ nữ mang bầu và đàn ông (có vợ đẻ) đi chợ.
Ngày nay nhìn bề ngoài cái chợ vốn là một phần của Vỹ Dạ xưa vẫn còn đó, trông có vẻ còm cõi chịu đựng giữa một Vỹ Dạ đổi thay đã ồ ạt và đang lăm le “chợ hóa” bất cứ nơi nào có thể. Đường phố mở to, khách sạn cao tầng sang trọng, nhà hàng hoành tráng phô trương, khu vui chơi giải trí xập xình chấp chới ồn ào náo nhiệt, cà phê đèn mờ, phòng mát xa, quán ca ra ô kê, tiệm thời trang, tiệm hớt tóc và những căn nhà hình ống mới xây trên những mảnh vườn đã cắt xé ra từ mặt bằng vườn xưa.
Một Vỹ Dạ như thế là niềm thỏa thuê của những ông chủ mới, những cán bộ đảng viên quyền chức, là khách “víp” thường xuyên của các doanh nghiệp chân rết của nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Những đại diện cho thượng đế thời này đã đến đây sau những giờ lãnh đạo, họp hành, lên lớp, vạch chương trình kế hoạch mệt mỏi ở công đường. Với những thức ăn đồ uống cầu kỳ quí hiếm, cường dương, bổ thận, bên những cô gái ngực nở chân dài, họ có toàn quyền và trọng trách phục hồi sức lực để ngày mai tiếp tục lãnh đạo tỉnh thành và cả đất nước đi theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường – định hướng xã hội chủ nghĩa. Phương tiện và mục đích. Mục đích biện minh cho phương tiện. Mục đích tốt (xã hội chủ nghĩa) nên tất cả các phương tiện dù xấu đến đâu cũng đều tốt cả, trong đó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái đê tiện gian ác nhất của kinh tế thị trường và bạo lực cùng hung cực ác của cách mạng Xã hội chủ nghĩa.
Ngăn sông cấm chợ để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên Xã hội Chủ nghĩa là ác đỉnh cao. Quá khiếp hãi cái ác này, con em của Vỹ Dạ vườn đã bỏ mặc hay bán tháo bán đổ cơ nghiệp của tổ tiên, đã bỏ làng bỏ nước trốn chạy thoát thân, tha phương cầu thực. Đó là lần thứ nhất Vỹ Dạ xưa thay ngôi đổi chủ, hoặc chia cắt, chặt đốn cây vườn.
Kinh tế thị trường – định hướng xã hội chủ nghĩa là ác quán mãn doanh. Đến cái ác thứ hai này thì Vỹ Dạ mới thực sự đổi đời. Vườn biến thành chợ, người làm chủ chợ biến thành con buôn. Và mọi thứ trên Vỹ Dạ, trên Thừa Thiên Huế, trên đất nước từ đất đai, rừng biển, đến con người đều trở thành hàng hóa, bất kể trẻ em, người già, phụ nữ mang bầu, người bệnh tật và cả đến người chết (như chủ tịch Hồ Chí Minh và hàng triệu anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước). Tất cả đều là hàng hóa, đều là đối tượng kinh doanh. Bọn thương nhân “đa trá” là chủ nhân ông của nền kinh tế tư sản phản động, một thời không đội trời chung, nay trở thành đồng nghiệp phải ngã mũ chào thua các đối tác cộng sản. Thua ở cái đầu tối tăm đa trá. Thua ở cái bụng chất chứa tham lam trương phình.
Tôi không phải là người hiếu cổ để mãi thương tiếc một Vỹ Dạ xưa không còn lý do để tồn tại và phát triển từ nguyên trạng. Nhưng cưỡng bức Vỹ Dạ đi theo con đường kinh tế thị trường – định hướng xã hội chủ nghĩa kiểu này là cắt lìa nguồn mạch quá khứ vốn là một phần của Thừa Thiên Huế di sản.
Để Vỹ Dạ nay được cứu chữa phần nào trước khi nó hoàn toàn biến mất, để độc giả đời sau nhận biết một thời Vỹ Dạ có vóc dáng như thế, như thế…Và cũng để đính chính những sáng tác hoàn toàn thiếu căn cứ của một số tác giả cho rằng: “Vỹ Dạ có bến đò rợp bóng dừa xanh”, “Vỹ Dạ có những hàng rào dâm bụt thẳng tắp”, “Vườn Vỹ Dạ không trồng cau vì chủ nhân vườn Vỹ Dạ ngại con cháu gái của mình bắc chước “con gái Năm Phổ (mà) ở lổ trèo cau.” (1), tôi xin ghi lại những gì tôi biết và vài cảm nhận về Vỹ Dạ.
Làng Vỹ Dạ được tạo lập trên cánh đồng lau lách (vi dã) mấy trăm năm trước bởi các cư dân đồng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ theo chân Công chúa Huyền Trân Nam tiến, và sau này, các vương tôn công tử đa phần là con cháu vua Minh Mệnh, các thượng thư, quan lại cao cấp trực thuộc triều Nguyễn và Tôn nhơn phủ thuộc dòng họ Nguyễn Phước – là dòng họ có công đầu trong công cuộc mở cõi, thống nhất đất nước và xây dựng kinh đô Huế. Là một bộ phận của vương triều, người Vỹ Dạ còn chia phần nỗi cay đắng nhục nhã khi vương triều bị Pháp đánh bại, phải đầu hàng, để rồi trở thành triều đình An Nam bị tướt hết quyền lực, bị bảo hộ và trở nên suy tàn.
Nằm ven sông Hương và sông đào Như Ý, Vỹ Dạ tọa lạc ở phía đông kinh thành, bên kia Đập Đá. Người Vỹ Dạ quay mặt về phía chính Tây bên bờ bắc sông Hương để ngưỡng vọng đế đô nơi hoàng đế nhà mình đang ngự trị. Chẳng bao lâu sau cái thời đoạn vinh quang tưởng không bao giờ dứt ấy, người Vỹ Dạ hướng tầm nhìn về phía tây – nam qua sông Như Ý, để phải thấy một tòa nhà cao tầng trông như một pháo đài, đó là tòa Khâm sứ Pháp uy nghi quyền lực đứng sừng sững bên bờ nam sông Hương trông chừng tứ phía.
Từ phía đông – nam, qua tây – bắc, người Vỹ Dạ gặp gỡ trên đường làng mình, giao tiếp, kết bạn, làm thông gia, làm chính sự, và làm thơ với một bộ phận cư dân các làng Vân Dương, Ngọc Anh, Lại Thế, Năm Phổ, và Dương Nỗ – cũng xuất thân từ triều đình và con cháu nội ngoại dòng họ Nguyễn Phước.
Vỹ Dạ còn có một bộ phận lãnh thổ nằm giữa sông Hương gọi là cồn Hến hay Bồi Thành. Từ Cồn Hến người Vỹ Dạ nhìn qua bờ bắc sông Hương thấy Gia Hội và Bãi Dâu.
Vị trí, đất đai, sông nước có diện tích khoảng 2,2km2, con người và lịch sử như thế, nhưng từ xưa du khách chỉ biết có một Vỹ Dạ với những “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,” – một thế giới cây cảnh, hoa lá và tâm hồn của một bộ phận dân cư trong các khu vườn nằm kề bên nhau ở hai bên con đường cái duy nhất dài trên 2km (trước 1975 gọi là đường Thuận An, sau 1975 gọi là Nguyễn Sinh Cung) chạy thẳng từ Đập Đá đến nghẹo giàn xay cách bờ sông Hương khoảng một trăm mét phía tay trái, cách đồng lúa hai, ba, bốn, năm trăm mét phía tay phải tùy theo từng khúc đoạn. Đoạn trên gọi là Vỹ Dạ thượng, khúc dưới gọi là Vỹ Dạ hạ.
Vườn Vỹ Dạ xưa đa phần là vườn của các Mệ, các Cụ. Ngoài ra còn có vườn chùa và một số ít vườn của các thành phần cư dân khác mua lại của các gia đình quí tộc sa sút chuyển cư, hoặc tạo lập nên từ những mảnh đất ruộng nhỏ phía đồng lúa.
Tôi sinh ra và lớn lên trong thời nhà Nguyễn đã suy tàn và cáo chung, nên vườn phủ chỉ có nghe mà không được thấy. Tôi chỉ biết và thấy được một số vườn của các hoàng thân quốc thích thế hệ Ưng, Bửu, Vĩnh (cháu chắt đời thứ tư, thứ năm của vua Minh Mạng) và một số vườn khác của các cụ thượng dòng Tôn Thất, Nguyễn Khoa.
Theo tiến sĩ Phan Thanh Hải, giám đốc bảo tàng Huế, thời nhà Nguyễn còn thịnh trị, trong và ngoài thành cố đô có hàng trăm phủ đệ, riêng Vỹ Dạ có trên mười. Và vườn Vỹ Dạ là không gian văn hóa, là bối cảnh kiến trúc của các phủ đệ. Tại Vỹ Dạ ngoài phủ Tuy Lý, tiến sĩ Hải còn kể tên, nhưng không cho biết vị trí và hiện trạng của 13 phủ còn lại.(2).
Là cư dân Vỹ Dạ tôi chỉ biết đại khái về phủ Tuy Lý, ít biết hơn về phủ Kiến An, nghe tên và chỉ biết vị trí về một phủ thứ ba có tên là Vy Dã chỉ còn một nửa trụ cổng.
Thời học tiểu học, tôi là đứa mê thích hoa bướm, cây cỏ, nên một mình hay cùng bạn bè luồn lách theo các vườn Vỹ Dạ từ thôn Hô Lâu xuống cầu Ông Thượng, đến Lại Thế, Ngọc Anh và một phần của thôn Năm Phổ. Không có một vườn phủ nào đúng nghĩa được lưu giữ trong ký ức của tôi.
Đối với tôi có một phủ Ba Cửa còn gần như nguyên vẹn mặt bằng, nhưng nhà cửa, vườn tược thì đã cũ kỷ, tiêu điều hoang phế. Cái tên Tuy Lý có vẻ mơ hồ, thỉnh thoảng mới nghe người này, người kia nhắc đến.
Phủ Ba Cửa, cái tên gọi dân dã này là hình ảnh của cái cổng có mái che to cao rêu phong gồm ba vòm cửa đứng giữa một hàng rào cây lá xiu vẹo khoảng trăm mét mặt tiền. Phía trong cổng và hàng rào là một mặt bằng rộng, bức bình phong đổ nát rêu phong, không còn bể cạn non bộ, chỉ thấy mấy cây cau chơ vơ, mấy cây sứ, mấy bụi tử vi, mấy bụi chuối um tùm lâu ngày không ai chăm sóc. Sân không ra sân, vườn hết là vườn, lối đi chỉ còn lại vài dấu chân…Tất cả chìm trong cây cỏ hoang phế.
Căn nhà rường ba gian hai chái là chính đường của phủ Tuy Lý ngày xưa nay trở thành nơi thờ tự đứng trơ trụi một mình. Tiền đường, hậu tẩm và các công trình phụ đã bị dỡ bỏ từ lâu. Phía sau và hai bên ngôi nhà thờ là một mặt bằng rộng cỏ cây liu xiu hoang hóa. Hồi chị Phùng Thăng còn sinh viên về dưỡng bịnh một thời gian trong ngôi nhà này, vài ba bốn lần tôi xuống chơi với chị. Chị không hề nói gì về dòng họ tổ tiên mình. Chị chỉ kể chuyện Phật và đọc thơ Đường cho tôi nghe. Tôi biết, thuộc lõm bõm năm ba bài thơ Đường một phần nhờ chị trong những dịp này.
Phía sau xa ngôi nhà thờ có mấy căn nhà gạch nhỏ cũ kỷ, mái nửa ngói nửa tôn quay lưng ra hàng rào, giao thông với bên ngoài qua con đường xóm nhỏ. Mẹ con chị Tôn nữ Thu Thủy (bạn của chị ba tôi), người đẹp Vỹ Dạ một thời và ông cậu thi sĩ Võ Ngọc Trác cư trú tại một trong những căn nhà đó. Hai mặt bên và mặt sau của phủ Tuy Lý là hàng rào cây xanh không kiên cố. Dân ngụ cư ở bên kia con đường nhỏ đã vạch cây lá vào đất phủ trồng nơi này mấy luống rau, nơi kia mấy hàng sắn, nơi nọ mấy bụi chuối, giàn mướp… Phủ Ba Cửa (Tuy Lý) trước 1975 theo kí ức tôi là như thế.
Sau 1975 đất vườn hai bên và phía sau bị cắt bán hay bị lấn chiếm gần hết. Cả một xóm cư dân mọc lên, ba mặt che khuất ngôi nhà thờ và mảnh sân tiêu điều phía trong cái cổng có ba vòm cửa rêu phong không còn đồ sộ. Phủ Tuy Lý một thời vang bóng nay chỉ còn có như thế trên một mặt bằng rộng vài ngàn mét vuông.
Với mặt bằng và dấu tích đó, người Vỹ Dạ thời nay có thể bảo tồn, tôn tạo thành một nhà lưu niệm vị vương hầu đã trọn đời trải nghiệm đau thương cùng vận nước, đã lao đao lận đận cùng thế sự thăng trầm, một thi bá chủ soái tao đàn, một vị hậu khẩn đồng thời là gạch nối của một Vỹ Dạ đế vương và một Vỹ Dạ dân dã. Không bất cứ ai xứng đáng hơn ông để người Vỹ Dạ đời nay đặt tên cho con đường lớn nhất đi qua làng mình.
Cổng phủ Tuy Lý Vương (mới trùng tu - Ảnh chụp 2012
Bình phong phủ Tuy Lý (mới trùng tu lại sau 1975 - Ảnh chụp 2012)
Nhà thờ phủ Tuy Lý (được tu sửa sau 1975 - Ảnh chụp 2012)
Đối diện với vườn nhà tôi là một dãy nhà mặt tiền, cái nhô ra, cái thụt vào so với lề đường. Ở giữa các căn nhà hình ống lồi lõm thiếu qui hoạch và thẩm mỹ ấy có một cái trụ vôi và một nửa vòm cổng còn sót lại. Trên nửa vòm cổng thách đố với thời gian và đe dọa thường trực sự an bình cho người qua đường ấy còn lại dấu vết của mấy chữ nho đã loang lổ.
Cái trụ đứng đầu con hẻm nhỏ sâu vài trăm mét dẫn đến căn nhà cấp bốn xập xệ là chỗ ở của gia đình ông Bửu Phát (nay đã mất). Ông Bửu Phát và mấy người con có những cái tên thật kêu: Nguyễn phước Lý Ngân, Nguyễn phước Lý Hoàng, Nguyễn Phước Lý Chiêu. Cả mấy cha con ông Bửu Phát trong bất cứ cơ hội nào đều tự khẳng định mình là hậu duệ của một vương phủ có tên là Vy Dã, là con cháu chính danh của một trong năm ba vị hậu khẩn của làng Vỹ Dạ. Trước 1975 nửa chiếc cổng vẫn còn. Sau 1975 tôi rời xa Huế, nay (2012) trở lại, nửa chiếc cổng đã bị dẹp bỏ, chỉ còn lại một mảnh tường đổ nát nằm sát vách một ngôi nhà mới xây.
Tôi không biết tiến sĩ Phan Thanh Hải và viện bảo tàng Huế có xác minh không, và nếu có, xác minh như thế nào về một vương phủ chỉ được khẳng định với vài mấy cá nhân. Là hàng xóm của gia đình ông Bửu Phát, từ mấy chục năm, tôi không nghi ngờ gì về sự tồn tại trong quá khứ của một dinh cơ hoàn toàn có khả năng là một trong mấy vương phủ đầu tiên của Vỹ Dạ xưa.
Cái dinh cơ ấy khá lớn, theo lời ông Bửu Phát, phía trên (phía Đập Đá) tiếp giáp với dinh cơ của cụ Ưng Thông, phía dưới (phía Thuận An), tiếp giáp với vườn nhà thượng thư Tôn Thất Ngân, phía sau ra tận đồng lúa, diện tích áng chừng vài chục ngàn mét vuông, nay hoàn toàn trở thành khu dân cư bàn cờ.
Một công trình nghiên cứu nhỏ, một tiểu luận của một sinh viên cao học, hay một bài báo dài về các vương phủ đầu tiên của Vỹ Dạ xưa là đề tài gây thích thú cho những ai yêu Huế lưu lạc bất cứ nơi nào trên hành tinh. Cái trụ vôi, ngôi nhà xập xệ của gia đình ông Bửu Phát cũng hoàn toàn có khả năng chuyển hóa một Vy Dã truyền thuyết thành dấu tích một vương phủ lịch sử – một sản phẩm, một địa chỉ du lịch có chiều sâu thay thế cho các loại hình du lịch ăn xổi ở thì.
Nằm đầu thôn Hô Lâu, hai mặt nhìn ra sông nước, một mặt trông ra đường cái (nay là đường Nguyễn Sinh Cung) ở đầu Đập Đá, mặt thứ tư tiếp giáp với vườn nhà Lai Huyền Lục, Phủ Kiến An Vương có vị trí đẹp nhất khu vực Vỹ Dạ và có lẽ cả kinh thành Huế. Vị vương hầu chủ nhân quyết định không mở cổng chính ra đường cái, mà mở ra con đường nhỏ tự khai phá cạnh bờ sông. Như thế là hướng nhìn của vương phủ tập chú về phía triều đình và hoàng tộc, hướng của quyền lực chính thống và huyết hệ. Mở cửa như thế còn để hòa nhập với sông Hương nhiều hơn, để cảm nhận cái mùi thơm vi tế lan tỏa, len ngấm từ đầu nguồn mỗi buổi tinh mơ, để chiêm ngắm những gợn sóng nhấp nhô lấp lánh hằng hà châu ngọc trong chiều tà, để chộp bắt cái màu tím Huế trên những ngọn núi xa trước buổi hoàng hôn, để đêm đêm thả hồn trên bến sông trăng, lắng nghe tiếng chuông chùa và giọng hò vang vọng trên sông nước, và cũng để lặng lẽ nhìn vẻ đẹp huyền ảo của ngọn đèn chài ẩn hiện trong mù sương khuya vắng.
Vỹ Dạ cái đuôi của đêm ngắn, kéo dài đêm thêm chút nữa để những vương tôn công tử cũng là những thi sĩ, văn nhân tận hưởng cái thú vui thanh tao của cuộc phù hoa chóng tàn. Nhưng đó là chuyện về sau khi vị hoàng tử Nguyễn Phước Miên Trinh trở thành Tuy Lý Vương và chủ soái Tao đàn xây vương phủ của mình với cái cổng ba vòm cửa uy nghi bề thế như tôi đã mô tả ở trên.
Cổng của phủ Kiến An Vương thanh mảnh hơn cổng phủ Ba cửa nhiều. Nó gồm hai cái trụ đỡ một vòm cong ghi tên phủ bằng chữ Hán. Tất cả được đắp tô bằng những mô hình, họa tiết và hoa văn chắc là phù hợp với tâm thức của chủ nhân và thời đại ông. Sự tàn phá của thời gian và sự mù chữ Hán Nôm của tôi và của chính người chủ sau này, những dấu vết của Kiến An phủ còn sót lại chẳng giúp được gì để độc giả có được một sự mô tả đầy đủ và chính xác. Ông Bửu Biên cháu đời thứ tư của vương phủ nay cũng chỉ là một thành viên của của khu dân cư ấy. Có khác chăng là sân nhà ông rộng rãi khang trang tươm tất hơn với những cây mai cổ thụ mà mỗi độ xuân về những bông hoa vàng rực làm sáng một khúc con hẻm nhỏ mở cửa ra đường Thuận An với những căn nhà hình ống. Căn nhà trệt có hiên bằng sáng sủa, tiện nghi hơn xây ngược hướng với ngôi nhà rường ba căn hai chái ông thừa tự mọt mối dột nát đã bị dẹp bỏ. Gia đình ông Bửu Biên đã quay lưng về phía tây để nhìn về phía bắc và mở cửa ra chợ.
Mùa hè năm ngoái (2012) trong chuyến về Huế gần nhất, tình cờ gặp người em họ tên Văn từ Mỹ về. Văn vai vế em, nhưng cùng trang lứa với tôi, là giáo viên dạy sử cấp ba, rất yêu nghề, yêu Vỹ Dạ và sính văn thơ. Văn đã bỏ làng, bỏ dạy, làm thuyền nhân (vượt biên) vì cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa do đảng Cộng sản tiến hành sau 1975. Chúng tôi rủ nhau đi xuống, đi lên dọc theo hai bên đường Nguyễn Sinh Cung để nhìn, để nhớ, để nghĩ ngợi và trò chuyện về Vỹ Dạ xưa, Vỹ Dạ nay. Người thầy giáo mấy chục năm vì tình thế phải bỏ nghề đã “lên lớp” suốt cuộc đi bộ, và tôi đã tự nguyện làm người học trò chăm chú lắng nghe từ đầu chí cuối. Câu chuyện của Văn không mới mẻ, không hoàn toàn phù hợp với suy nghĩ của tôi, nhưng những điều liên quan đến Vỹ Dạ thì cứ như xuất phát từ đáy lòng tôi.
– “Chị Thoa thấy đó, người Vỹ Dạ trong đó có tôi, có chị bị đuổi ra khỏi nhà, khỏi làng và thành phố của mình trong biến cố mà họ gọi là giải phóng và cách mạng Xã hội Chủ nghĩa. Hết chiến tranh, Vỹ Dạ và Huế trở nên đông đúc, thiếu bác sĩ, thiếu thầy cô giáo, thế mà chị phải ra đi, tôi phải trốn chạy. Trong thâm tâm người Cộng sản muốn thế, vì Vỹ Dạ, Huế và cả miền Nam đều là chiến lợi phẩm. Họ thu tóm tất cả, thượng vàng hạ cám, đến đoạn đường chúng ta vừa đi giáp vòng cũng có tên Nguyễn Sinh Cung. Đưa ông Hồ vào tận Vỹ Dạ để ông ta ngồi đầu chiếu là một thứ tâm lý đình làng của bọn lí hào thời phong kiến và thực dân. Điều bi đát là nhân dân trong đó có người Vỹ Dạ đã góp máu xương lật đổ phong kiến và đánh đuổi thực dân để rồi phải sống trong những điều kiện còn tồi tệ hơn thời thực dân phong kiến thống trị. Vấn đề cấp thời theo tôi không phải là xây dựng Vỹ Dạ như thế nào, mà ai là người làm chủ Vỹ Dạ? Bởi người làm chủ sẽ xây dựng Vỹ Dạ theo cái bụng và tầm nhìn của mình. Đảng Cộng sản hôm nay là đảng của những người nông dân không biết cày, chỉ quen bắn súng. Khi người nông dân không biết cày có nghĩa là không biết làm gì cả. Không biết lao động và cũng không biết giá trị của lao động. Công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật hiện đại, dân quyền, pháp luật, tự do, dân chủ, văn hóa truyền thống chỉ là những từ ngữ trên đầu môi chót lưỡi. Không biết làm gì cả nhưng ăn bù, hưởng thụ bù, tích lũy bù trong điều kiện nắm giữ quyền cai trị tuyệt đối nảy sinh ra quốc nạn tham nhũng, ngại chiến đấu (chống ngoại xâm) và sính đàn áp nhân dân để một mình một chợ cướp bóc và hưởng thụ. Khi người nông dân không biết cày làm chủ đất nước có nghĩa là đất nước sẽ không có đô thị với những hoạt động công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn hóa tiên tiến, độc lập, tự do, và cũng không giữ nổi nông thôn với đất đai rừng biển là kết quả lao động, chiến đấu của cả dân tộc suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm. Cũng như đa phần vua quan, quí tộc triều Nguyễn vì nhu cầu hưởng thụ đã dễ dàng đầu hàng xâm lược Pháp. Ngày nay đảng Cộng sản cũng vì nhu cầu hưởng thụ và ham muốn làm giàu qúa độ mà qui phục lệ thuộc bọn bành trướng Trung Quốc.
Nói như thế để chúng ta khẳng định rằng, với một đảng cầm quyền như đảng Cộng sản ngày nay không thể xây dựng và bảo vệ đất nước trong đó có Vỹ Dạ theo như nguyện vọng và lợi ích của đại đa số nhân dân.
Do vậy mà vấn đề Vỹ Dạ vườn, Vỹ Dạ chợ chị nêu ra hoặc đã quá muộn, hoặc còn quá sớm. Quá muộn vì người Cộng sản đã và đang độc quyền biến một Vỹ Dạ vườn thành một Vỹ Dạ chợ như chị vừa nói, và chúng ta vừa thấy. Quá sớm vì chưa có một nhà nước dân chủ để thực hiện các mục tiêu theo nguyện ước và quyền lợi của dân, của nước mà chị cho rằng mình là thành viên. Cũng cần phải nhận thức cho thật chính xác về hai chữ “vườn xưa”. Không có xưa và nay tách bạch tuyến tính như quan niệm lịch sử của người Cộng sản nói riêng và của phương tây Thiên Chúa giáo nói chung.
Có hai mô hình “vườn xưa” ở Vỹ Dạ và ở Huế từ 1975 trở về trước.
Thứ nhất là vườn trong các phủ đệ của các ông hoàng bà chúa, các đại thần thời nhà Nguyễn còn thịnh trị (diện tích mặt băng chừng 5000 – 20.000m2). Đây là sản phẩm kết tập giữa vườn cung đình và tinh hoa của vườn dân dã đóng góp từ ba miền đất nước. Bởi Huế là trung tâm quyền lực, cũng là trung độ của con đường cái quan vào Nam ra Bắc.
Thứ hai là vườn của các vương tôn công tử (đa phần là cháu chắt của các phủ đệ), các thượng thư (tại Vỹ Dạ đa phần là Tôn Thất và Nguyễn Khoa), và quan lại cao cấp thời bảo hộ. Mô hình và tính chất của loại vườn này đa dạng tùy theo mưc độ bảo lưu, hội nhập, điều kiện và cảm quan thẩm mỹ của chủ nhân. Qui hoạch kiến trúc vườn – nhà và giống cây trồng tại các vườn loại này so với vườn phủ có những chuyển biến rõ rệt. Qui mô vườn nhỏ hơn (diện tích mặt bằng từ 1000m2 đến 5.000m2), quan hệ cộng đồng rộng mở hơn, thiết trí vườn nhà thông thoáng, linh động và tự nhiên hơn. Cây trồng có thêm nhiều giống mới lấy từ vườn ươm của sở canh nông hay qua giao lưu thân hữu ở các vùng miền và cả từ ngoại quốc.
Do tính chất thổ nhưỡng và tâm hồn của các chủ nhân, Vỹ Dạ không có vườn cây trái nổi tiếng như thanh trà ở Nguyệt Biều, nhãn, vải, măng cụt, dâu ở Kim Long, cau ở Năm Phổ, quýt ở Mỹ lợi, Hương Cần. Vườn Vỹ Dạ là vườn của các văn nhân thi sĩ. Nó là bối cảnh bao gồm thiên nhiên (trời, mây, trăng, nước, gió, sương…), con người và cây cảnh, lá hoa (vườn), không phân biệt ai, cái gì là chủ thể. Người Vỹ Dạ thời nay e rằng phải đọc thơ Hàn Mạc Tử để biết nhiều hơn về quê làng mình một thời vang bóng…”
Những điều Văn nói với tôi không mới mẻ, nhưng cái cách khái quát các sự việc và sử dụng các thuật ngữ, cũng như đề nghị của anh ta về việc tìm hiểu vườn Vỹ Dạ qua bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ nổi tiếng của Hàn Mạc Tử đã đánh thức và làm sáng tỏ nội dung các ký ức tôi đã bỏ quên từ rất lâu.
Như tôi đã nói ở trên, trước 1975 tôi không biết gì về vườn phủ ở Vỹ Dạ xưa, bởi nó đã tàn lụi từ rất lâu trước khi tôi ra đời. Tôi chỉ biết một Vỹ Dạ vườn mà, nói gần chính xác như Văn, đó là vườn Vỹ Dạ thời thuộc địa. Tuy vậy, những ký ức của tôi về cây lá trong vườn Vỹ Dạ thời kỳ ấy cũng chỉ lưa thưa mấy gốc, mấy cành, mấy lá, mấy bông, mấy trái được nhận diện từ một góc nhìn cố vượt qua tuyến tính.
Tôi sinh năm 1950, sau này mới biết đó là thời điểm chế độ thuộc địa trong giai đoạn hồi dương. Và như thế, vườn Vỹ Dạ, nói như Văn, cũng đang ngoắc ngoải.
Khi tôi bắt đầu vượt qua khỏi hàng rào vườn nhà mình để len lỏi vào các vườn lân cận, rồi những vườn xa hơn, cho đến khi xâm nhập và tiếp cận gần khắp các vườn Vỹ Dạ để hái hoa, bắt bướm và sưu tầm cây lá, côn trùng cho những bài học vạn vật thì vốn liếng ngôn ngữ của tôi chưa có các từ suy tàn, đổ nát, mặc dù trước đó rất lâu – từ sau khi cha tôi đi kháng chiến (1946), đến khi ông vào Hội An để đưa mẹ và anh chị em chúng tôi về Huế (1954), vườn nhà chúng tôi gần như bỏ hoang, và khu vườn cỏ tranh bên cạnh (phía tay trái), nơi có cái lò rèn của đôi vợ chồng già “bạn bè thân thiết của tôi thời thơ ấu” – chẳng biết vắng chủ tự bao giờ. Theo như cha tôi nói – khu vườn nhà của chúng tôi do ông nội tôi tạo dựng nên trên một nửa khu vườn của ông Ưng Phục. Và như thế, gia đình ông Ưng Phục đã ở lại trên nửa khu vườn nhà mình còn lại trong một thời gian trước khi bỏ đi vì một lý do nào đó, hoặc gia đình ông đã cư trú tại một nơi nào đó trước khi bán một nửa cơ ngơi đời trước để lại, còn một nửa bỏ hoang từ thập niên ba mươi của thế kỷ trước. Khu vườn nhà ông nội tôi tạo lập nên, nơi cha mẹ tôi kết tóc xe tơ – ăn đời ở kiếp, nơi anh chị em chúng tôi sinh thành giữa một Vỹ Dạ không ngừng biến động vào nửa sau của thời kỳ thuộc địa.
Bên này hàng rào là ranh giới phủ Kiến An, bên kia hàng rào là cơ ngơi của cụ Ưng Úy, khu vườn nhà Lai Huyền Lục đối với tôi mãi đến thời điểm 1975 vẫn là cái gì đó bí ẩn, có hơi hướm chuyện cổ tích kiểu người đẹp ngủ trong rừng.
Cái cổng xập xệ, ngỏ vào sâu hút nằm giữa hai hàng chè tàu cao được cắt tỉa tương đối tươm tất là dấu hiệu duy nhất được chăm sóc trong toàn bộ khu vườn rộng không dưới nửa mẫu tây. Cuối ngõ là một bức “bình phong” cũng bằng cây chè tàu làm chức năng lá chắn, rẻ con ngõ thành hai lối đi ở hai bên. Bức bình phong chè tàu không phải để chắn gió mà để ngăn bước chân và tầm nhìn của những người khách không mời. Thời còn học tiểu học tôi đã vài lần men theo con ngõ vào tận bức bình phong, đứng tần ngần nhìn qua những đọt chè tàu thấy phần còn lại của bức tường sau và mái ngói của ngôi nhà loang lổ rêu phong. Tôi đã không đi vào lối nhỏ vì tôi là khách không mời. Tôi cũng không tìm cách vào vườn vì sợ ong độc và rắn rít. Tôi đã có kinh nghiệm nhớ đời là bị ong đốt trong một lần mãi mê theo đuổi các mục tiêu của mình.
Mẹ tôi thường căn dặn:
“Ong vẽ đốt nẻ sừng trâu, ong bầu đốt xâu đòn gánh” – Tôi là đứa con gái nhỏ còi cọc chứ không phải là đòn gánh hay sừng trâu”.
Trước mắt tôi khu vườn của Lai Huyền Lục đã trở thành một góc rừng. Mấy cây cau, cây chay, cây khế già đang bị lấn áp bởi những cây sung, thầu đâu cành lá um tùm, bị níu kéo che phủ bởi những cây dây leo, chùm gởi và cả chục thứ cỏ dại rối rắm.
Nhiều chục năm sau trên những bước đường lưu lạc, mỗi lần nhớ về Huế, về Vỹ Dạ, tôi đều nghĩ đến khu vườn Lai Huyền Lục. Lai Huyền Lục, tên của khu vườn hay tên của một người con gái đẹp, tôi không phân biệt, tôi cũng không tìm hỏi ai là chủ nhân, là chủ thể sản sinh ra các tạo vật liêu trai ấy. Tôi nghĩ một khi cố tình quay lưng lại với cuộc đời, người ta chẳng cần chứng tỏ mình là ai. Khu nhà ngói cũ kỷ Lai Huyền Lục không quay mặt ra đường cái – hướng đông hoặc đông – nam, gió nắng thuận hòa như nhà tôi hoặc nhiều nhà khác, cũng không quay mặt lên hướng tây – nam để ngưỡng vọng triều đình, nhà thờ Nguyễn Phước tộc, lăng miếu của các bậc tiên hoàng như đa phần của các vương tôn công tử ở Vỹ Dạ, mà quay mặt về hướng chính tây, nơi suốt mùa hè phải hứng hết cái khắc nghiệt của gió lào và những tia nắng tóe lửa, hứng hết cái giá buốt thấu xương của gió bấc suốt mùa đông.
Tôi đã nói với Văn cảm nhận này trong buổi chiều đi giáp vòng hai bên đường Nguyễn Sinh Cung năm ngoái. Và Văn đã làm tôi khựng lại khi bảo rằng:
– “Chị đã méo mó nghề nghiệp và không chừng chị cũng đã méo mó chính trị. Cái khái niệm phong thủy của người xưa không bao hàm yếu tố vệ sinh, cũng không hờn lẫy cuộc đời, mà đơn thuần mà là niềm tin có tính chất tôn giáo (tin phương hướng hợp với tuổi với mạng)”.
Vườn cụ Ưng Thông
Đối diện vườn nhà chị Lai Huyền Lục là vườn của cụ Ưng Thông. Mặt tiền khu vườn thu hẹp lại bởi một vùng đất dùng cho “khu mã ông trạng” (nơi chôn cất và cúng thờ những bào thai sinh non, hoặc xảo thai).
Khu vườn cs những cây me, cây cau cùng hoa cảnh được chăm sóc kỹ lưỡng
Sau 1975 khu vườn bỏ hoang, trở lại nơi này vào năm 2010 tôi chỉ còn thấy ngôi nhà đổ nát và chòm xóm của dân cư mới…
Vườn nhà cụ Ưng Thông năm 2012
Vườn cụ Ưng Thiều
Phía bên phải vườn nhà tôi, cách con đường xóm nhỏ, gần sát bờ sông là vườn gia đình ông bà Ưng Thiều, các cô Khánh Trợ, Phùng Khánh, Phùng Thăng và các cháu ngoại của ông bà: Tú Anh, Tú Em, Tú Ti, Tú Tí (thuộc dòng họ Phạm Đăng danh gia vọng tộc) là bạn bè thân thiết với anh chị em chúng tôi (tôi nghĩ tưởng như thế).
Cụ Ưng Thiều, là cháu nội của ngài Tuy Lý Vương Miên Trinh, chắt nội của hoàng đế Minh Mệnh. Trước khi dời nhà ra bờ sông, gia đình ông bà Ưng Thiều là chủ sở hữu của khu vườn mặt tiền có diện tích gần 5000m2. Tôi không biết thời cuộc đã tác động vào cuộc sống gia đình như thế nào mà ông bà Ưng Thiều phải nhường phần lớn đất vườn ở phía trước cho những người ngụ cư đến từ tứ xứ để lui về phía sau. Điều tôi biết chắc chắn là gia đình ông bà Ưng Thiều đã lâm vào tình trạng khó khăn từ trước mà không muốn cải thiện theo cách thông thường, vì hầu như toàn bộ các thành viên trong gia đình rất sùng thượng đạo Phật, đều muốn dấn thân vào cuộc đấu tranh khác, đó là cuộc đấu tranh với chính mình, chẳng màng thế sự.
Căn nhà ngói xinh xắn có gác nhỏ nhô ra mặt sông, có dòng nước buồn thiu, có hoa bắp lay ở phía bên kia bờ, có gió thổi mây vần đôi ngã, có bến sông trăng, cũng có trống trải chờ đợi, mong ngóng, cô đơn nhưng rồi các “chúng sinh ấy” đã quyết định tự mình dấn thân vào cuộc hành trình mới để tìm kiếm một bến bờ mới.
Trở lại thăm khu vườn của người thầy khai tâm kính yêu, nơi đây đã là quán cà phê với đèn vàng đèn xanh chập chờn.
Sát rào phía trên (Đập Đá) vườn nhà ông bà Ưng Thiều là vườn nhà cụ Ưng Úy, diện tích tương đương hoặc lớn hơn.
Cụ Ưng Úy là cháu nội ngài Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, chắt nội hoàng đế Minh Mệnh, anh em họ cùng thế hệ với cụ Ưng Thiều, thân sinh nhà bác học Bửu Hội, là vị nguyên phu của một người sau này là sư bà Diệu Huệ, là thượng thư cơ mật của triều đinh An Nam thuộc Pháp. Sau cách mạng tháng Tám cụ Ưng Úy đã ra chiến khu một thời gian. Cụ còn có một người con trai tài hoa là ông Bửu Tiến cũng lên đương đi kháng chiến.
Vườn nhà cụ Ưng Úy trước 1975 còn nguyên nhưng đã tiêu điều. Nhà chính nhà phụ lợp ngói xây theo kiểu mới (không có cột như nhà rường) nhưng cũ kỹ rêu phong đứng chơ vơ giữa khu vườn rộng từ lâu không chăm sóc. Cái cổng có hai cánh nghiêng ngã. Từ cổng, một lối đi trán xi măng với hai hàng lề xây hai bên. Trước nhà là bức bình phong chè tàu, không có bể can, non bộ và cây chậu. Quanh sân còn lại mấy cây mai cổ thụ, một vài cây cau, cây nhãn đứng rải rác giữa những vạc cỏ tranh lá xanh bông trắng…Thuở còn là học trò tiểu học, tôi đã lẻn vào khu vườn này nhiều lần. Hoa dại, bướm, dế, chuồn chuồn đã thu hút tôi. Cha tôi nói cụ Ưng Úy xây nhà, thiết kế vườn và trồng cây gần với phong cách Tây.
Cả khu vườn rộng của cụ Ưng Úy nay đã trở thành khách sạn Vỹ Dạ với du khách ra vào tấp nập mỗi ngày.
Đối diện với nhà tôi nhìn qua bên kia đường, chếch về phía dưới, phía Thuận An, là cơ ngơi to lớn của cụ thượng Tôn Thất Ngân. Diện tích mặt bằng vườn nhà cụ thượng Ngân không thua kém bao nhiêu so với phủ Ba Cửa cách đó không xa, hình thế đất đai cũng tương tự, mặt tiền khoảng 100m, chiều sâu chừng 200m chạy thẳng ra cánh đồng lúa. Nhưng sự khác biệt trong qui hoạch, cấu trúc, xây dựng giữa hai công trình là rất rõ ràng. Công trình này là phủ của vương gia với cấu trúc nhà rường mang hơi thở cung đình là chủ đạo, công trình kia là vườn nhà của quan lớn Nam triều với cấu trúc Pháp – Việt đề huề, từ cổng, lối vào, sân, nhà đến vườn cây (bài viết này tập chú về cây vườn nên các yếu tố khác xin được giảm trừ).
Đối với tôi khu vườn của cụ thượng Ngân là một thế giới cây lá, hoa bướm, dế, chuồn chuồn, nhưng tấm bảng “chien méchant” treo trước cổng thường trực đóng và hàng rào kiên cố ở bốn phía chung quanh đã ngăn những bước chân háo hức của tôi. Tuy vậy cũng đôi lần tôi đã xem qua sân vườn nhà này khi mấy đứa em cô cậu (con của dượng Tôn Thất Tương và cô Tự Nhiên) từ Phan Thiết về thăm ông nội.
Lối đi vào dinh cụ thượng Ngân rải đá cuội chạy quanh sân và hai bên nhà chính và các dãy nhà phụ ở phía sau. Sân trước rộng rãi, thoáng đãng, không có bể cạn, non bộ và chậu cây, chỉ có bức bình phong đứng giữa tương xứng với ngôi nhà kiểu mới to lớn bề thế. Mặt trước bức bình phong đắp nổi hình con cọp trong tư thế vờn mồi – nanh vuốt tua tủa trông rất dữ tợn. Ở hai bên sân, cách xa nhà, đầu này đầu kia có mấy cây vú sữa, cây nhãn cổ thụ đứng đối xứng. Các bồn hoa được thiết trí quanh các lối đi, lưa thưa mấy cây hải đường, tử vi, hồng, lựu… không được chăm bón chu đáo. Vườn hai bên và vườn sau tách bạch. Vườn hai bên trồng cau và các loại cây ăn trái ngay hàng thẳng lối nhưng xác xơ già cỗi. Vườn sau rất rộng, cây lá um tùm.
Tất cả đối với tôi là “kính nhi viễn chi” sau hai lần vào nhà cụ thượng cùng với mấy đứa em cô cậu – cháu nội của cụ. Cụ thượng Ngân đã già, thời cụ đã qua, nhưng đến thời điểm 1975 vườn nhà cụ vẫn còn nguyên vẹn. Sau 1975, cụ thượng Ngân già yếu mỏi mòn và qua đời. Trước áp lực của guồng máy chiến thắng, những người chủ còn lại phải bán tháo bán đổ với giá tương đương 6 lượng vàng. (Tôi nghe phong thanh như vậy).
Ngày trở lại (2012) nơi đây trở thành khu vui chơi giải trí có tên Đồng Khánh với âm thanh xập xình chói chát.
Qua khỏi cầu Ông Thượng là thôn Lại Thế. Cũng như thôn Hô Lâu dọc theo sông Như Ý và hai thôn Vỹ Dạ thượng và Vỹ Dạ hạ nằm hai bên đường cái và dọc theo sông Hương, thôn Lại Thế tập trung rất nhiều biệt thự của các hoàng thân quốc thích, các thượng thư và quan chức triều đình An Nam.
Vườn nhà cụ thượng Tôn Thất Hân là một trong số đó. So với cơ ngơi của cụ thượng con (Tôn Thất Ngân), biệt thự của cụ thượng cha (Tôn Thất Hân) trang nghiêm hơn nhưng kém hoành tráng hơn. Đây là ngôi biệt thự được xây dựng theo mô hình kiến trúc nhà rường, là một phủ đệ thu nhỏ.
Theo sự hiểu biết chưa đầy đủ của tôi, đây là biệt thự nhà rường tương đối hoàn chỉnh còn tồn tại đến thời điểm năm 2000 tại Vỹ Dạ. Vườn nhà được thiết trí trên một khu đất rộng khoảng 10.000m2.
Mái lợp ngói, nền móng trụ xây, khung sườn và hai cánh cửa bằng gỗ, cổng vào nhà cụ thượng Hân còn vững chắc và đẹp cổ kính. Đặc biệt cổng có một thanh gỗ lớn nằm chắn ngang trên nền từ trụ này qua trụ kia. Đây là cái ngưỡng mà bất cứ ai muốn bước qua cũng phải thận trọng. Hơn nữa cái ngưỡng cổng vào vườn cụ Thân thần còn có mục đích là không để cho bất cứ một chiếc xe nào đi vào bên trong. Tất cả phải dừng lại bên ngoài cho dù xe của hoàng đế, của khâm sứ hay của toàn quyền.
Lối vào nhà cụ thượng Thân Thần nằm giữa hai hàng chè tàu chạy theo hình góc khay, rẽ trái hai lần, bởi nhà quay lưng ra đường cái (đường làng thôn Lại Thế, hường tây – bắc), hướng mặt về phía đông – nam. Cái đập vào mắt tôi đầu tiên khi đi hết lối vào này là bức bình phong đắp hình nổi hình chữ triện ở cả hai mặt. Sau bức bình phong là bể cạn rồi non bộ và một số chậu cây cổ thụ rải rác quanh sân. Ngôi nhà chính ba căn hai chái nằm giữa, cửa bàn khoa đóng kín. Một ngôi nhà khác cũng ba gian hai chái, cũng cửa bàn khoa, nhưng kích cỡ nhỏ hơn, đứng ở mép sân bên trái. Phía đối diện là nền móng dấu tích một ngôi nhà đã bị dở bỏ…
Người chủ nhà tiếp tôi là một phụ nữ lớn tuổi có khuôn mặt chữ điền, nước da bánh mật, đôi mắt sắc sảo không dấu vẻ hoài nghi, cảnh giác, sẵn sàng chống trả mọi sự xâm nhập không có lợi cho sự bình an của bản thân và toàn bộ gia sản mà bà đang có trách nhiệm bảo vệ. Tôi nhận ra bà, nhưng bà thì xem tôi như những người khách không mời mà bà phải tiếp trong mấy chục năm qua – những người tọc mạch muốn biết đủ thứ và cũng chứng tỏ quyền lực này nọ.
– “Tôi không thể tiếp cô trong nhà vì tôi bận, có cần gì thì hỏi mau mau”.
– “Tôi chỉ muốn biết qua loa về vườn tược, cây cỏ hoa lá…Tôi không phải là quan chức, cũng không phải là nhà báo, tôi đã từng là hàng xóm của bà, bà là mẹ của Th, bạn học của tôi ở trường Thế Dạ, bà là người trong nhà cụ thượng Ngân hay ra mua hàng tại quán của mẹ tôi, lúc bấy giờ tôi còn nhỏ…Bà không phải tiếp tôi trong nhà, cũng không cần phải trả lời các câu hỏi của tôi nếu bà không muốn, vì những điều tôi muốn biết là không quan trọng…
Bà T dẫn tôi đi quanh vườn, chỉ chỏ nơi này nơi kia đã từng là: sân cây cảnh, vườn hoa, vườn cây trái, vườn bầu bí, rau đậu, vườn cây thuốc, khu vực chăn nuôi…
– “Cô thông cảm, tôi chỉ về đây khi vườn nhà trên nớ (vườn của cụ thượng Ngân) bán đi (sau 1975). Tôi là người thủ từ “đời” thứ ba ở đây sau khi Ngài Phụ chánh qua đời, lại là phụ nữ. Gia đình người thủ từ trước tôi đã bỏ chạy vì không chịu đựng nổi cách mạng. Dù sao các con tôi cũng là con cháu của các cụ …Những điều nói với cô, tôi cũng chỉ nghe nói lại. Người ta nói khi chủ nhà qua đời, vườn tược cây cối cũng buồn mà chết đi hay tàn lụi. Sáu bảy chục năm rồi còn gì. May mà hai ngôi nhà còn lại chưa hư hại, mọt mối gì nhiều”.
Khi đi ngang qua một bãi mấy trăm chậu mai mới trồng, tôi hỏi:
– “Trong nhà có ai là đàn ông sao trồng mai đây?”
– “Con tôi (tôi nghe không rõ là con trai hay con rễ.), nó là bác sĩ đang làm ở bệnh viện Trung ương Huế. Chồng là bác sĩ, vợ là giáo viên, lương không đủ sống phải làm thêm. Vườn cây trái ngày xưa nay là rẫy khoai sắn…”.
Tôi chỉ cái nền nhà còn trơ móng, hỏi:
– Căn nhà bị phá hủy tự bao giờ, vì sao”.
– “Bị đại bác tàu Mỹ bắn trúng hồi Mậu Thân.”
Khi đưa tôi ra về, qua con ngõ chè tàu bà nói:
– “Nghe nói ngày xưa Ngài Phụ chánh trồng toàn hoa quí hiếm ở hai bên con đường này từ đầu ngõ vào tận trong sân, mùa nào thức ấy, lúc nào cũng có hoa”.
–“Bà biết gì về cái ngưỡng cửa này không?”
– “Nghe nói là Ngài Phụ chánh không muốn những ông Tây trên tòa Khâm cho xe đi thẳng vào trong sân”.
Trước khi chào từ biệt, tôi sực nhớ đến những cây vả ở khu chăn nuôi, có cây đã già, có cây còn xanh tốt sum suê trái lớn trái nhỏ. Tôi hỏi:
–“Trồng vả làm chi mà nhiều rứa?”
– “Nghe nói ngày xưa khi mới lập vườn, Ngài Phụ chánh bảo người nhà trồng tất cả mười cây vả. Ngoài xóm đa phần là người làm ruộng thuê, trong bếp chẳng có gì ngoài một hủ muối và một gói ruốc mua từng bữa ở chợ, cho họ mấy trái vả, mấy trái khế, nạm (nắm) rau, bữa ăn của họ sẽ vui hơn”.
–“Có mấy cây còn xanh tốt chứng tỏ mới trồng sau này”.
–“Lệnh của Ngài Phụ chánh truyền lại: Bất cứ cây gì già chết, nếu còn sức thì bới đi, trồng lại, không còn sức thì thôi. Riêng cây vả, cây cau, cây chuối thì không được trễ nải. Cây nào không còn cho trái tốt, lập tức thay cây mới. Quan hệ với xóm giềng và cúng kỵ, chạp giỗ là nhiệm vụ của chúng tôi. Cô thấy đó, chúng tôi không chỉ thay thế mấy cây vả mà còn thay thế mấy bụi chuối, mấy cây cau… Có mâm cao cổ đầy, cô bác anh em con cháu nội ngoại tụ họp đông vui thì tốt. Nếu không, mấy nải chuối, mấy dĩa cau trầu, mấy bình trà, mấy nén hương…trong những ngày Tết giỗ kỵ chạp cũng đỡ thấy hương tàn bàn lạnh”.
Câu chuyện của bà T tại vườn cụ Thượng Tôn Thất Hân tôi kể lại với chồng tôi, anh Chu Sơn xác nhận là đã nghe phong thanh trong lần đi điều nghiên để viết về nhà rường ở Huế. Năm ngoái, trong chuyến đi vòng hai bên đường Nguyễn Sinh Cung, tôi cũng đã kể lại với Văn. Văn khẳng định: đó hoàn toàn là sự thật. Văn nói thêm:
– “Căn nhà rường còn trơ cái móng như chị đã thấy vốn là nhà học hán – nôm của các “công tử”. Cụ thượng Hân làm nhà học, chọn mời những vị thầy chính danh để bảo đảm vốn liếng hán – nôm cho con cháu trong tình thế người Pháp mưu đồ và thực hiện sách lược “cắt cuống rốn” (bãi bỏ việc học hành thi cử theo truyền thống hán – nôm của triều đình An Nam, xây trường, tiến hành sách lược giáo dục và đào tạo theo chương trình Pháp –Việt.). Trên bình diện dân tộc, công cuộc khai dân trí… của phong trào Duy Tân và công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ – diệt giặc dốt của phong trào Cộng Sản là những vận động có tính chiến lược của chủ nghĩa yêu nước. Nhưng Duy Tân và Cách mạng theo xu thế “vứt bút lông” – “lấy bút chì” một cách dứt khoát, xét về lâu về dài cũng đưa đến hậu quả “cắt cuống rốn”.
Tôi không biết đích xác cụ Tôn Thất Hân đã dịch Tam Tự Kinh vào thời điểm cụ thể nào. Nhưng làm nhà học hán – nôm và dịch Tam Tự Kinh trong bối cảnh xâm lược Pháp mưu đồ sách lược “cắt cuống rốn” dân tộc là hành động thể hiện tình tự, tư tưởng yêu nước trên bình diện văn hóa.
Tình trạng và khuynh hướng “chợ hóa” Vỹ Dạ, đưa đất nước vào con đường “Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa toàn diện và tuyệt đối” của đảng Cộng sản chứng tỏ những người nắm quyền lực thực sự trên đất nước này là những người bị “cắt cuống rốn,” chỉ biết có chữ quốc ngữ, chỉ biết có chủ nghĩa Mác – Lê Nin ở trình độ a – ác, â – ấc, họ đem cái trí cái bụng của mình, của đảng mình, của địa phương mình để biến một Việt Nam thành một “diệt Nam.”
–“Chị Th cũng nên chú ý xem qua một quan chức đã là thượng thư nhiều năm trước khi về làm phụ chính thân thần (thay vua điều hành chính sự) cho Duy Tân rồi Bảo Đại (từ 1925 – 1932) nghĩa là nhiều chục năm đứng ở cương vị nhất nhì triều đình An Nam phong kiến và tay sai mà tấm lòng như thế, suy nghĩ như thế, cách sống như thế và tài sản cũng chỉ đến như thế (ở Vỹ Dạ, ở Huế không ai tố cáo nghi ngờ cụ Thượng Tôn Thất Hân giàu có nhờ tham nhũng). Chị thử so sánh một Tôn Thất Hân như thế với các nhà lãnh đạo Cộng sản ngày nay, những người luôn rêu rao là trung thành với lãnh tụ Hồ Chí Minh, trung thành với lý tưởng đấu tranh cho người cùng khổ, cho độc lập dân tộc…”
Câu chuyện về phụ chính Tôn Thất Hân và vấn đề hán – nôm – quốc ngữ của Văn không mới mẻ đối với chúng tôi. Nhưng cách đặt vấn đề, cách lý giải và kết luận của chúng tôi không dứt khoát, quyết liệt như Văn. Có thể do sở học chuyên môn về lịch sử, ngữ văn và tư duy văn hóa chính trị của chúng tôi không đầy đủ. Anh Chu Sơn, chồng tôi mười hai năm trước sau khi đi tham quan nhiều nhà rường ở Thừa Thiên Huế đã than thở:
–“Không đọc được các bức hoành phi, trướng liễn, các bức tranh chữ, các gia phả, các văn bản hán – nôm…thì việc nghiên cứu nhà rường chỉ có “nghiên” mà không có “cứu”. Mù hán – nôm là lơ mơ về quá khứ dân tộc. Lơ mơ về quá khứ dân tộc thì khó nhận biết dân tộc và bản thân mình sẽ tồn tại ra sao trong thế giới ngày nay”.
Việc so sánh hai mẫu người, hai chế độ qua nhân vật Tôn Thất Hân như đề nghị của Văn gợi cho tôi một ý tưởng lãng mạn trong tình hình hiện tại là bảo tồn, phục hiện đầy đủ khu vườn nhà của ngài phụ chánh Thân Thần Tôn Thất Hân của triều đình An Nam như là một địa chỉ tham quan du lịch, nghiên cứu về văn hóa, lịch sử của Vỹ Dạ và thành phố Huế. Mặt bằng khu vườn còn nguyên vẹn, hai ngôi nhà rường và những trang thiết bi, những cổ vật bảo lưu được (tuy không đầy đủ) đến ngày nay là nền tảng vô cùng quí giá để gia đình và viện bảo tàn Huế khởi đầu một công việc xem ra đã chậm nhưng còn hơn không,
Cổng nhà cụ Tôn Thất Hân (mới trùng tu Ảnh chụp 2012)
Bình phong nhà cụ Tôn Thất Hân (mới trùng tu,ảnh năm 2012)
Vườn cụ Ưng Thuyên
Đối diện với chùa Ba La Mật, nhìn chếch về phía trái, bên kia đường Nguyễn Sinh Cung là một biệt thự, qua mắt nhìn của tôi: “nhiều tính chất Tây hơn Việt.” Nhóm từ “nhiều tính chất Tây hơn Việt” tôi dùng ở đây đặt trong bối cảnh một Vỹ Dạ vườn vào nửa sau thời thuộc địa. Nó không toát ra vẻ quan quyền và “Tây – Việt đề huề” như vườn nhà cụ thượng Tôn Thất Ngân. Nó không cổ kính và truyền thống như biệt thự của ngài phụ chính thân thần Tôn Thất Hân. Nó không thơ mộng, tinh tế và thuần Việt như Chu Hương viên của Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Nó rất tây, và cũng rất Vỹ Dạ, vì chủ nhân của nó là ông bà Ưng Thuyên, một đôi vợ chồng quí tộc gắn bó với Pháp về mặt văn hóa nhiều hơn quyền lực thực dân.
Đây là ngôi biệt thự xây theo kiểu Pháp. Nhà có móng cao, hiên rộng ở chính giữa, bốn bên là thảm cỏ xanh lác đác đây đó mấy cây cổ thụ. Từ cổng vào, hai bên không có hàng rào chè tàu, không có bình phong, non bộ, chậu cây cảnh, cũng không có sân như những ngôi nhà truyền thống. Hiên không mở tam cấp ra phía trước mà mở ra hai bên. Lối đi từ cổng vào đến một vị trí thích hợp rẻ làm hai dẫn tới tam cấp và ra phía sau. Mảnh đất từ chỗ rẻ đến chân hiên có hình trái tim lưa thưa mấy bụi hoa hồng và hoa bươm bướm. Sau này tôi mới biết cụ Ưng Thuyên là anh em ruột của các cụ Ưng Bình, Ưng Thiều, là cháu nội của thi hào Tuy Lý vương. Các cụ Ưng Thiều, Ưng Thuyên cùng tham gia Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm chủ soái. Cụ Ưng Thuyên còn là một họa sĩ tài tử vẽ tranh theo phong cách tạo hình, thể hiện nghệ thuật phương Tây. Bà Ưng Thuyên là cô giáo, giỏi Pháp văn, đã dịch truyện Kiều ra tiếng Pháp(3).
Ông bà Ưng Thuyên có người con trai út là một kẻ sĩ, một nghệ sĩ nổi tiếng: Bửu Chỉ. Bửu Chỉ là một thủ lĩnh học sinh sinh viên xông xáo trong phong trào đô thị thời kỳ sau của cuộc chiến tranh Việt – Mỹ. Ông vẽ tranh (bút sắt mực tàu), biểu tình, ca hát, hết mình đấu tranh cho hòa bình, quyền con người và quyền tự quyết dân tộc. Ông đã bị chính quyền miền Nam bắt bỏ tù nhiều năm vì những hoạt động “phá rối trật tự trị an”. Hết chiến tranh Bửu Chỉ trở nên một người “phản chứng” trước cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa bất nhân và phi lý. Bửu Chỉ trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp với những bức tranh sơn dầu biểu hiện thân phận bi đát của kiếp người, những xao xuyến, những giằng xé nội tâm, những khắc khoải siêu hình, những thôi thúc tìm tòi một sinh lộ mới để chúng sinh vượt thoát khỏi cảnh bế tắc, lầm than đương đại.
Ông bà Ưng Thuyên có nhiều con trai, con gái. Họ không để lại khu nhà vườn cho ông trưởng, cũng không chia năm xẻ bảy như tập quán của nhiều gia đình ở Thừa Thiên Huế. Dường như họ muốn gởi gắm tâm hồn mình cho đứa con trai út: Bửu Chỉ. Dường như họ đồng tình chia sẻ những khát vọng sâu thẳm, không ngừng sôi sục của anh.
Khu vườn nhà kiểu Tây, dấu tích kiến trúc của thời thuộc địa, nơi một gia đình hoàng tộc đã sống qua những thời đoạn nhiễu nhương đau khổ cùng cực của đất nước, nơi đã sản sinh, un đúc nên một sinh linh bé nhỏ nhưng có một sức sống mãnh liệt, một nhu cầu bức phá thường trực mọi thứ xiềng xích để kiến tạo cái đẹp và tự do. Nhà lưu niệm Bửu Chỉ là một trong những nơi đến của nhiều người để Vỹ Dạ trở lại là một địa danh văn hóa.
Vườn cụ Nguyễn Khoa Toàn - Mai Trang
Mai Trang là biệt thự của cụ Nguyễn Khoa Toàn. Vào những thập niên 60 khu vườn còn như nguyên vẹn với tấm bản đồng nhỏ kích thước 30 x40 cm khắc chữ Mai Trang màu đen gắn ở trụ cổng với hai cánh cửa gỗ sơn màu huyết dụ. Cụ Nguyễn Khoa Toàn làm quan triều Nguyễn. Triều Bảo Đại ông làm Tham tri bộ Học, sau chuyển làm Tá lý thị lang tham tri bộ Lại. Trong nội các của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân ông giữ chức Tổng trưởng bộ Giáo dục – nghi lễ, sau đó làm đại sứ Việt Nam tại Thái Lan (1951 – 1955)
Cụ Nguyễn Khoa Toàn còn là một họa sĩ có tiếng đất Thần Kinh, với những bức họa “Niềm Vui của mẹ”, “Đêm trung thu”, “Mai Hương”... Cụ Nguyễn Khoa Toàn tham gia phong trào Phật giáo chấn hưng từ những năm đầu của thập niên ba mươi (thế kỷ XX). Tượng Phật Thích Ca an vị tại sân chùa Từ Đàm do ông và Nguyễn Hữu Tuân đúc tạc.
Biệt thự Mai Trang xây theo kiểu Pháp gần giống biệt thự của cụ Ưng Thuyên, nền nhà cao, mái hiên rộng. Tường quét vôi hồng, chung quanh có thảm cỏ xanh. Đặc biệt Mai Trang có nhiều gốc mai cổ thụ với cành nhánh uốn lượng và những bụi Hải Đường nở bông đỏ thắm vào cuối đông.
Thập niên 60 của thế kỷ trước, Biệt thự Mai Trang do hai người con trai là Nguyễn Khoa Việt Anh và Nguyễn Khoa Nam Anh cai quản. Thời tôi học Y khoa, Bác sĩ Nguyễn Khoa Nam Anh là giám đốc bệnh viện Trung ương Huế, ông cũng tham gia giảng dạy lâm sàng cho sinh viên với chuyên ngành XQ.
Thời còn học tiểu học Thế Dạ tôi đã vào Mai Trang nhiều lần. Bạn Nguyễn Khoa Diệu Huyền là cháu nội của cụ Nguyễn Khoa Toàn, là con gái của ông Nguyễn Khoa Việt Anh. Lúc bấy giờ Mai Trang chỉ thấy còn vài gốc mai già ở phía vườn trước và vài bụi Hải đường già cỗi ở phía vườn sau.
Mới đây trở lại Mai Trang, khuôn viên vườn và nhà vẫn còn nguyên vẹn nhưng cây cối không còn có màu xanh như trước. Tôi hỏi, Diệu Huyền trả lời bằng một câu thơ: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bích Câu là tên do tôi gọi. Cụ Ưng Bình gọi cõi thơ của mình là Chu Hương viên. “Vườn Bích Câu” nằm cùng bên (đường Thuận An – phía dưới) cách nhà tôi hơn cây số. Chu Hương viên của cụ Ưng Bình cách vườn nhà cụ Ưng Thuyên vài trăm mét. Hai bụi tre thân vàng (thay thế cái cổng xây cổ kính và hoa mỹ khi đường Thuận An mở rộng – 1959) là đương dẫn vào cõi thơ. Tất cả đã là chuyện đã qua khi Vỹ Dạ còn là Vỹ Dạ vườn – thơ, và cũng nổi tiếng nhờ thơ.
Ngày nay đi trên đường Nguyễn Sinh Cung, du khách thấy Vỹ Dạ vườn đang thoi thóp, Vỹ Dạ thơ thì đã bị Vỹ Dạ chợ đánh đuổi tan tác, tháo chạy tán loạn cùng trời cuối đất, hoặc lẽo đẽo leo bò theo hướng cung đình thời mạt pháp.
Trước 1968 khu vườn nhà cụ Ưng Bình còn nguyên vẹn trên một diện tích áng chừng mười ngàn mét vuông (100m x 100m), cửa vườn mở ra mặt tiền (đường Thuận An), nhưng hướng nhà quay lên phía Tây – Nam (hướng của triều đình và nhà thờ Nguyễn Phước tộc). Cụ Ưng Binh Thúc Giạ Thị là cháu nội chủ soái tao đàn cung đình Tuy Lý Vương (cùng với Tùng Thiện Vương) vang danh thời Tự Đức. Ưng Bình Thúc Giạ Thị cũng là thi bá chủ soái Hương Bình thi xã nổi tiếng thời Nam triều – thuộc địa.
Tiếp thu hai nền giáo dục văn hóa Tây – Việt, làm quan Nam triều, làm thơ cảm ứng thiên nhiên, phong cảnh, thù tạc quan trường, bạn bè, gói ghém tình tự non nước, gần gũi đạo Phật và tư tưởng Lão – Trang, nhưng kiến tạo vườn thì chỉ có thơ.
Hai bui tre vàng đẹp một cách sang trọng trông như hai cánh tay của nhà quí tộc lúc nào cũng mở ra sẵn sàng đón khách. Lối vào nhà rộng, không có bờ chè tàu, ở hai bên chỉ có những cây hoa thân mộc như nguyệt quới, hải đường, ngâu, dạ lan, ngọc anh, râm, tử vi, trang, đinh lăng… mà chủ nhân cố tình trồng không ngay hàng thẳng lối, không cắt tỉa tươm tất, không rào cản giới mốc.
Ngôi nhà chính lợp ngói đỏ ba gian hai chái là một ngôi nhà rường được tân trang, tôn tạo một số bộ phận, chi tiết nhưng vẫn giữ nguyên bản sắc. Nền móng cao hơn, hiên rộng hơn, tường xây, cửa sổ mở nhiều hơn nhưng ba bộ cửa bàn khoa ở ba căn giữa và các cửa thông vẫn giữ nguyên. Trước hiên là một giàn hoa thiên lý chạy dài từ đầu hồi này qua đầu hồi kia. Non bộ, bể cạn và bình phong chè tàu đối diện với căn giữa. Các loài hoa thân thảo như quỳnh, thủy tiên, cúc, địa lan, hồng, thược dược trồng trong các chậu, xuất hiện theo mùa tại các vị trí thích hợp ở hiên và sân. Các loại hoa thân mộc như mai, đào (bích đào), lê (lê hoa trắng), hải đường, nguyệt quới, ngâu, ngọc anh, trang, tử vi, hồng (hồng trái), và các loài hoa thân thảo khác như hồng tường vi, yên chi, hồng tỷ muội, nức nẻ …trồng chen lẫn và rải rác trên nền đất hay trong các bồn xây quanh nhà. Cây mai bao giờ cũng được trồng ở những vị trí trang trọng. Trước các cửa sổ, lựu trắng, lựu đỏ trồng chen nhau tạo thành những bức rèm hoa tùy theo hướng mà dày mỏng khác nhau, nơi thì che được ánh nắng gắt buổi chiều, nơi thì đón được những tia sợi hồng hào của mặt trời buổi sáng.
Cuối hè 1962, tôi 12 tuổi – học xong lớp đệ thất, theo cha đến thăm Chu Hương viên. Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã qui tiên hơn một năm trước. Bác Bửu Kỉnh, người thừa kế Chu Hương viên đưa chúng tôi đi xem các khu vực trồng hoa trong khu vườn mà theo nhận xét của cha tôi là đẹp nhất Vỹ Dạ. Cha tôi đã đến vườn Chu Hương vài ba lần cùng với cụ Ưng Thiều lúc cụ Ưng Bình còn tại thế. Cha tôi không phải là thi sĩ thứ thiệt nên không thích thú lắm với Hương Bình thi xã, nhưng lại tỏ ra vô cùng ngưỡng mộ “cõi thơ”. Đưa tôi đi thăm “cõi thơ” là để thưởng công tôi đã thực hiện “chương trình mùa hè” cha mẹ tôi đã đề ra cho tôi năm đó: Tập chép (chữ đẹp) hết tập thơ Bích Câu kỳ ngộ (678 câu lục bát) và học thuộc lòng một số đoạn trong đó.
Xong một vòng khu vực trồng hoa, bác Bửu Kỉnh mời cha tôi vào hiên uống trà và trò chuyện. Tôi thơ thẩn quanh sân, vừa đi vừa đọc (cốt để bác Bửu Kỉnh nghe – để khoe…):
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao.
Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông…”
Bác Bửu Kỉnh cười ha hả, kêu tôi lại bảo:
“Cháu rất giỏi, nhưng đã đọc Bích Câu kỳ ngộ chưa đúng lắm, thành Tây chứ không phải thành Đông. Muốn biết Chu Hương viên còn có gì giống vườn Bích Câu trong Bích Câu kỳ ngộ, lần sau cháu tới, bác sẽ dẫn cháu đi thăm tiếp. Hôm nay cứ tạm bằng lòng như thế, bác và ba cháu còn phải nói chuyện”.
Tôi không đợi đến lần sau, ở Chu Hương viên tôi còn có Như Kim là bạn học ở trường Thế Dạ, anh Vĩnh Am con trai trưởng của bác Bửu Kỉnh là bạn học của các anh chị tôi, cả hai vào kéo tôi ra nhà sau xâm nhập “cõi thực” của Chu Hương viên. Tôi ra nhà sau ăn mít cùng với họ. Mùi vị của trái mít chín lấy từ ngoài vườn khiến tôi quên hết mọi thứ đã làm tôi mê mẩn chỉ mấy phút trước đó thôi.
Thì ra Chu Hương viên của cụ Ưng Bình không chỉ là “cõi thơ”. Nó còn có “cõi thực” ở phía trước và “cõi mộng” ở phía sau. Phía trước, phía sau là bối cảnh được thiết trí trên một mặt bằng mà các ngôi nhà chính – phụ và vườn hoa là trung tâm như tôi đã mô tả chấm phá ở trên. Phía trước là vườn cây trái và là nơi trồng các loại cây phục vụ bếp núc: chanh, ớt, rau thơm, tía tô, bạc hà, môn bẹ tím…Phía sau là khu vực tiếp giáp bờ sông, với những cây lưu niên như mít, nhãn vải, vú sữa…, những gò nống hoa dại, những lối đi nhỏ trông giống như một góc rừng nhỏ.
Phía trước và phía sau, “cõi thực” và “cõi mộng” cũng là thời gian trong cuộc đời của thi sĩ. Tôi còn đến Chu Hương viên nhiều lần nữa – cho đến biến cố tết Mậu Thân (1968). Và nhiều lần nhớ nghĩ về vườn Bích Câu của cụ Ưng Bình cho đến tuổi già để nhận biết sự thật này.
Trước khi qua đời (cuối hè 1963) cha tôi còn đưa tôi đến Chu Hương viên hai lần. Một lần ông được bác Bửu Kỉnh mời uống rượu ngắm hoa quỳnh nở vào buổi tối. Một lần vào buổi chiều bác Bửu Kỉnh mời ông đến nghe nghệ sĩ Minh Mẫn tài danh hò và ca các sáng tác của cụ Ưng Bình.
Gia đình tôi sau biến cố “vụ gạo miền Trung” lâm vào tình trạng khó khăn. Thiếu thốn và khủng hoảng là chuyện hàng ngày. Trước tình cảnh bức bách ấy cha tôi phải đi làm thư lại tại Quảng Nam và mỗi chiều thứ bảy lại về nhà với câu chuyện những chiếc bao bố căn phồng xác người trôi trên sông Thu Bồn cùng những âm thanh khủng khiếp của hận thù, chết chóc mà ông nghe được từng đêm đã làm cho mẹ tôi khóc rưng rức. Do vậy mà việc uống rượu ngắm hoa quỳnh nở của người lớn vào thời điểm đó (cuối năm 1962) đối với tôi vẫn còn là một trở ngại tâm lý. Nhưng khi nghe nghệ sĩ Minh Mẫn hò và ca Huế thì lại là một cảm nhận khác.
“Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Tôi đã chép và học thuộc lòng bài vè này vào mùa hè năm 1958 sau khi học xong lớp tư (lớp hai bây giờ). Rất thích nhưng không xao xuyến, không rung động cả tâm thân như khi trực tiếp nghe cô Minh Mẫn hò tại Chu Hương viên bốn năm sau (1962). Cái “lòng nước non” tôi không hình dung được như thế nào vào thời điểm kỳ diệu đó. Nhưng điệu hò, chất giọng và cách luyến láy của người nghệ sĩ, đặc biệt là 9 tiếng ai của người sáng tác đã tra vấn và theo tôi suốt cả cuộc đời. Chính “cái lòng nước non” đã níu chân tôi lại…
Sau khi cha tôi qua đời, tôi còn đến Chu Hương viên hai lần nữa. Một lần theo lời nhắn của bác Bửu Kỉnh rằng Chu Hương viên còn có nhiều chỗ rất giống vườn Bích Câu mà tôi chưa biết. Một lần anh Vĩnh Am nói là có trái mít đã chín. Dường như cả bác Bửu Kỉnh và anh Vĩnh Am đều muốn chia sẻ phần nào nỗi trống vắng hụt hẫng của đứa con vừa mới mất cha.
Tôi xuống, bác Bửu Kỉnh dẫn tôi đi thăm “cõi mộng” của Chu Hương viên. Vừa đi bác vừa bảo cháu hãy đọc tiếp Bích Câu kỳ ngộ. Tôi không đọc tiếp mà đọc từ đầu:
“Thành Tây có cảnh Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao.
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
Xanh xanh dãy liễu ngàn thông,
Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều.
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa…
Cõi thơ và cõi mộng của Chu Hương viên chỉ có sự khác biệt trong ngôn ngữ, nó không có ranh giới trong cấu trúc tổng thể. Bởi cõi thơ còn là cõi mộng trong tâm hồn thi sĩ.
Qua khỏi vườn hoa là tới vườn rừng. Cái tên vườn rừng là do tôi đặt. Bác Bửu Kỉnh không gọi nó là gì. Vườn rừng nằm hai bên con đường nhỏ dẫn từ sân ra bờ sông. Bác Bửu Kỉnh chỉ trỏ và dẫn giải cái này cái nọ và hướng dẫn tôi đi trên những “dấu tiều” bên những đám cỏ, những bờ rêu. Cha tôi giải thích “dấu tiều” là lối đi của người tiều phu trong rừng. Đó là con đường mòn do người kiếm củi hay người đốn gỗ để lại sau nhiều năm vào rừng mưu sinh. Còn “dấu tiều” trong vườn nhà quí tộc thi bá là lối đi nhỏ (vừa đủ cho một người đi một cách thận trọng để tránh dẫm lên cỏ hoa) quanh co được thiết trí giữa những đám cỏ rêu, những cụm hoa dại nhiều màu, những gò nống đá, cây cổ thụ (đa phần là cây có dáng đẹp và có hoa) và lùm bụi, những ao hồ nho nhỏ với súng với sen. Tất cả được chăm sóc công phu tinh tế nhưng cố gắng giảm thiểu dấu vết do bàn tay con người. Bến sông của Chu Hương viên là một dãy dài những khối đá to nhỏ dưới táng những cây sung, cây cừa cổ thụ, hai bên những bậc cấp và một tấm bê tông lớn. Rể của những cây cổ thụ uốn lượn bám vào bờ tạo nên những chỗ rộng vừa đủ để ngồi uống rượu, ngắm trăng và neo đậu thuyền. Bác Bửu Kỉnh nói:
“Thời nhà bác còn thịnh vượng, cụ Ưng Bình thường hay dạo thuyền hoặc tổ chức ngâm vịnh, đàn ca xướng hát trên sông Hương.
Tôi hỏi nhà bác còn có những lúc không thịnh vượng nữa sao? Bác Bửu Kỉnh xoa đầu tôi, cười buồn:
“Nhà bác cũng như nhà cháu, cũng như Vỹ Dạ, Huế và cả đất nước thôi, có lúc như thế này, cũng có lúc như thế kia. Vua mà còn bị giết, bị đày huống hồ là…”
Tôi theo bác Bửu Kỉnh vào nhà. Sau lưng tôi là “một vùng non nước đìu hiu”.
Lần cuối cùng tôi đến “vườn Bích Câu của cụ Ưng Bình” sau đó không lâu. Lần đó anh Vĩnh Am mang lên nhà tôi một nải chuối, mấy trái hồng, mấy trái vú sữa (nói là lấy trong vườn) để cúng cha tôi. Anh Vĩnh Am còn chở tôi xuống nhà anh ăn mít. Bác Bửu Kỉnh và mọi người tề tựu hết ở nhà dưới, đang bàn luận về phong trào Phật giáo (lúc bấy giờ vào khoảng giữa tháng 10 – 1963).
Trên bàn không chỉ có mít mà có cả ổi, vú sữa, thanh trà. Ở bàn bên kia bày la liệt nhiều nải chuối, nhiều trái hồng, mãng cầu, đu đủ và cả trầu cau. Anh Vĩnh Am nói chuẩn bị kỵ bà nội và cúng Phật. Mít không được ngon nhưng cuộc nói chuyện râm ran rất vui. Ai cũng mong phong trào Phật giáo kết thúc, cuộc sống trở lại bình thường. Tôi hỏi anh Vĩnh Am
“Có phải tất cả trái cây trên bàn kia là lấy từ trong vườn?
– “Có phải vườn cây trái là “cõi thực” của Chu Hương viên?
Cả anh Vĩnh Am và bác Bửu Kỉnh đều cười thành tiếng. Anh Vĩnh Am nói:
– “Cái con nhỏ này đi đâu, làm gì, nói gì cũng quay trở lại vườn”.
– “Nếu “cõi thực” chỉ là vườn cây trái thì hạnh phúc biết chừng nào, mà như thế thì đâu còn là cõi thực nữa mà là cõi mơ, cõi mộng, là vườn địa đàn rồi. Có điều vườn cây trái của Chu Hương viên cháu cũng nên xem qua để hết tò mò”.
Diện tích của Chu Hương viên chừng một mẫu tây. Trừ diện tích làm nhà, sân, vườn hoa, vườn cảnh khoảng 7000m,2 còn lại trên dưới 3000m2 là vườn cây trái, rau dưa và cả sân gia súc, gia cầm. Bác Bửu Kỉnh nói: “Từ hồi ông cụ và con cháu nhà này theo Phật, việc chăn nuôi giảm dần rồi bãi bỏ”. Tôi theo bác Bửu Kỉnh đi một vòng khắp khu vực phía sau nhà chính, quanh khu vực nhà phụ và bếp, ra phía đường cái rồi vòng trở lại vườn hoa và sân. Lúc quay trở lại bàn, bác Bửu Kỉnh tiếp tục:
– “Thời gia đình còn thịnh vượng, ông cụ đi làm quan, giao lưu họ tộc, bạn bè và du lịch khắp cả nước, tới đâu, thấy cây gì quí, trái gì ngon là lấy giống đem về trồng: Nhãn vải Hưng Yên, cam sành, sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, mãn cầu xiêm, mãn cầu dai… Nam kỳ lục tỉnh, cam xà đoài Nghệ An, thanh trà Nguyệt Biều, quít Mỹ Lợi, Hương Cần, xa – bu – ti ở vườn ươm canh nông…mỗi thứ vài cây. Nhưng cháu thấy đó, hầu như tất cả đều không tồn tại, hoặc thoái hóa. Vườn nhà bác cuối cùng còn lại những cây trái quen thuộc: chuối, mãng cầu, mít, vú sữa, đu đủ, chanh…Tất cả cũng đang trên đà suy thoái lụi tàn. Cây hồng mới lấy giống đâu từ Lạng Sơn Cao Bằng gì đó cũng không thích hợp, cây suy yếu mòn mỏi dần, trái nhiều nhưng nhỏ, đem trồng trong vườn hoa làm cảnh…
– “Lần đầu tiên đến Chu Hương viên cùng cha cháu, cháu chỉ chú ý những cây hoa trồng không ngay hàng thẳng lối ở ngỏ vào, nhưng vừa rồi đi xem vườn với bác, cháu thấy bên trong các bụi hoa là hai hàng cau thẳng tắp. Tại sao vườn nhà bác cũng như vườn nhà cháu trồng cau thành hàng thẳng ở hai bên lối vào mà không trồng ở những vị trí khác trong vườn”?
–“Về hình thức, tàn lá cây cau trông như cái lọng. Xứ Huế là xứ sở của vua chúa, lọng được dùng khi các vị di chuyển. Huế cũng là xứ sở của tế lễ, lọng dùng để che các mâm bàn lễ vật khi đưa rước. Hai hàng chè tàu được cắt tỉa tươm tất ở phía dưới, hai hàng cau ngay hàng thẳng lối với vòm lá trông như hai hàng lọng ở phía trên, lối vào của một khu vườn nhà vừa biểu tỏ niềm hy vọng về một cuộc sống hạnh phúc trong vinh hoa phú quí, vừa để che nắng cho người đi.
Cau trầu còn được người Huế sử dụng trong các dịp giao tế hàng ngày (miếng trầu là đầu câu chuyện) và trong tất cả các lễ Tết, cúng giỗ, kỵ chạp, đặc biệt là trong các dịp cưới hỏi.
Nhiều nhà vườn ở Vỹ Dạ, ở Huế trồng cau ở vị trí, theo mô hình và mục đích như thế. Ông cụ nhà bác muốn phá cách đôi chút nên thay vì trồng chè tàu như nhà cháu, ông trồng các loại cây hoa ở hai bên lối vào dưới những lọng vòm lá tàu cau với ngụ ý chào đón, đưa tiễn thân tình mà trang trọng”.
Câu chuyện của bác Bửu Kỉnh làm tôi say mê. Đó là lần sau cùng tôi mon men tiếp cận Chu Hương viên. Nhưng người của Chu Hương viên, anh Vĩnh Am, vẫn tiếp tục lui tới nhà tôi cho đến tết Mậu Thân. Đêm ba mươi Tết năm ấy, anh Vĩnh Am, anh Bửu Hàm (con cụ Ưng Luận) đổ xăm hường với chúng tôi đến gần giao thừa mà chưa muốn về. Mẹ tôi đã “đuổi” để các anh về sum họp với gia đình trong dịp năm mới.
Sau cái đêm kinh hoàng ngàn năm có một ấy, anh Vĩnh Am không bao giờ trở lại nhà tôi nữa.
Chiến tranh, hận thù đã cướp đi người con trai đầu của bác Bửu Kỉnh, người cháu đích tôn của cụ Ưng Bình, người bạn vong niên của tôi, người rắp tâm đem cau trầu đến xin hỏi cưới chị hai tôi. Nhiều năm sau mẹ tôi vẫn còn ân hận vì đã hành động rập khuôn theo tập quán. Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh...! Biến cố, biến cố, biến cố…! Cách mạng, cách mạng, cách mạng…! Bác Bửu Kỉnh và gia đình buồn rầu bỏ Huế ra đi sau biến cố Mâu thân và qua đời lúc nào, ở đâu tôi không hay biết. Chu Hương viên từ 1968 trở nên tiêu điều, nhà cửa xuống cấp, nhưng người ra vào, qua lại thì nhốn nháo hơn. Mỗi lần có việc đi qua, ngó vào, lòng tôi buồn rầu xao xuyến.
Sau 1975 khu vườn có thêm nhiều người ở và hình như ngôi nhà chính biến thành xưởng thêu ren… Cõi thơ, cõi mộng của gia đình cụ Ưng Binh tan biến như chưa từng có trong cõi thực đắng cay, bạo tàn, hoảng loạn của mùa xuân 1975.
Tôi nhớ lại lời nói buồn rầu, bỏ lửng của bác Bửu Kỉnh trong lần cuối tôi đến vườn Chu Hương: “Nếu cõi thực chỉ là vườn cây trái thì hạnh phúc biết chừng nào…”
Tháng ba năm 1986 tôi có việc đi Hà Nội. Tại Viện Nhi (lúc bấy giờ là bệnh viện nhi Việt Nam – Thụy Điển còn gọi là Viện nhi Olop Palmer), một đồng nghiệp trở nên thân quen vì cha cô là thi sĩ và tôi thì hâm mộ và thuộc nhiều thơ của ông. Nhà thơ Tế Hanh và bác sĩ Thanh Phước coi tôi như học trò và là người bạn tâm tình biết lắng nghe về thơ, về Quảng Ngãi, về Huế và về Hà Nội. Nhờ hai vị mà tôi có được những ngày ở Hà Nội thú vị và phong phú.
Nhà thơ Tế Hanh đánh giá cao Bích Câu kỳ ngộ. Ông cho rằng trong số các trường ca thuộc văn học cổ điển như Truyện Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Hoa Tiên… thì Bích Câu kỳ ngộ mang nhiều tính chất nội địa hơn hết. Thể thơ lục bát điêu luyện chuyển dịch từ một tác phẩm bằng Hán văn của một tác giả Việt Nam (Đoàn thị Điểm?). Bích Câu kỳ ngộ là một câu chuyện truyền kỳ nhưng thời gian và không gian diễn biến trong tác phẩm lại rất cụ thể (triều Lê và Hà Nội). Những địa danh trong Bích Câu kỳ ngộ như chùa Ngọc Hồ, cầu Đông, đền Bạch Mã… ngày nay chúng ta có thể tìm thấy dấu vết trên một vùng rộng lớn thuộc nội thành Hà Nội.
Có lẽ Văn miếu Quốc tử giám là trung tâm để các nhân vật trong vườn Bích Câu qui hướng về. Cũng như kinh thành Huế đối với Vỹ Dạ vậy.
Tôi nghe nói (không qua nhà thơ Tế Hanh và cô bạn bác sĩ Thanh Phước) có một phường Bích Câu đang tồn tại gần khu vực Văn Miếu. Tôi một mình tìm đến mong bắt gặp chút gì đó hao hao trong tâm tưởng. Và cái mà tôi đã thấy là một con đường đất đá mang tên Bích Câu với tấm bảng ghi tên đường lắc lư trên cái cọc gỗ xiu vẹo. Đường nhỏ, mấp mô, xe cộ vắng hoe, người qua lại lưa thưa lầm lủi, phố xá tiêu điều lấm lem bụi đất, rác rưởi; ở bên phải hay bên trái gì đó có một lò gạch bỏ không, cỏ cây nhếch nhác và đồ phế thải ngổn ngang hoang phế. Đối diện lò gạch là “Cửa hàng bán rau thịt tươi sống Thanh niên làm theo lời Bác”. Quả là một phần của đất nước đìu hiu, một thứ đìu hiu đậm đà bản sắc Xã hội Chủ nghĩa đang thời kỳ tiến xuống để rồi ngóc đầu lên với kinh tế thị trường cổ nọng – bụng phệ – ngực bự– chân dài như Vỹ Dạ ngày nay.
Cụ Ưng Bình cùng con gái Hỷ Khương trước cổng Chu Hương viên khi chưa bị phá bỏ do mở đường (ảnh trên mạng Google).