Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 4)

Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Giao bóng

Khi tôi chơi bóng chày trong đầu các năm 1980, tôi đã là một cầu thủ giao bóng (pitcher). Việc giao bóng là một chút giống việc tuyên bố tự do. Bạn một mình, được nâng lên trên một gò đất, trong vòng tròn nhỏ của danh giá, lao động, và thất vọng được vẽ bằng phấn của mình. Cuộc đấu phụ thuộc vào những gì bạn làm tiếp theo.

Trên gò đất của cầu thủ giao bóng, như tôi đến một xéc trước khi tôi kết thúc sự chuẩn bị ném bóng, tôi hình dung những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Tôi tưởng tượng sự giao bóng tôi sắp ném—chẳng hạn một quả bóng nhanh lên trên góc bên trong—và tôi thấy, trong con mắt tâm trí của tôi, người đánh bóng lưỡng lự và mất thời gian đánh giá liệu nó là một cú bóng hay một cú đánh, đu đưa muộn và quá nhanh, và trượt. Tôi thậm chí thấy sự nhăn mặt của anh ta. Trong một sự mường tượng thuộc loại này, mà Stein gọi là 36“một ý định thấm vào toàn bộ,” một thế giới khác xuất hiện, một nhịp trước thế giới này. Không luôn luôn, nhưng thường xuyên, tôi có thể đưa hai thế giới này lại với nhau, cú giao bóng như tôi muốn giao, và gây ra phản ứng tôi mong đợi. Trong một cụm từ của Roger Angell mà tôi quý trọng như một đứa trẻ, bóng chày là 37“cục nhỏ vật lý” của tôi.

Chúng ta không là các thần cũng chẳng là các đồ vật. Chúng ta là những con người có thể trở nên tự chủ. Tự do không phải là sự thiếu cũng chẳng phải là sự chấp nhận các ràng buộc, mà đúng hơn là việc dùng chúng. Gò đất (the mound) cách sáu mươi feet và sáu inch (19,65 m) từ chốt nhà (home plate), và nó được nâng cao mười inch (0,254 m) trên mặt đất; mà cả cản trở và cho phép một sự giáo bóng. Chúng ta tự do để làm những thứ chúng ta có thể làm, mà thông thường là những thứ những người khác dạy chúng ta làm và mà chúng ta luyện tập. Những gì một cẩu thủ giao bóng làm trên gò đất là một kết quả không chỉ của những lựa chọn thích hợp với một tình huống trận chơi, mà của tất cả sự sự lặp lại trước đó.

Cùng đúng thế cho bất cứ lựa chọn nào chúng ta đưa ra. Chỉ nghĩ đến các đức hạnh là là không đủ; như Aristotle nói, chúng ta phải thực hành chúng bằng việc thêm chúng vào thế giới. 38“Tự nhiên kháng cự,” Simone Weil nói, “nhưng nó không tự bảo vệ.” Bạn cảm thấy sự kháng cự đó khi bạn nhấc một quả bóng chày lên hay chạm các dây của một đàn guitar. Các dây đàn kháng cự sự gảy dây nhưng mang lại hợp âm. Quả bóng chày kháng cự khi bạn nhấc nó lên nhưng chịu thua khi bạn đặt ngón giữa lên một vết khâu, ngón trỏ vào ngón giữa, gập cổ tay, và ném một quả bóng bay cong. Khi chúng ta biết chơi thế nào, và chúng ta muốn chơi, thì sự kháng cự và sự chịu thua (của quả bóng) là cùng thứ.

Sự giao bóng phải theo các quy tắc không do chúng ta làm ra, và các vòng cung lại do chúng ta tạo ra. Tôi biết cú ném của tôi bởi cách con gái tôi nhận nó, và tôi điều chỉnh; đó là kiến thức tôi không thể tự mình đạt được. Quả bóng rời tay tôi gắn với các mục đích của tôi. Các mục đích không ở trong bốn chiều đầu tiên của không và thời gian mà trong chiều thứ năm, trong cái Edith Stein gọi là 39“thế giới của các giá trị.” Đằng sau tất cả các cú ném bóng của tôi cho con gái tôi cũng là những suy nghĩ về nó có thể lớn lên thế nào, và trong mỗi cú ném bóng của tôi là mọi cú ném từ cha của chính tôi. Tôi không tạo ra thế giới của các giá trị hay thế giới của các thứ, nhưng đôi khi tôi tạo ra những lối đi nhỏ giữa chúng. Theo cách khiêm tốn này, tôi tự chủ.

Stein viết rằng con người thuộc về cả hai thế giới, chịu cả 40“quy luật tất yếu” (“law of necessity”) và “quy luật tự do.” Tôi thuộc về hai lĩnh vực, và tôi có thể đứng với một chân trong mỗi lĩnh vực. Tôi có thể đưa quả bóng suốt từ sự tất yếu đến tự do. Nó vẫn là cục nhỏ vật lý của tôi. Con gái tôi bây giờ cũng là một cầu thủ giao bóng, trong môn bóng mềm (bóng chày nữ), như thế cục nhỏ vật lý cũng là của nó. Nó đã chọn để thực hiện một nhiệm vụ mà cả rất giống và rất khác với việc giao một quả bóng chày. Quyết định đó là của nó, tuy nhiên nó có cái gì đó liên quan đến những gì nó thấy trong tôi.

Khi chúng tôi chơi bắt bóng, các mục tiêu không phải hoàn toàn trong thế giới vật lý. Tay ném và tay bắt là Leib. Con gái tôi giơ găng tay của nó lên, và tôi có thể đưa quả bóng vào lưới găng tay của nó, từ một khoảng cách ngắn hơn hay xa hơn. Tôi giơ găng tay của mình lên ngay trước khi cú ném của nó đến với tôi, được nhắm hướng không chỉ bởi sức manh của nó mà cả bởi ý định của nó. Một vòng cung nhỏ của khát vọng kéo đằng sau vòng cung của một quả bóng, như đuôi của một sao chổi.

Trong việc mô tả vật lý đối xử thế nào với chúng ta, Simone Weil nói về 41“một quy luật kép, một sự thờ ơ rõ ràng và một sự đồng lõa bí ẩn.” Vũ trụ không biết về chúng ta, thế nhưng đôi khi nó chơi cùng. Ví dụ về cú ném bóng là ví dụ của bà.

Hơi thở

Một ngày mùa hè tiếp theo, của năm 2021, con gái tôi và tôi đang chơi bắt bóng trên một đường chạy ở cạnh của một thị trấn cổ, bây giờ là một thị trấn Ba lan gần biên giới Lithuania. Rồi chúng tôi đi tới đường chính để mua kem. Trong khi đứng xếp hàng tại quầy kem mềm, chúng tôi thấy một số người thổi kèn saxophon đang giải lao trước giáo đường Do thái (trước kia), Synagogue Trắng xứ Sejny.

Tôi biết, và con gái tôi biết, rằng những người Do thái của thị trấn bị tàn sát sau khi những người Đức đuổi họ vào đầu Chiến tranh Thế giới II. Sau chiến tranh, tại Ba Lan cộng sản, giáo đường được dùng như một nhà kho. Trong 1989, khi chủ nghĩa cộng sản kết thúc, tòa nhà được tiếp quản bởi đoàn nhỏ của các diễn viên, nghệ sĩ, và nhạc công 42gọi bản thân mình là Borderlanders (những người vùng Biên giới). Họ đã có một ý tưởng lạ kỳ: rằng mọi người sẽ tự do hơn nếu họ có thể dùng nghệ thuật để xem xét bản thân mình, những người khác, và quá khứ.

Đoàn Borderlanders sau đó bắt đầu dạy trẻ con địa phương, những đứa trẻ Ba lan và Lithuania, cách chơi klezmer, âm nhạc dân gian Do thái phổ biến ở Ba Lan trước chiến tranh. Ngày qua ngày, năm này qua năm khác, những bé trai và bé gái địa phương chấp nhận quà tặng âm nhạc, học cách chơi các nhạc cụ. Mỗi năm những đứa trẻ mới, cỡ 5 hay 6 tuổi, gia nhập những đứa lớn hơn. Tôi đã nghe dàn nhạc chơi trong giáo đường đó lâu hơn con gái tôi đã sống. Tôi đã thấy những đứa trẻ trở thành thiếu niên, và các thiếu niên trở thành những phụ nữ và đàn ông trẻ.

43Mỗi năng lực mới đóng góp cho sự tự chủ của chúng ta và như thế thuộc về tự do. Bởi vì họ có thể chơi các nhạc vụ, các nhạc công bày tỏ bản thân mình mà lẽ ra họ đã không thể bày tỏ. Âm nhạc họ chơi là âm nhạc Do thái, và họ luyện tập trong cái một thời đã là một thị trấn phần lớn Do thái, và họ trình diễn trong cái một thời là một nhà thời Do thái. Hơi thở của họ kết nối họ với một thế giới của các giá trị mà một ngày sẽ đến với họ. Khi thời khắc đến để hỏi nó có nghĩa là gì để có một synagogue mà không có những người Do thái, những người Do thái đó không hoàn toàn vắng mặt. Theo cách nào đó, họ hiện diện trong âm nhạc, và âm nhạc hiện diện trong những đứa trẻ—hiện diện trong cơ thể chúng, trong cơ bắp chúng cũng như trong tâm trí chúng.

Lắng nghe âm nhạc, mọi người khóc trong Synagogue Trắng ở Sejny. Tôi rớt nước mắt khi những người trẻ trong khán giả có sự can đảm để nhảy múa. Rốt cuộc phần lớn âm nhạc có ý định là để mang lại niềm vui. Vài trong số đó là âm nhạc đám cưới. Vài trong số đó, tôi đột ngột nhận ra, đã được chơi trong đám cưới của tôi.

Họ hàng của con gái tôi, ba hay bốn thế hệ trước, đã bị tàn sát trong thành phố lớn gần nhất. Những người Do thái của Białystok, những người của ông ngoại nó, hàng chục ngàn người đã 44bị bắn và bị ngạt hơi đến chết, sau khi bị bố ráp trong sân vận động địa phương. Khi tôi viết đoạn văn ngắn này, con gái tôi ở đó, ở Białystok, dự lễ tốt nghiệp của một cô Ba lan giữ trẻ mà đã trở thành một người bạn.

Con gái tôi tồn tại chỉ bởi vì các tổ tiên của nó về phía ông ngoại nó đã rời Białystok, và các tổ tiên về phía bà ngoại nó đã rời Ukraine. Lễ tốt nghiệp đầu tiên nó dự là ở Białystok, đám cưới đầu tiên nó dự là ở Ukraine. Nó là một cô gái bưng hoa.

Sự tự chủ liên quan đến thân thể, với nó chúng ta học để làm. Nó cũng liên quan đến quá khứ, với thế giới chúng ta kế thừa. 45“Quá khứ và tương lai,” Weil nói, “là của quý duy nhất của con người.”

Sự nhận ra

Khi Nga xâm lấn Ukraine trong tháng Hai 2022, con gái tôi biếu tất cả tiền của nó cho những người Ukrainia. Trong vài tuần đầu sau khi Nga xâm lấn toàn diện Ukraine, tôi liên tục nhận các cuộc điện thoại từ những người Do thái Mỹ, mà tổ tiên của họ đã trốn khỏi Ukraine, hỏi họ có thể giúp thế nào. Họ đã có khả năng nhận ra sự bất công.

Ukraine, địa điểm ngày nay của cuộc chiến tranh tàn phá và hủy diệt của Putin, từ lâu đã là đối tượng của các đế chế. Đối với Stalin, nó là 46một “pháo đài” tài nguyên phải được bòn rút cho “sự thuộc địa hóa bội bộ.” Hitler muốn Ukraine như 47Lebensraum, không gian sống. Trong 48các huyễn hoặc thuộc địa này, những người Ukrainia đã chẳng hề được thấy, hay được thấy như sinh vật dưới người.

Leib đầu tiên trở lại Körper trong tâm trí. Trong tuyên truyền Nazi, những người Đông Âu đã là các động vật hạ đẳng. Trên các poster Soviet, các nông dân giàu là lợn. 49Truyền hình Nga ngày nay (hệ thống truyền hình RT) đưa quan niệm này đến một sự cực đoan hậu hiện đại: những người Ukrainia phải bị hủy diệt bởi vì họ là lũ Nazi, Do thái, đồng tính, Sa tăng, ma cà rồng, zombie (thây ma), sâu bọ. Bước tiếp theo là bạo lực, ngược với sự nhận ra Leib. Khi chúng ta tra tấn hay làm nhục một thân thể, chúng ta vật hóa nó thêm nữa. Sau khi thân thể bị hạ cấp và người bị làm nhục, kẻ giết người thấy công việc đễ chịu hơn. Một số kẻ khoái trá nó.

Trong việc làm mất nhân tính những người khác, chúng ta biến mình thành không-tự do. Nếu chúng ta nhìn những người khác chỉ như Körper, chúng ta không thể thấy bản thân mình như Leib; chúng ta đánh mất lời hứa về tự do của chính chúng ta. Như thế chúng ta chỉ có thể trở nên tự do với sự giúp đỡ của những người mà, khác đi chúng ta có thể hạ thấp, ngược đãi, hay bỏ qua. 50Tại một cơ sở phục hồi ở Kyiv, tôi đã xem một người lính với hai chân giả luyện tập trên một máy chạy bộ trong khi tập đấm bốc. Một người trẻ khác, mà 51đã bỏ một việc làm an toàn ở một thủ đô Âu châu khác, đã mất tay trái và chân của anh. Anh tập luyện tay phải mình với một thanh tạ 40-kilo. Nói chuyện với những người này, tôi thấy bản thân mình theo một cách khác, nhận ra tôi trú ngụ trong cơ thể mình khá hơn một chút thế nào.

Các lý lẽ riêng của tôi về tự do sẽ là không thể mà không có sự hiện diện thể chất của những người khác. Tôi đang viết một mình, nhưng tôi không thực sự cô đơn. Zelens’kyi bảo tôi rằng “chúng ta chẳng bao giờ thực sự nói, những người khác nói qua chúng ta,” và với các lời này ông đang đưa ra một số điểm quan trọng của Edith Stein. Chúng ta học từ những người mà chúng ta dành thời gian với họ, mà chúng ta tôn trọng (respect)—một từ (respect) mà, theo nguồn gốc của nó, có nghĩa là “nhìn lại, nhìn một cách chăm chú.” Chúng ta hiểu những suy nghĩ của họ theo cách khác khi chúng ta công nhận họ như những con người. Chúng ta biết nhiều hơn về các quá trình tư duy của riêng chúng ta khi chúng ta cùng nhau nghĩ với những người khác. Ngay cả những cuốn sách ở bên chúng ta thường được những người chúng ta biết tặng cho chúng ta.

Một số suy nghĩ về nguồn gốc của cuốn sách này nảy sinh trong cuộc trò chuyện với một bạn sử gia được ngưỡng mộ, bị rối loạn thoái hóa thần kinh được biết đến như bệnh Lou Gehrig hay ALS. Vào cuối 2008, bạn tôi không còn khả năng viết nữa theo nghĩa điển hình, vì anh không còn có thể nâng tay mình lên.

Tôi muốn anh làm việc, cho nên tôi đề xuất chúng tôi cùng nhau soạn một cuốn sách trên cơ sở những cuộc chuyện trò được ghi lại. Tôi coi là nghiễm nhiên rằng chúng tôi sẽ phải ở trong cùng phòng. Chỉ với anh tôi có thể tỏ lòng biết ơn và thách thức anh. Chỉ trong sự hiện diện của căn bệnh thì chúng tôi mới có thể tìm được cách khắc phục nó. Bạn tôi cũng cảm thấy thế: khi tôi gọi anh để đề xuất ý tưởng, anh chỉ nói, “Đến đi.”

52Chúng tôi làm việc cùng nhau trong hai năm trước khi anh mất.

Sự hiện diện của tôi đã có ảnh hưởng, như một sự khiêu khích theo nghĩa tích cực, đến bạn tôi có tên là Tony Judt. Anh cần các câu trả lời hay hơn các câu hỏi của tôi. Anh muốn nhớ lại mọi thứ anh đã từng đọc, và anh gần như có thể. Nói chuyện với Tony, tôi tập trung, khai thác những năng lực mà khác đi lẽ ra đã nằm im lìm. Với điện thoại của chúng tôi được cất đi, với các hộp sách xung quanh chúng tôi, với mắt Tony nhìn tôi, tôi cùng anh nhớ lại các trích dẫn và các đoạn văn. 53Cùng nhau chúng tôi đã đạt cái gì đó vượt quá cả hai chúng tôi như các cá nhân: cuốn sách mà Tony đặt tiêu đề Thinking the Twentieth Century (Suy nghĩ Thế kỷ thứ Hai mươi).

Sự công nhận

Một trong các nhà tư tưởng Tony và tôi thấy mình đang thảo luận là Edith Stein. Bà đã không thể viết luận văn của bà về sự thấu cảm và tri thức mà không có các lính bị thương. Bà bắt đầu từ giả thuyết, cơ bản trong triết học kể từ Immanuel Kant, rằng những người khác là những người ngang hàng của bà, rằng những người đàn ông Đức được bà điều trị là những người đồng loại của bà.

Nhân phẩm ngang nhau là dễ trong lý thuyết. Nhưng chúng ta công nhận những người khác trong thực tiễn như thế nào? Chăm sóc thân thể tàn phế của những người bị thương ở chiến trường, Stein thấy rằng chúng ta công nhận những người khác qua Leib.

Trong kỳ học xuân 2022, mười năm sau khi cuốn sách của Tony và tôi được xuất bản, tôi giao luận văn của Stein cho các sinh viên bị giam. Chúng tôi sẽ đọc nó cùng nhau cho seminar triết học về tự do tôi dạy trong một nhà tù có an ninh tối đa. Mặc dù theo một cách khác, sự gặp gỡ này với Stein đã cũng bị bệnh tật uốn cong: một đại dịch. Khóa học được cho là phải bắt đầu vài tuần trước khi nó diễn ra, nhưng đông tù nhân và cai tù đã bị bệnh. Tôi đã phải đợi thủ tục Covid của nhà tù thay đổi trước khi tôi có thể vào bên trong. Trong tháng Giêng và tháng Hai 2022, các sinh viên đã có các gói khóa học của họ và bắt đầu đọc và không muốn đợi.

Tôi biết rằng tôi phải ở trong không gian của họ, ít nhất theo cách hạn chế nào đó. Rốt cuộc, đó là điểm chính của Stein. Hai mươi năm dạy lớp học đã dạy tôi cùng thế. Các sinh viên đánh giá cao sự tiếp xúc, khi xảy ra, khi tôi có thể bước vào nhà tù và gặp nhau với họ trong phòng học. Họ đã khá trang trọng về seminar; một phần của nghi lễ là da chạm vào da. Đến từ các khối xà lim khác nhau, được gọi trên loa theo số của họ, họ đã hạnh phúc trở thành các thân thể trong cùng không gian. Mỗi sinh viên đến đều ôm những sinh viên khác. Mỗi trong số họ đều muốn chạm vào tôi khi lớp học bắt đầu và kết thúc: 54tôi nhận được cái bắt tay của gã-da trắng.

Chúng tôi đã dùng từ Leib rất nhiều. Một trong những sinh viên bị giam của tôi, Dwayne, có vẻ đã bị Stein quyến rũ và đã tóm tắt các lý lẽ của bà thật hay. Bạn 55“phải thấy thân thể của những người khác để thấy thân thể của chính bạn,” và cũng thế tính khách quan “không phải là chính mình mà không có sự lãng trí, nó là sự nhận ra thân thể khác giống thân thể bạn, và sau đó thấy thế giới.” 56“Khi tôi bị giam cầm trong chính bản thân mình,” Stein viết, “tôi chẳng bao giờ có thể vượt ra ngoài thế giới như nó xuất hiện với tôi.” Nhưng “nhờ sự thấu cảm tôi nhận được diện mạo lặp đi lặp lại của cùng thế giới đó, thế giới độc lập với nhận thức của tôi.” Chính sự thấu cảm là cái cho phép chúng ta biết rằng thế giới bên ngoài là thực.

Sự thấu cảm, nói cách khác, không phải là một sự nhượng bộ trịch thượng của một người duy lý cho các xúc cảm của những người khác, mà là cách duy nhất để trở thành một người hợp lý. Để thừa nhận tính hữu hình của những người khác không phải là một quà tặng cho họ mà là một bước tới lý tính của riêng chúng ta. 57“Thành phần của cá nhân lạ,” Stein viết trong luận văn của bà, “là một điều kiện cho thành phần đầy đủ của tính cá nhân của riêng chúng ta.” Thân thể của những người khác cho phép chúng ta nhìn chúng như các chủ thể, như trong cùng điều kiện khó khăn như chúng ta. Rồi được sự thấu cảm trao quyền, chúng ta có thể thấy bản thân mình như những người khác thấy chúng ta. Điều đó giúp chúng ta cả để biết bản thân mình và để biết thế giới. Kiến thức đó, đến lượt, biến chúng ta thành các chủ thể tốt hơn, tự chủ hơn.

Chúng ta phải xem thân thể của những người khác như các chủ thể, bởi vì khác đi thì chúng ta không thể xem bản thân chúng ta như các chủ thể. Và nếu chúng ta không làm được điều đó, chúng ta không thể tự do.

Nhìn thấy

Ở Ukraine, trong khi đó, những thân thể khác tôi biết, các bạn hay các đồng nghiệp hay các sinh viên, ở trong các hầm hay các chỗ trú bom hay trong sự chạy trốn khỏi cuộc xâm lấn Nga. Vào thời gian lớp học đầu tiên trong nhà tù, tháng Ba 2022, những người bạn Ukrainia với gia đình đang thử tìm cách để rời Kyiv. Các sinh viên bị giam của tôi muốn nghe về cuộc chiến tranh. Lẽ ra tôi đã không cần quay lưng lại với họ, nhưng tôi đã làm thế ngày đầu tiên để vẽ các bản đồ trận đánh trên bảng.

Chúng tôi đã tưởng tượng một thảm họa xa hàng ngàn dặm, trong một nước mà chẳng ai trong các sinh viên của tôi đã đến thăm, và mà đối với họ lúc đầu hầu như chưa biết. Sự áp dụng những gì chúng tôi đang thảo luận, tuy nhiên, đã là đủ rõ. Nếu những kẻ xâm lấn Nga tin rằng những người Ukrainia là ít hơn con người, thì việc hiếp phụ nữ và hành quyết những người đàn ông không phải là tội ác: các thân thể Ukrainia là các đồ vật để bắt đầu với. Trong việc hành động theo cách này, tất nhiên, những người Nga đã mở ra khả năng hợp logic rằng họ cũng đơn giản là các đồ vật: bị gửi đến nơi nào đó để chết một cách vô nghĩa trên cơ sở của những lời nói dối. Nếu chúng ta không nhận ra nhau qua Leib, chúng ta không chỉ gây ra sự đau khổ cho những người khác mà mang lại sự không-tự do cho bản thân chúng ta.

Nếu tôi nghĩ rằng thân thể tôi là cái gì đó nhiều hơn một Körper, nhưng chẳng ai khác đồng ý thì sao? Thì (các sinh viên của tôi chỉ ra) những người khác có thể gắn và tách các ý nghĩa vào tôi hay khỏi tôi như họ muốn, và các giá trị của riêng tôi sẽ chẳng bao giờ tiến được vào thế giới. Tôi có thể bị bắt làm nô lệ, bị tra tấn, bị cách ly. Nếu tôi không tồn tại như một Leib bởi vì sự tồn tại của nhóm tôi bị từ chối, tôi có thể phải chịu sự diệt chủng.

Các sinh viên đánh giá cao luận điểm của Stein về Leib nhưng tự hỏi bà sẽ đi xa đến đâu. Rốt cuộc, những binh lính bà điều trị trong Chiến tranh Thế giới I đã là những đồng bào Đức của bà—hay các đồng bào da trắng, như các sinh viên của tôi thấy nó. Hầu hết các sinh viên của tôi là những người da Đen, và tất cả họ đều bày tỏ sự nghi ngờ này.

Gặp nhau trong bốn tháng đầu sau sự xâm lấn toàn diện của Nga vào Ukraine, các sinh viên của tôi bắt đầu thấy rằng những người Âu châu có thể thuộc địa hóa những người Âu châu khác—tức là, những người da trắng có thể thuộc địa hóa những người da trắng khác. Sự nhận thức rõ của họ gây nghi ngờ tính phổ quát của quan niệm Mỹ về “những người da trắng”—hay, khi được hiểu một cách tích cực, cung cấp một ví dụ về sự thấu cảm.

Các sinh viên của tôi mở rộng các tài liệu tham khảo văn học và triết học của họ ra Ukraine và áp dụng kinh nghiệm cá nhân của họ cho kinh nghiệm của những người Ukrainia. Sinh viên Alpha của tôi đã bày tỏ sự đoàn kết ở mức độ cao nhất khi anh nói, “Sự đau khổ của những người Ukrainia làm mủi lòng tôi như một người da Đen.” Vào cuối lớp học, Alpha nói rằng anh ngưỡng mộ Tổng thống của Ukraine Volodymyr Zelens’kyi như một người chống-thực dân.

Trong chất vấn của họ về Stein, họ đã phát hiện cái gì đó quan trọng, dù tôi phản đối họ lúc đó. Stein chắc chắn đã là một người Đức dân tộc chủ nghĩa khi bà viết về sự thấu cảm trong 1917. Bà đã coi là 58“không nghi ngờ gì rằng bây giờ chúng ta sẽ bị đánh bại.” Có lẽ bà đã không suy nghĩ một cách phê phán khi đó về mục đích chiến tranh Đức là để chinh phục Ukraine và coi nó 59như một vựa lúa mì. Trong bệnh viện dã chiến của bà, tuy vậy, bà đã điều trị binh lính của quân đội Habsburg đa quốc gia cũng như binh lính Đức. Ukraine đã không tồn tại lúc đó, và lãnh thổ của nó đã bị chia giữa Nga và nền quân chủ Habsburg. Cho nên những thanh niên Ukrainia đã chiến đấu ở cả hai bên. 60Đối mặt với các thân thể bị thương của họ, Stein đồng cảm với hoàn cảnh khó khăn của họ.

Liệu bà có cảm thông với những người da Đen? Đó là nơi các sinh viên của tôi có sự nghi ngờ của họ. Về phần họ, tuy vậy, họ đã có thể tưởng tượng lập trường của bà và để đồng cảm cả với bà và với những người Ukrainia quá khứ và hiện tại. Một sinh viên, Michael, đã biết về một thời khắc khác khi Ukraine bị đối xử như thuộc địa: nạn đói chính trị ở Ukraine Soviet. Sau Chiến tranh Thế giới I, Cách mạng Bolshevik, và một loạt cuộc chiến tranh khác, phần lớn của cái bây giờ là Ukraine đã bị Liên Xô hợp nhất. Joseph Stalin xem Ukraine như một lãnh thổ phải được thuần hóa và khai thác. Như một kết quả của tập thể hóa nông nghiệp, hàng triệu người Ukrainia bị đưa đến bờ vực nạn đói. Stalin đưa ra một loạt quyết định trong cuối 1932 đảm bảo rằng khoảng bốn triệu người ở Ukraine Soviet trên thực tế đã chết. Michael biết một chi tiết cay đắng: rằng những người Ukrainia trong chiến dịch bỏ đói của Stalin đã nhắc đến tiểu thuyết Uncle Tom’s Cabin (Chiếc Lều của Bác Tom) của Harriet Beecher Stowe. Sau khi một thời đã khóc cho những người nô lệ trong sách, những người Ukrainia lúc đó đã đồng nhất với họ. Tại một trong các bài báo của anh, Michael nhắc đến bà mẹ già của chính anh, mà con trai Mỹ gốc Phi của bà ở trong nhà tù và đã ở đó trong ba mươi năm. Trong đầu 2022, Michael bảo tôi, bà xem tin tức về Ukraine và khóc. Bà đã có thể nhìn thấy.

Thế giới, mà trong đó Nga xâm chiếm và hành hạ và nước Mỹ làm nghèo và làm nhục, là một thế giới, và nó có thể được hiểu, nhất là khi mọi người có mặt về thân thể. Các sinh viên bị giam của tôi đã được biết tên của các nhà văn Ukrainia. Khi tôi đưa bản thảo này cho các đồng nghiệp Ukrainia ở Ukraine, họ biết được tên của các sinh viên bị giam của tôi. Có cái gì đó dễ chịu về các nhà nghiên cứu nhân văn bảo thủ Ukrainia ngồi quanh một chiếc bàn ở Lviv thảo luận về các quan điểm của Alpha, một người Mỹ gốc Phi trẻ cấp tiến cách xa hàng ngàn dặm. Họ đã có thể nhìn thấy anh. Nhờ mọi người thảo luận cuốn sách, dù họ ở trong một nhà tù Mỹ hay trong một thành phố Ukrainia để tang người chết của nó, tôi có được một cái nhìn rộng hơn.

Nga đã trở thành một đế chế phát xít diệt chủng vì nhiều lý do, nhưng một trong số chúng là tự do phủ định. Khái niệm này làm cho khó để thấy rằng chế độ đầu sỏ của nó là phản đề của tự do (hơn là một kết quả phụ) hay rằng Putin là một tên phát xít (hơn chỉ là một nhà kỹ trị tìm kiếm sự giàu có). Và nước Mỹ đã trở thành một nền cộng hòa thiếu sót bị chế độ đầu sỏ và chủ nghĩa phát xít đe dọa vì nhiều lý do, nhưng tự do phủ định ở giữa chúng. Nó dẫn chúng ta để nghĩ rằng chúng ta đã giải quyết các vấn đề của chúng ta khi chúng ta tư nhân hóa chúng, trong khi trên thực tế tất cả cái chúng ta đạt được là việc tách bản thân chúng ta khỏi nhau.

Bơi

Đất nước tôi cũng là đất nước của các sinh viên bị giam của tôi. Họ đã làm những gì họ đã làm, và tôi đã làm những gì tôi đã làm, nhưng có một logic lớn hơn đằng sau việc tôi ở Yale và họ ở trong nhà tù. Đất nước kỷ niệm hai trăm năm của nó trong 1976 trên con đường nhốt nhiều công dân của nó hơn bất cứ nước nào, là một vấn đề về chính sách chủng tộc. Việc tôi chỉ có một phần năm khả năng bị vào tù như một người da Đen không phải là do công trạng của riêng tôi.

Một ngày tháng Sáu 1976, vài tuần trước khi tôi rung chiếc chuông đó, tôi ngồi trên một xe bus trường học màu vàng, một mình trên một ghế dài gần cuối xe. Tuần cuối của lớp một, và tôi xem cuốn kỷ yếu tiểu học.

Nó là một cuốn được ghim lại đơn giản, với trang bìa cứng hai màu, một trang bóng loáng cho mỗi lớp, các bức ảnh đen trắng theo hàng và cột, giáo viên ở trên cùng bên trái, cô giáo của tôi chưng diện một bộ tóc Afro to, đôi kính tròn dày, và một chiếc áo len cao cổ bên dưới bộ quần áo kẻ sọc cô ưa thích. Một đứa lớp ba nhìn chằm chằm qua vai tôi chế nhạo tôi vì chủng tộc của cô giáo tôi, réo lên lời lăng mạ thông thường. Lần đầu tiên tôi từng nghe từ này. Tôi không biết ý nghĩa của nó, nhưng tôi có một ý niệm, vì tôi biết cậu này và thái độ của cậu.

Đường xe bus đưa chúng tôi qua câu lạc bộ bơi địa phương. Như một cậu bé, tôi tự hỏi vì sao nó là một “câu lạc bộ.” Tôi học bài và có những buổi chiều hè vui vẻ ở đó với các em trai tôi. Đi xe đến đó trong chiếc xe mui trần bé nhỏ của bố tôi là một niềm vui không thể nào quên. Khi tôi lớn hơn, tôi thấy khó chịu phải mang thẻ thành viên, nhất là vì tôi luôn đánh mất các thứ. Có vẻ lạ với tôi rằng lũ trẻ khoe khoang về các loại đặc ân khác nhau do các màu khác nhau của thẻ thành viên của chúng mang lại. Một thiếu niên buồn tẻ kiểm tra giấy chứng nhận được dát mỏng tại lối vào.

Đó là một nơi đẹp. Có lẽ không ai có ý định xấu cả. Tuy nhiên câu lạc bộ bơi phản ánh một thực tế quốc gia không thể nhầm lẫn. Tiểu khu của chúng tôi được xây dựng sau phán quyết của Tòa án Tối cao và Bộ luật các Quyền Dân sự 1964 khiến việc các thành phố loại trừ những người Mỹ gốc Phi khỏi các bể bơi công cộng là bất hợp pháp. Khắp đất nước, các thành phố tự quản sau đó 61đã lấp các bể bơi công cộng bằng xi măng. Các hàng hóa công như các bể bơi công cộng được chuyển sang khu vực tư nhân, nơi các quy tắc tư cách thành viên có thể thực thi định kiến một cách phi chính thức. Điều này là một yếu tố nhỏ của một 62phản ứng chính trị lớn hơn với Bộ luật các Quyền Dân sự.

Khi chúng ta chọn không công nhận thân thể khác như con người, chúng ta tạo ra các tình huống xã hội cụ thể, mà sau đó chúng ta xác định như trạng thái tự nhiên. Sau khi bị loại khỏi các bể bơi, những đứa trẻ da Đen chắc ít có khả năng để học bơi hơn những đứa trẻ da trắng. Và như thế những đứa trẻ da trắng được dạy rằng các thân thể da Đen không nổi ở dưới nước. Đây là “kiến thức phổ biến.”

Nhiều nhất đã có một hay hai đứa trẻ da Đen tại bể bơi mùa hè 1976 đó, có lẽ chẳng có đứa nào. Chắc chắn đã không có đứa trẻ da Đen nào trên xe bus hôm đó. Một sự dàn xếp xã hội, sự tạo ra các khu ngoại ô được phân vùng, giữ các thân thể nào đó xa nhau ra.

Trong một không gian không có những người da Đen, điểm chính của việc la hét một lời nói xấu chủng tộc là nó tạo ra một nhóm: tất cả mọi người chống lại giáo viên vắng mặt và chống lại bất kỳ ai bảo vệ giáo viên vắng mặt đó. Nếu chúng ta dùng ngôn ngữ để coi thân thể của những người khác như các đồ vật có một màu, 63chúng ta xác định bản thân mình như các đồ vật có màu khác. Chúng ta bước vào một tập thể vật lý vô tâm, một đám đông chủng tộc. Chúng ta hy sinh Leib của chính chúng ta cho động cơ phủ nhận Leib của người khác.

Trường học có thể giúp đỡ, nhưng chúng ta phải được dạy để công nhận Leib của người khác. Tôi may mắn vì tôi bị thách thức ở nhà và thấy những người Mỹ gốc Phi trong khung cảnh do gia đình tôi chọn. Nhưng tôi không nhớ bị thách thức ở trường. Những gì chúng ta học được về Jim Crow (Kỳ thị Chủng tộc) là nó đã chấm dứt. Chúng ta nên biết rằng Jim Crow 64đã gây cảm hứng cho các luật kỳ thị chủng tộc Đức, mà biến những người Do thái (như Edith Stein) thành các công dân hạng-hai. Cùng với các luật là các sáng kiến từ dưới, như việc cấm những người Do thái khỏi các bể bơi.

Có thể có vẻ như một chuyện nhỏ, nhưng chẳng ai đã từng dạy tôi về các bể bơi.

Khế ước

Tự do bắt đầu với sự tự chủ, và sự tự chủ liên quan đến thân thể. Và như thế triết học của tự do bắt đầu với tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Các trẻ sơ sinh kéo chúng ta đến những vấn đề triết học cơ bản đến mức chúng thoát khỏi sự chú ý. Tôi bắt đầu nhìn thế giới khác đi khi tôi cắt dây rốn của con trai tôi.

Tất cả chúng ta đều sinh ra trong một cơn bão hoàn cảnh mờ mịt. Đấy là một kinh nghiệm tất cả chúng ta đều chia sẻ, dù chẳng ai trong chúng ta nhớ nó. Chúng ta biết về sự sinh và có thể xem xét nó chỉ nhờ những người khác. Việc nhớ lại rằng tất cả chúng ta đều bắt đầu với một tiếng khóc có thể giải thoát chúng ta khỏi những sai lầm triết học đứng đằng sau sự áp bức Mỹ.

Trong văn hóa Mỹ, sự sinh bị các điều cấm kị bao quanh. Sự im lặng xung quanh thời khắc quan trọng nhất trong đời che chắn, bảo vệ quan niệm thịnh hành của chúng ta về tự do phủ định khỏi một số phê phán cơ bản. Sự sinh nở tiết lộ sự phi lý của nó. Một đứa trẻ mới sinh sẽ không trở nên tự do nhờ sự vắng mặt của cái gì đó. Bạn có thể hiệu triệu những người khác tới một cuộc hành trình hướng tới tự do với một tuyên bố đẹp đẽ, nhưng bạn không thể bỏ một trẻ sơ sinh ở chân một núi với một phước lành của tự do.

Ý tưởng phủ định về tự do có vẻ hợp lý khi chúng ta bắt đầu quá trình tư duy của mình từ một hình ảnh được lý tưởng hóa của những người lớn và quên tình trạng khó khăn thể chất mà tất cả chúng ta đều chia sẻ như những trẻ mới sinh. 65Nếu chúng ta bắt đầu từ sự trưởng thành kỳ diệu, chúng ta có thể giả thuyết rằng tự do chỉ là vấn đề bảo vệ những gì chúng ta đã có rồi, những gì đã tồn tại rồi. Việc định nghĩa tự do chỉ như cái gì đó có thể bị mất, chúng ta chẳng bao giờ hỏi làm thế nào để đạt được nó, làm sao mọi người trở nên tự chủ trước tiên.

Sự tự chủ (sovereignty-chủ quyền) thường có nghĩa là 66chủ quyền của nhà nước, năng lực của nó để thống trị hay ít nhất đặt ra các điều kiện của cuộc sống. Nhưng nếu chúng ta coi tự do một cách khẳng định, chúng ta có thể nghĩ về sự tự chủ khác đi, như là về con người hơn là nhà nước. Thì chúng ta thực hiện bước đầu tiên theo hướng một sự biện minh tốt hơn cho chính phủ.

Làm thế nào chúng ta nghĩ về một chính phủ như có chủ quyền, tự chủ? Để tưởng tượng một tình huống trong đó các công dân có loại lập trường hay quyền nào đó, chúng ta xem sự tự chủ như vốn có trong các định chế chính trị. Trong các truyền thống như của chúng ta, quan niệm là tại thời điểm nào đó đã có một 69khế ước xã hội, trong đó nhân dân—những người trưởng thành được lý tưởng hóa, tất nhiên—gặp nhau và đồng ý để lập một chính phủ. Vấn đề với nước đi này là một việc như vậy chẳng bao giờ xảy ra cả.

Trường hợp Mỹ xảy ra gần như có thể: mọi người gặp nhau và đồng ý về Hiến pháp. Nhưng những người đàn ông viết văn kiện đó khó có thể được nghĩ là đại diện của mọi người. Ngay cả họ đã là đại diện hoàn hảo của giai cấp sở hữu đất da trắng giàu có, sự loại trừ những người không sở hữu đất, những người Mỹ gốc Phi, phụ nữ, và những người Mỹ Bản địa có nghĩa rằng thỏa ước của họ khó có thể đứng vững trong thời hiện đại. Và vì sao chính xác những đứa trẻ mới sinh lại phải chịu một trật tự cổ xưa mà chúng có lẽ đã không thể nào chọn được? Tự do đó là thế nào?

Những kẻ phát xít đã chỉ ra các vấn đề với truyền thống này về sự tự chủ. Người thông minh nhất trong số họ, 67nhà lý luận pháp lý Carl Schmitt, cho rằng sự tự chủ thật trú ngụ không phải trong việc tuân theo các quy tắc, như được khế ước quy định, mà trong việc tạo ra một ngoại lệ đối với chúng. Bất cứ ai có thể đưa ra sự ngoại lệ là người tự chủ thật. 68Một Adolf Hitler lợi dụng một vụ Cháy Reichstag (nhà Quốc hội) để tuyên bố một tình trạng ngoại lệ như thế đã là một người tự chủ lý tưởng.

Tuy nhiên, quan điểm của Schmitt chẳng là gì hơn ngoài sự tài tình. Việc phá vỡ quy tắc, dù nó hấp dẫn với các xúc cảm, không thể là sự tự chủ. Việc phủ nhận một ảo tưởng không tạo ra thực chất. Để nói rằng ai đưa ra một sự ngoại lệ là tự chủ cùng lắm chỉ là một tuyên bố của sự thực về quyền lực, bỏ ngỏ hoàn toàn sự tự chủ có nghĩa hoặc nên có nghĩa là gì. Quan niệm phát xít về sự tự chủ là tầm thường, một trò đùa trẻ con. Chúng ta cần bắt đầu không phải với những cậu bé lớn quá nhanh mà với những đứa trẻ thực sự.

Giải pháp phát xít là không tương thích với tự do, nhưng sự phê phán phát xít về khế ước xã hội có tiết lộ một vấn đề. Nếu chúng ta kỳ vọng mọi người chấp nhận các định chế mà họ sinh ra trong đó, trên cơ sở của một thỏa thuận phần lớn (hay hoàn toàn) hư cấu, làm sao điều đó có thể là tự do tạo sinh? Một hiến pháp không chỉ phải thiết lập mà thiết lập lại, lặp đi lặp lại. Điều này có thể được làm.

Giải pháp là để định vị lại ý tưởng về sự tự chủ trong con người. Tự do là giá trị của các giá trị, bởi vì nó là điều kiện trong đó tất cả các giá trị khác có thể được thực hiện. Một chính phủ là không chính danh chỉ bởi vì nó có quyền lực và dùng từ tự chủ (quyền tối cao) để tô điểm cho sự già yếu và sự dối trá. Nó có tính chính danh trong chừng mực nó làm cho tự do là có thể, ban hành các chính sách cho phép các thế hệ trẻ và tương lai để trở nên tự chủ.

Một người có một sự bắt đầu, và đó là cơ hội. Để làm cho tự do có thể, một chính phủ phải bắt đầu tại sự bắt đầu đó, với sự sinh và với tuổi trẻ. Về mặt thực tiễn, điều này là không thể thiếu cho tự do; về mặt đạo đức, nó là không thể thiếu cho tính chính danh, vì tự do là giá trị của các giá trị. Các chính phủ không sinh ra những đứa trẻ, nhưng một chính phủ tốt có thể làm cho việc nuôi dạy con dễ dàng hơn tới 70một cuộc sống trong tự do.

Một chính phủ không tự cho là tự chủ (có chủ quyền), mà nhắm tới sự tự chủ của trẻ em của nó, sự tạo tính chính danh cho nó bằng công việc của nó cho tự do. Và nó làm vậy liên quan không phải đến một huyền thoại về quá khứ hoặc đến những người đã chết mà liên quan đến mỗi thế hệ sắp tới và đến những người sắp sinh ra.

Sự tiếp xúc

Trong suy nghĩ về tự do, chúng ta có khuynh hướng bỏ quên thời gian giữa sự sinh và sự trưởng thành, thời kỳ hình thành của cuộc sống. Hình thức đầu tiên của tự do, sự tự chủ, bị chặn không được nghĩ đến. Chúng ta không có cơ hội nào để xem xét thân thể của một trẻ sơ sinh là gì, Leib đó sẽ cần những cố gắng và các chính sách nào.

Một trẻ sơ sinh sẽ cần dinh dưỡng, sự che chở, và sự ấm áp. Một trẻ sơ sinh sẽ cần những người khác, một sự dạy dỗ, một sự giáo dục. Sử gia Roman (La mã) Livy định nghĩa tự do như “tự mình đứng thẳng mà không phụ thuộc vào ý chí của người khác.” Tại điểm nào đó trong logic cuộc sống, định nghĩa này là đúng—nhưng không đúng trong khi chúng ta ở trong dạ con hay còn bú mẹ, không có khả năng thể chất để đứng thẳng. Khi chúng ta còn rất trẻ, tất cả chúng ta đều cần thiện chí của ai đó khác nếu chúng ta muốn học để đứng chút nào. Bởi vì chúng ta sống trong thời gian theo một chiều nhất định, muộn hơn chúng ta không thể bù cho những gì chúng ta không được trao sớm hơn.

71Chúng ta được sinh ra chưa phát triển so với các động vật có vú khác. Đầu to của chúng ta (cho bộ óc lớn của chúng ta) đòi hỏi chúng ta rời dạ con sớm, trước khi chúng ta có khả năng làm được nhiều việc. Tuy nhiên với thời gian và sự chú ý, nhất là các tháng và năm đầu tiên, bộ não lớn đó có thể trở thành trí óc có tài.

72Con người đã tiến hóa để trở nên kiên nhẫn và có khả năng đánh giá, như những người săn bắt, hái lượm, du cư, và nông dân, và như các cha mẹ, anh chị em, anh chị em họ, và ông bà của những đứa trẻ cần sự chú ý hàng năm trời. Sự kiên nhẫn và sự đánh giá tiếp tục phục vụ chúng ta trong thế giới hiện đại của chúng ta. Nhưng các năng lực như vậy nảy sinh chỉ nếu những người trẻ tiếp xúc với những người quanh họ. Sự tạo ra cá nhân phải là một hành động xã hội.

Việc chỉ sinh con không mang lại tri thức mà các bà mẹ (hay cha mẹ hay một gia đình) cần, cũng chẳng mang lại thời gian cần để áp dụng kiến thức đó. Các trẻ sơ sinh bị quăng vào một thế giới mà, nếu giả như được tự do phủ định cai quản, phải là vô nghĩa và kỳ cục. Chúng không thể được sự vắng mặt của các rào cản nuôi dưỡng. Chúng cần các thứ bản thân chúng không thể biết. Không đứa trẻ sơ sinh nào có thể giải phóng cha mẹ nó, hay cho họ thời gian, hay định chính sách. Tự do hoạt động như một dự án hợp tác lớn hơn, trong hàng thế hệ, hay chẳng hề chút nào.

Những người quan tâm đến tuổi thơ nên quan tâm đến tự do, và những người quan tâm đến tự do nên quan tâm đến trẻ em. Điều này có nghĩa là sự quan tâm đến xã hội mà trẻ sơ sinh Mỹ tiếp theo sẽ được sinh vào đó. Tự do cá nhân là một dự án xã hội và một dự án thế hệ. Để mọi người lớn lên trong tự do, 73các cấu trúc đúng phù hợp phải có rồi khi chúng được sinh ra.

Và như thế không chỉ triết học mà công việc của tự do bắt đầu với sự sinh. Tuy nhiên, chúng ta làm việc dưới một truyền thống triết học ngoảnh mặt khỏi thời khắc quan trọng nhất của cuộc đời. Các nhà hiện sinh (existentialist) và thầy của họ Martin Heidegger nghĩ rằng vấn đề của chúng ta là chúng ta bỏ qua cái chết. Kết luận đó, có nghĩa là nhẫn tâm và trần trụi và nam tính, thực sự né tránh vấn đề, như 74Edith Stein chỉ ra. Vấn đề thực là chúng ta bỏ qua cuộc sống.

Vợ tôi, Marci Shore, viết một cuốn sách về một truyền thống lớn hơn mà Heidegger và các nhà hiện sinh là một phần (phenomenology - hiện tượng học), đã đi sâu vào nó trong thời gian cô mang thai. Khi cô chuyển dạ, một y tá khen tiếng Đức của cô. Cô hổn hển trả lời, bằng tiếng Đức, “tôi khá về sản khoa và hiện tượng học.” Heidegger có ý tưởng về 75“hướng tới cái chết-being toward death.” (Muộn hơn) tôi bảo Marci em nên viết một hồi ký mang thai gọi là 76“being toward life (hướng tới sự sống).”

77“Sự bắt đầu, trước khi nó trở thành một sự kiện lịch sử, là năng lực tối cao của con người,” Hannah Arendt nói. “Về mặt chính trị, nó đồng nhất với tự do của con người.” Sự tự chủ bắt đầu với sự sinh và nảy sinh khi một đứa trẻ được bế, được yêu thương, được dạy dỗ, và được giáo dục. Đối với vũ trụ, một sự sinh con người chẳng có gì đặc biệt; đối với chúng ta những con người, sự ra đời là khả năng của một cuộc sống trong tự do. Chúng ta đóng tiềm năng đó lại khi chúng ta hạn chế tự do để tránh các đồ vật khác, hay để bắt đầu triết lý của chúng ta với cái chết hơn là cuộc sống.

Khoản vay

Edith Stein là con út trong mười một người con. Cha bà chết khi bà còn trẻ. Bốn anh chị em của bà chết trước khi bà ra đời. Lớn lên trong các điều kiện này, bà hiểu rằng “sự tạo ra các năng lực thuộc về tự do.”

Đọc Stein trong nhà tù, các sinh viên của tôi nắm được điểm rằng trẻ em cần dùng thời gian với những người lớn để trở nên tự chủ. 78Như những đứa trẻ, bản thân họ đã muốn sự chú ý từ những người lớn mà họ đã không thể nhận được. Nghiên cứu ủng hộ họ: 79những kinh nghiệm tiêu cực thời thơ ấu tương quan mạnh với nghịch cảnh trong cuộc sống muộn hơn.

Simone Weil viết rằng 80“một thứ con người sở hữu, mà về cơ bản có tính cá nhân và tuyệt đối là của riêng anh ta, là năng lực của anh ta để nghĩ.” Tuy nhiên trong hàng triệu năm loài chúng ta đã đi trên trái đất, năng lực “về cơ bản mang tính cá nhân” này đã chẳng bao giờ phát triển riêng lẻ, từng cá nhân một. Các trẻ sơ sinh bị bỏ một mình chẳng học được gì cả. Điều này, thật đáng buồn, không phải chỉ là một giả thuyết. Các sử gia có quá nhiều bằng chứng xác nhận—từ Gulag, chẳng hạn, hay từ các trại mồ côi của Rumania cộng sản.

81Kiến thức của chúng ta về sự phát triển thời thơ ấu sớm có thể làm cho sự tự chủ là có thể. Chúng ta biết rằng Leib có được hầu hết các năng lực của nó trong 5 năm đầu tiên của cuộc đời, khi kích thước bộ não phát triển đến gần như kích thước đầy đủ của nó. Và chúng ta biết rằng quá trình đó là quá trình xã hội. Bộ não của trẻ sơ sinh được chuẩn bị cho sự tiếp xúc, nhưng trẻ sơ sinh không thể tự mình thiết lập sự tiếp xúc được. Những kết nối thần kinh xuất hiện khi các trẻ sơ sinh được chạm vào về mặt cơ thể. Các trẻ sơ sinh giỏi về việc nhận diện các khuôn mặt khi chúng được bế sao cho chúng có thể thấy các bộ mặt. Cổ họng, lưỡi, và môi của chúng có khả năng tạo thành các lời nói, nhưng làm vậy chỉ khi chúng có thể bắt chước 83lời nói của ai đó khác.

Việc đặt các lựa chọn thay thế trước mặt những trẻ em rất trẻ là dễ. Việc dạy chúng để đánh giá và chọn là khó hơn. Cần những người quan tâm có thời gian để chăm sóc. Sự lựa chọn là một thực tế bên ngoài nhưng cũng là một năng lực bên trong. Chúng ta cần khả năng để thấy các lựa chọn thay thế cũng như năng lực bên ngoài để thực hiện chúng. Một cách Mỹ để làm cho mọi người không-tự do là để nói lê thê về sự lựa chọn nhưng từ chối trẻ em các năng lực họ sẽ cần để đưa ra các sự lựa chọn (hay để nhận ra rằng họ bị từ chối chúng). Các năng lực của chúng ta càng phong phú, chúng ta càng thấy nhiều lựa chọn thay thế hơn, và chúng ta có thể đưa ra càng nhiều lựa chọn hơn.

Có bao nhiêu lựa chọn thay thế xuất hiện cho chúng ta liên quan đến chúng ta cảm thấy thế nào. 85Các xúc cảm tích cực mở rộng dải lựa chọn mà chúng ta thấy và mở rộng kinh nghiệm của chúng ta về thời gian. Những xúc cảm tiêu cực hạn chế dải đó vào sự chiến đấu hay sự bỏ chạy trực tiếp. Nỗi sợ là giống thế, hạn chế chúng ta vào thế giới nhị phân. Nó biến tâm trí chúng ta thành các mạch (điện), thân thể chúng ta thành các đồ vật: Leib hạ xuống thành Körper.

Với sự giúp đỡ, những trẻ nhỏ học để gọi tên (các thứ) và điều chỉnh cảm xúc của chúng. Sự sợ hãi đôi khi là thích hợp, nhưng việc biết nó và gọi tên nó là các bước theo hướng kiểm soát nó—và theo hướng ngăn chặn những người khác khỏi việc thao túng nó. Việc điều chỉnh cảm xúc là một bước theo hướng sự đánh giá mà làm cho tự do là có thể. Nếu chúng ta chẳng là gì hơn các phản ứng đầu tiên của chúng ta, thì chúng ta là con mồi của những kẻ gây ra các phản ứng đó. Chỉ các cá nhân có thể kháng cự áp lực từ những người khác, thế nhưng cần những người khác để tạo ra các cá nhân như vậy. 86Chúng ta có thể học để cai quản bản thân mình chỉ với loại hướng dẫn đúng đắn, vào giai đoạn phù hợp của cuộc sống.

87Nhiều nghiên cứu chỉ ra cái giúp những trẻ nhỏ đạt được các năng lực cơ bản này: sự tiếp xúc vật lý và phát âm liên tục; các mối quan hệ tin cậy; 88sự chơi đùa không có cấu trúc (unstructured play); và những sự lựa chọn về các thứ và người. Các thuộc tính chúng ta cần để là các cá nhân tự do là sẵn có cho chúng ta chỉ qua hành động được phối hợp. Các trẻ sơ sinh có thể được nuôi dưỡng và giáo dục để trở nên tự do, nhưng các trẻ sơ sinh không thể tạo ra môi trường cho chính chúng nơi điều này là có thể. Vì tự do đòi hỏi các năng lực mà chúng ta không thể tự phát triển (khi còn nhỏ), chúng ta có được tự do của mình nhờ những người khác. Mọi người lớn tự do đã có nhiều sự giúp đỡ khi còn nhỏ.

Khi chúng ta nghĩ về các việc làm liên kết với tự do, việc làm đầu tiên chúng ta nghĩ đến có thể là (của) phi công hay cao bồi. 89Chức năng làm mẹ thuộc về tự do. Như bài hát của Ed và Patsy Bruce nhắc nhở chúng ta, tất cả các cao bồi đó đã có những bà mẹ. Những công việc liên quan nhất đến tự do là 84công việc của những người chăm sóc: các giáo viên tiểu học, các giáo viên mẫu giáo, những người chăm sóc trẻ em. Một xã hội quan tâm đến tự do phải tôn trọng những người như vậy và trả công tốt cho họ.

Tự do đòi hỏi năng lực, năng lực đòi hỏi sự chú ý trong thời thơ ấu, và sự chú ý đòi hỏi thời gian. Suy ra rằng thời gian của cha mẹ, trên hết của mẹ, thuộc về tự do. 90Những người lớn cho trẻ em vay một loại thời gian đặc biệt, một loại mà trẻ con không thể cho người lớn, một loại mà trẻ con không thể cho trẻ con, một loại mà người lớn không thể cho người lớn vay.

Simone Weil nói rằng mọi thứ quý giá trong chúng ta đều đến từ những người khác, không phải như một quà tặng mà như 91“một khoản vay phải được gia hạn liên tục.” Trẻ con vay từ những người lớn một loại thời gian đặc biệt. Chúng có thể trả lại khoản vay chỉ muộn hơn nhiều, khi chúng là những người lớn, bằng việc trao thời gian cho ai đó của thế hệ tiếp theo. Chính phủ phục vụ như một loại nhà bảo lãnh khoản vay, tạo ra các điều kiện trong đó những người nuôi dưỡng trẻ em có thể có thời gian. Một đất nước tự do hoàn trả nó và trả trước nó.

Trong việc bỏ sự sinh ra-khỏi tài khoản của tự do, chúng ta cũng 92làm cho không thể để chấp nhận Leib của phụ nữ. Bởi vì phụ nữ có thể bị những kẻ hiếp dâm làm thụ thai, định hướng của Leib của họ phải khác với định hướng của đàn ông. Trong những sự hiểu trước về tự do, vấn đề này đã không nảy sinh, vì được giả thuyết là phụ nữ và các nô lệ phục vụ tự do của vài người hùng mạnh.

Việc coi tự do chỉ như sự vắng mặt của các rào cản không cho chúng ta hướng dẫn nào về sự hiếp dâm. Một ý tưởng về tự do phủ định như tự do khỏi bạo lực có thể có vẻ giúp đỡ ở đây. Tuy nhiên, nó đánh giá thấp sự đặt cược: không chỉ là chúng ta có quyền để không bị hãm hiếp, mà là chúng ta nên có khả năng để sống cuộc sống mà không có chấn thương của hoặc sự lường trước về sự hãm hiếp. Việc mọi người có thể trở thành những gì bị hạn chế bởi cả triển vọng và ký ức của sự hãm hiếp, và chúng ta có thể hiểu đầy đủ ý tưởng này chỉ khi chúng ta coi thân thể của những người khác một cách nghiêm túc.

Việc thừa nhận Leib của phụ nữ cũng có nghĩa là sự hiểu rằng họ nghĩ về sự sinh con theo một cách mà đàn ông thường không nghĩ đến. Phụ nữ phải quyết định liệu có sinh con không và sinh khi nào, và họ phải điều chỉnh các phần khác của đời họ. Tự do phủ định để họ thực hiện những điều chỉnh đó một mình. Nếu chúng ta tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh con, chúng ta loại bỏ một nguồn không-tự do cho phụ nữ và cải thiện các cơ hội rằng trẻ con có thể lớn lên tự do.

Mở ra

Cái chết là đơn giản và cám dỗ. Chủ nghĩa phát xít đánh lừa chúng ta với ý nghĩa rút ra từ cái chết của những người khác và từ cái chết của riêng chúng ta. Là dễ hơn nhiều để bàn triết lý khi chúng ta bỏ qua cái là sống động nhất về chúng ta, khi chúng ta không đối mặt với cái Weil gọi là sự bí ẩn của thân thể chúng ta.

Nguyên lý cái chết đã sớm lẻn vào triết học, trong hang của Plato. Niềm tin chắc của Plato rằng các thứ chúng ta trải nghiệm trên thế giới là không hoàn toàn thực mà đúng hơn là những bản sao không hoàn hảo của phiên bản lý tưởng nào đó của mỗi thứ. Và như thế mỗi chiếc chuông, chẳng hạn, bằng cách nào đó chỉ là một sự bắt nguồn của một chiếc chuông hoàn hảo tồn tại ở nơi nào đó khác, 93như mỗi cây hay mỗi chiếc giường trong phòng hộ sinh. Plato nghĩ chúng ta sống dưới sự ảo tưởng rằng các thứ này là hoàn toàn thực; nhiệm vụ của triết học, ông dạy, là để giải thoát chúng ta khỏi sai lầm này. Vì mục đích này, ông cung cấp (trong cuốn Republic của ông) chuyện ngụ ngôn đáng nhớ về cái hang.

Hãy tưởng tượng rằng mọi người trong xiềng xích, sâu trong một hang tối, và chỉ có thể nhìn lên phía trước, vào một bức tường hang. Đằng sau họ là một ngọn lửa, và giữa họ và ngọn lửa, mọi người đi lại đằng sau một bức tường, giơ lên một một loạt “các đồ vật được chạm khắc.” Tất cả cái mọi người bị xích có thể thấy là các bóng đổ lên trên tường trước họ. Plato nói, đây là cái sự tồn tại của chúng ta giống như. Chúng ta bị xích lại trong một cái hang, nhìn chằm chằm vào một trò chơi của những cái bóng, tin rằng chúng ta ở trong thực tế. Chúng ta phải nghĩ cách thoát ra, tới một thế giới nơi mỗi thứ tồn tại trong một hình thức lý tưởng.

Đây là một quan niệm rất dễ gợi sự liên tưởng, và tất nhiên nó không thể được chứng minh là sai. Tuy nhiên, tính hợp lý của nó phụ thuộc vào việc bỏ qua những kinh nghiệm cơ bản của cuộc sống.

Nếu bạn xem một sự sinh đẻ, là khó để nghĩ: Đây là một bản sao một phần, nông cạn của cái gì đó khác, chỉ là một sự phản xạ của sự sinh lý tưởng nào đó xảy ra trên một cõi lý tưởng. Khi vợ tôi gặp biến chứng sau khi sinh con trai của chúng tôi, tôi đã không nghĩ: Máu này không phải là máu thực sự và màu đỏ này không phải là màu đỏ thực sự mà chỉ là một lời ám chỉ về máu và màu đỏ có thể là gì. Khi các y tá để đứa trẻ mới sinh của chúng tôi cho tôi bế trong khi các bác sĩ chạy nhanh từ cánh khác của bệnh viện để phẫu thuật cho vợ tôi, tôi đã không nghĩ rằng màu tím trong mắt nó chẳng là gì hơn một sự bắt nguồn của một màu tím hay mắt lý tưởng nào đó, cũng chẳng rằng tiếng những bước chân vội vã trong phòng là bất cứ thứ gì khác hơn là thực tế duy nhất. Và cái là đúng về sự sinh là đúng về thời khắc sau sinh và về tất cả các thời khắc sau đó. Không có cái hang nào cả, trừ cái chúng ta bước vào khi chúng ta nhắm mắt chúng ta lại với thế giới và đóng trái tim của chúng ta lại với những người khác.

Quả thực có các lý tưởng, nhưng chúng không phải là các chiếc chuông hay các giường lý tưởng. Chúng là các đức hạnh, các quan niệm về thế giới có thể khác với và tốt hơn nó vốn là như thế nào. Với tư cách các cá nhân tự chủ, chúng ta học để quan tâm đến các lý tưởng này, và cân bằng chúng, và đưa chúng vào cuộc sống. Chúng ta cũng có thể học để tạo ra chúng. Chúng ta không vay mượn từ một thế giới lý tưởng. Chúng ta với tới nó 94và mở rộng nó.

Tuy nhiên, nếu chúng ta nghĩ rằng thế giới chúng ta trải nghiệm không phải là thế giới thực mà chỉ là một cái hang hoặc (như mọi người nói ngày nay) một sự mô phỏng máy tính, thì chúng ta có thể kết luận rằng hoạt động như vậy là vô nghĩa. Nếu chúng ta tin rằng cuộc sống là ở nơi khác, thì tự do là vô nghĩa, vì chúng ta không có sức mạnh nào để tồn tại trên cõi khác đó, nói chi đến thay đổi nó. Cơ hội duy nhất của chúng ta với tự do sẽ dường như để đạt được điều đó ở nơi khác bằng việc bỏ rơi thân thể không hoàn hảo của chúng ta bằng sự chết (hay như mọi người hình dung bây giờ, trở thành avatar số của chính mình).

Đây là hình thức chủ yếu của tự do phủ định: chúng ta có thể là tự do chỉ bằng việc dỡ bỏ một rào cản, và rào cản đó là thân thể của riêng chúng ta. Chúng ta bác bỏ Leib và tìm kiếm Körper. Chúng ta đi theo nguyên lý cái chết.

Kết luận này ám ảnh lý lẽ của Plato. Trong Republic, Plato nhờ Socrates, thầy của ông, 95mô tả cái hang. Socrates là nguyên mẫu của nhà triết học cô đơn, mà những sự thật của ông vượt xa thế giới này. Sau khi Socrates bị kết tội chết, ông gọi sự tách khỏi thân thể ông là 96một “sự giải thoát,” một sự giải phóng. Điều này không thể đúng. Thân thể chúng ta không chỉ là một Körper giữa những Körper khác, việc chặn cuộc sống khác nào đó mà ở nơi khác và việc chặn chúng ta khỏi việc đạt trạng thái cao hơn đó. Leib của chúng ta là đặc biệt vì nó chạm đến cả hai lĩnh vực của cái là gì và lĩnh vực của cái nên là gì.

Ngụ ngôn về cái hang, hiểu đúng, bênh vực điều này. Như được Plato kể, nó truyền đạt sai những gì mọi người sẽ trải nghiệm. Nó không có ý nghĩa hữu hình nào. 97Socrates nói rằng “những người bị giam cầm như vậy,” những người bị buộc trong hang, “sẽ xem sự thật chẳng là gì trừ những cái bóng của các đồ vật được chạm khắc.” Không, họ sẽ không. Socrates bỏ qua thân thể của những người bị xích lại. Nếu những người giả như trên thực tế bị xích trong một hang, thì thực tế đầu tiên của họ sẽ là sự đau đớn thân thể của chính họ, xích sắt trên thịt của họ, không phải các bóng trên một bức tường. Khi họ để ý đến những cái bóng, những cái mà những người bị xích lại sẽ để ý đầu tiên sẽ là cái bóng thân thể của chính họ. Những cái bóng họ sẽ thực sự thấy trên bức tường, nhất quán nhất và dễ hiểu nhất, sẽ là những cái bóng của thân thể của chính họ.

Những người bị xích lại sẽ có sự thật về sự đau khổ của chính họ. Trong vòng vài giây, họ sẽ cũng hiểu rõ mối liên kết 98giữa những bóng nào đó và thân thể của chính họ. Chẳng bao lâu, họ sẽ cũng hiểu rằng họ không đơn độc. Họ sẽ thấy những cái bóng của các thân thể khác và nhận diện chúng như vậy. Ngay cả giả như họ bị xích theo cách nào đó sao cho họ không thể quay đầu của họ để thấy thân thể của những người khác, họ sẽ nhanh chóng hiểu rõ rằng những cái bóng trên bức tường mà giống cái bóng của chính họ dẫn trở lại những thân thể khác, những người khác. Họ sẽ hiểu rằng những người khác đó phải ở trong một tình trạng khó khăn tương tự, chia sẻ một kinh nghiệm tương tự. Và khi họ hiểu những người khác, họ sẽ hiểu bản thân họ tốt hơn. Đây là những gì sẽ thực sự diễn ra trong cái hang của Plato. Những cái bóng của “các đồ vật được chạm khắc” sẽ có vẻ đáng ngờ và nhân tạo, và đúng thế.

Như vậy ngụ ngôn hang, nếu chúng ta chỉnh quang học một cách đúng đắn, dẫn đến một kết luận hoàn toàn khác với kết luận được Plato đề xuất và được truyền thống chấp nhận. Như một thí nghiệm tư duy, nó thực sự cho thấy rằng trí thức bắt đầu với thân thể, và rằng sự hiểu bắt đầu từ sự nhận ra 99sự hiện diện của các thân thể khác. Câu chuyện về hang, mà là câu chuyện về triết học Tây phương, phát triển theo cách nó đã phát triển chỉ bởi vì thân thể đã bị xóa bỏ hoàn toàn.

Và như thế phải tiến hành một sự chỉnh sửa. Plato biết Socrates như một người trưởng thành hết sức có cá tính, ai đó thờ ơ không chỉ với ý kiến thịnh hành mà với thân thể của chính ông và những đau đớn và niềm vui của nó. Không nghi ngờ gì Socrates là một người tự do đáng ngưỡng mộ. Ông đã liều mạng vì những gì ông tin. Nhưng chính năng lực của ông cho tự do, hơn là những gì ông nói về tự do, là cái chúng ta quan tâm. Tự do không phải là về là đúng, điều khó nắm bắt, mà là về việc cố gắng để làm đúng. Làm thế nào Socrates trở nên tự do? Câu trả lời không thể thực sự bắt đầu từ suy nghĩ của ông, đúng hay sai như nó đã có thể là. Nó phải bắt đầu với cuộc sống của ông.

Bản thân Socrates cho chúng ta một gợi ý. Giống tất cả chúng ta, Socrates đã có một bà mẹ. Ông nói về bà tại một trong những điều tra triết học của ông, so sánh công trình của chính ông như một nhà triết học với công việc của bà như một bà đỡ (đẻ). Tới gần cuối đời của ông, 100Plato bảo chúng ta, Socrates đã so triết học với sự sinh con, và những tư tưởng với trẻ con.

Tên mẹ ông, Phaenarete, có nghĩa là “nhận ra đức hạnh,” một lời hứa cảm động. Chúng ta không thể tự mình nhận ra đức hạnh, nhưng chúng ta có thể học để làm vậy với sự giúp đỡ của các bà đỡ và các bà mẹ và những người khác. Socrates, sai như ông sai về các vấn đề khác, đã nói đúng rằng chẳng ai trong chúng ta là tự túc (độc lập) cả. Những đứa trẻ cần sự giúp đỡ từ những bà mẹ, những bà mẹ cần sự giúp đỡ của các bà đỡ, mọi người vào lúc bắt đầu của cuộc sống cần sự giúp đỡ của những người khác.

Sự sinh đẻ, không phải định mệnh. Một dạ con là tốt hơn một nấm mồ. Suy nghĩ về bà mẹ của Socrates, chúng ta bắt đầu triết học của tự do không phải từ một cái hang đóng lại mà từ một thế giới mở ra.

Chú thích:

36“một ý định thấm vào toàn thể”: Stein, Zum Problem der Einfühlung, 64.

37“cục nhỏ vật lý”: Roger Angell, “The Interior Stadium,” New Yorker, February 20, 1971. I read it trong beautiful assemblage of paintings and essays published as This Great Game (New York: Prentice Hall, 1971).

 38“Tự nhiên kháng cự,” Simone Weil nói: Weil, Réflexions sur les causes de la liberté, 38.

 39“thế giới của các giá trị”: Stein, Zum Problem der Einfühlung, chap. 4.

 40“quy luật tất yếu”: Stein, Zum Problem der Einfühlung, chap. 3.

 41“một quy luật kép”: Simone Weil, On Science, Necessity, and the Love of God, trans. and ed. Richard Rees (Oxford: Oxford University Press, 1968), 12.

42gọi bản thân mình là Borderlanders: Xem Krzysztof Czyżewski, Toward Xenopolis: Visions from the Border Land, ed. Mayhill Fowler (Rochester, N.Y.: Rochester University Press, 2022).

43Mỗi năng lực mới: Xem Penelope Eckert and Sally McConnell-Ginet, “Communities of Practice,” trong Kira Hall, Mary Bucholtz, and Birch Moonwomon, eds., Locating Power (Berkeley, Calif.: Berkeley Women and Language Group, 1992), 93.

44bị bắn và bị ngạt hơi đến chết: Sara Bender, The Jews of Białystok During World War II and the Holocaust, trans. Yaffa Murciano (Waltham, Mass.: Brandeis University Press, 2008).

 45“Quá khứ và tương lai”: Weil, La pesanteur et la grâce, 65.

46một “pháo đài” tài nguyên: Xem Alvin Gouldner, “Stalinism: A Study of Internal Colonialism,” Telos, no. 34 (Winter 1977–78): 5–48; Lynne Viola, “Die Selbstkolonisierung der Sowjetunion und der Gulag der 1930er Jahre,” Transit, no. 38 (Winter 2009): 34–56. Tôi phát triển chủ đề này trong Bloodlands. Về một suy ngẫm rộng hơn xem Alexander Etkind, Internal Colonization (London: Polity, 2011).

47Lebensraum, không gian sống: Về các chính sách Đức chiếm đóng, xem Karel C. Berkhoff, Harvest of Despair: Life and Death in Ukraine Under Nazi Rule (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2004); Wendy Lower, Nazi Empire-Building and Holocaust in Ukraine (Chapel Hill: University of North Carolina Press, 2005). Thái độ của Hitler với Ukraine là một chủ đề của cuốn Black Earth: The Holocaust as History and Warning (New York: Crown, 2015) của tôi.

48các huyễn hoặc thuộc địa (colonial fantasies): Cũng có một truyền thống thuộc địa Ba lan, nhưng nó đã được suy nghĩ lại trong nửa thứ hai của thế kỷ thứ hai mươi. Xem Jerzy Giedroyc, Autobiografia na cztery ręce, ed. Krzysztof Pomian (Warsaw: Czytelnik, 1996). Đây là một chủ đề của cuốn Reconstruction of Nations (New Haven: Yale University Press, 2002) của tôi.

49Truyền hình Nga Ngày nay” (Russian Television today-hệ thống truyền hình RT): Được lập tư liệu trong Julia Davis, In Their Own Words: How Russian Propagandists Reveal Putin’s Intentions (New York: Ibidem Press, 2024). Xem cả Timothy Snyder, “The War in Ukraine Is a Colonial War,” New Yorker, April 28, 2022.

50Tại một cơ sở phục hồi: Một số trò chuyện từ cuộc gặp gỡ này được phản ánh trong Nataliya Gumenyuk, “Yes, Tiredness Is Ravaging Ukrainian Soldiers I Meet. But They Never Think of Giving Up,” Guardian, December 15, 2023.

51đã bỏ một việc làm an toàn: Câu chuyện của anh được kể trong “While I Was Crawling, 4 Mines Exploded and I Lost My Left Limbs,” Chosun (South Korea), December 7, 2023.

 52Chúng tôi làm việc cùng nhau: Yedida Kanfer đã chịu trách nhiệm ghi chép các cuộc trò chuyện này.

53Cùng nhau chúng tôi đã đạt: Tony Judt with Timothy Snyder, Thinking the Twentieth Century (New York: Penguin, 2012).

54tôi nhận được cái bắt tay của gã-da trắng: Sau khi đọc một phiên bản được sửa lại của văn bản này, sinh viên của tôi có tên Alpha đã cho tôi cái anh nói đùa là một “cái ôm của gã da trắng.” Sự chuyển mã (code-switching) xảy ra trong ngôn ngữ cơ thể cũng như trong ngôn ngữ nói. Cái sau là cái gì đó tôi đối mặt và nghĩ về ở Ukraine và trong nước của chính tôi, nhưng sẽ cần một cuốn sách khác để xem xét thực hành liên hệ thế nào với quyền lực. Tôi sẽ chỉ nói rằng việc làm một loại code-switching trong tiếng Anh có thể khiến bạn biết các loại code-switching khác, và rằng việc lưu ý đến code-switching trong ngôn ngữ khác (chẳng hạn, tiếng Ukrainia-Nga) có thể khiến bạn biết về cái đang xảy ra trong ngôn ngữ của riêng bạn. Về một cố gắng để định hướng lại triết học của ngôn ngữ ra xa khỏi thông tin và theo hướng sự hòa hợp, xem David Beaver and Jason Stanley, The Politics of Language (Princeton: Princeton University Press, 2023).

 55“phải thấy thân thể của những người khác”: Lisa Guenther đưa ra một loạt điểm liên quan, chẳng hạn: “Cnt cần các mối quan hệ thân thể hàng ngày với những người khác nhằm để là chính mình, không chỉ bởi vì chúng ta xác định các bản sắc xã hội và tâm lý cá biệt của chúng ta trong quan hệ với nhau, mà cũng bởi vì chúng ta có một ham muốn cấu thành cho sự hiện diện thân thể của những người khác.” Solitary Confinement: Social Death and Its Afterlives (Duluth: University of Minnesota Press, 2013), 213. Tôi không tự nhận là một chuyên gia trong truyền thống này, nhưng đối với tôi dường như Guenther đang phản ứng với Merleau-Ponty, người đến lượt mình đã rút ra từ quan niệm của Stein về Leib, mà trở thành le corps vécu (cơ thể sống) đối với ông. Xem Margaretha Hackermeier, Einfühlung und Leiblichkeit als Voraussetzung für intersubjektive Konstitution (Hamburg: Dr. Kovacs Verlag, 2008).

 56“Khi tôi bị giam cầm trong chính bản thân mình”: Stein, Zum Problem der Einfühlung, 72.

57“Thành phần của cá nhân lạ”: Stein, Zum Problem der Einfühlung, 99.

58”không nghi ngờ gì rằng bây giờ chúng ta sẽ bị đánh bại.”: Edith Stein gửi cho Roman Ingarden, February 9, 1917, trong Edith Stein, Self-Portrait in Letters, trans. Josephine Koeppel (Washington, D.C.: ICS Publications, 1993), 9.

59như một vựa lúa mì: Xem Frank Golczewski, Deutsche und Ukrainer, 1914–1939 (Paderborn: Ferdinand Schöning, 2010); Peter Borowsky, Deutsche Ukrainepolitik 1918 (Lübeck: Matthiesen Verlag, 1970); Gerald Feldman, German Imperialism 1914–1918 (New York: John Wiley & Sons, 1972).

60Đối mặt với các thân thể bị thương của họ: Thái độ ngạo mạn Đức của Edith Stein đã tô điểm sự suy ngẫm của riêng bà, mà dù sao là thật. “Khi chúng tôi phát hiện,” bà nhớ lại, “một trong những đồng bào [Đức] của chúng ta trong một chuyến vận chuyển, chúng tôi các y tá Đức đã vui mừng. Nhưng một khi anh ta ở chỗ chúng tôi vài ngày, chúng tôi thường đã rất kiềm chế. Những đồng hương của chúng ta [các lính Đức] đã khắt khe và phê phán; họ đã có thể làm đảo lộn toàn bộ phòng bệnh nếu bất cứ thứ gì không phù hợp với họ. Các thương binh từ ‘các quốc gia man rợ’ đã khiêm tốn và biết ơn. Tôi rất thương họ, những người Slovak và Ruthenia [Ukrainia] tội nghiệp này, bị kéo ra khỏi những ngôi làng yên tĩnh của họ và bị tống vào trận chiến. Họ biết gì về lịch sử của Đế chế (Reich) Đức và của nền quân chủ Hapsburg? Bây giờ họ nằm ở đó đau khổ mà không biết vì cái gì.” Life in a Jewish Family, ed. L. Gelber and Romaeus Leuven, trans. Josephine Koeppel (Washington, D.C.: ICS Publications, 1986), 333.

61đã lấp các bể bơi công cộng bằng xi măng: Hinton, America on Fire, 50.

62phản ứng chính trị lớn hơn: Vesna Weaver, “Frontlash: Race and the Development of Punitive Crime Policy,” Studies in American Political Development 21 (Fall 2007): 230–65.

63chúng ta xác định bản thân mình: Thật đáng ghi nhớ nhận xét của Rudiger Safranski rằng “một người được xác định không phải bằng việc cho phép bản thân mình để được xác định.” Zeit: Was sie mit uns macht und was wir aus ihr machen (Munich: Hanser, 2015), 47.

64đã gây cảm hứng cho các luật kỳ thị chủng tộc Đức: James Q. Whitman, Hitler’s American Model: The United States and the Making of Nazi Race Law (Princeton: Princeton University Press, 2017).

65Nếu chúng ta bắt đầu từ sự trưởng thành kỳ diệu: Mặc dù John Stuart Mill có ủng hộ giáo dục, phê phán này áp dụng cho công trình nổi tiếng nhất của ông: On Liberty (1859; tái bản Indianapolis: Hackett, 1978, Bàn về Tự do, NXB Tri Thức 2005). Nhưng nó là một vấn đề cho toàn bộ các truyền thống chính.

66chủ quyền của nhà nước: Một nhà tư tưởng Nga quan trọng, Vladislav Surkov, cho rằng chủ quyền của nhà nước có nghĩa là quyền tối cao không phải của tất cả mọi người mà là của một người, nhà độc tài. Vladislav Surkov, Texts 97–10, trans. Scott Rose (Moscow: Europe, 2010). Trích dẫn Ilyin: Vladislav Surkov, “Suverenitet–ieto politicheskii sinonim konkurentosposobnosti,” trong Teksti 97–07 (Moscow: 2008); Vladislav Surkov, “Russkaya politicheskaya kultura: Vzglyad iz utopii,” Russ.ru, June 7, 2015.

67nhà lý luận pháp lý Carl Schmitt: Về chủ quyền của Schmitt, xem Carl Schmitt, Politische Theologie: Vier Kapitel zur Lehre von der Souveränität (1922; tái bản Berlin: Duncker & Humblot, 2004), 13. Xem cả Jean-Pierre Faye, “Carl Schmitt, Göring, et l’État total,” trong Yves Charles Zarka, ed., Carl Schmitt ou le mythe du politique (Paris: Presses Universitaires de France, 2009), 161–82; Czesław Madajczyk, “Legal Conceptions in the Third Reich and Its Conquests,” Michael: On the History of Jews in the Diaspora 13 (1993): 131–59. Một dẫn nhập hữu ích đến tư duy của Schmitt bằng tiếng Anh là Writings on War, trans. and ed. Timothy Nunan (Cambridge: Polity Press, 2011).

68Một Adolf Hitler lợi dụng: Xem Yves Charles Zarka, Un détail nazi dans la pensée de Carl Schmitt: La justification des lois de Nuremberg du 15 septembre 1935 (Paris: Presses Universitaires de France, 2005); Raphael Gross, Carl Schmitt and the Jews: The “Jewish Question,” the Holocaust, and German Legal Theory, trans. Joel Golb (Madison: University of Wisconsin Press, 2007); Mark Edele and Michael Geyer, “States of Exception,” trong Michael Geyer and Sheila Fitzpatrick, eds., Beyond Totalitarianism: Stalinism and Nazism Compared (Cambridge: Cambridge University Press, 2009), 345–95; Stephen G. Wheatcroft, “Agency and Terror: Evdokimov and Mass Killing in Stalin’s Great Terror,” Australian Journal of Politics and History 53, no. 1 (2007): 20–43..

69khế ước xã hội: Tôi tập trung ở đây vào một truyền thống bắt đầu với Hobbes và tiếp tục với Locke. Tất nhiên có những mô tả mạnh mẽ khác về chủ quyền nhà nước, chẳng hạn những mô tả liên kết với Plato và Bodin. Tôi không tin rằng bất kể mô tả nào trong số chúng xử lý hoặc vấn đề kinh nghiệm (nhà nước có ở đó rồi) hay vấn đề đạo đức (làm thế nào để chính danh hóa nó qua tự do).

70một cuộc sống trong tự do: Ernst Bloch, xem xét sự bất bình đẳng trong cuốn sách thứ nhất của ông, cho rằng “chúng ta biết câu khắc trên bia mộ của hầu hết trẻ em thậm chí trước khi chúng ra đời.” Geist der Utopie (1918; tái bản Berlin: Suhrkamp, 2018), 411. Việc có được sự tự chủ cho phép việc có được sự không thể dự đoán được và sự di động.

71 Chúng ta được sinh ra chưa phát triển: Cho một tóm tắt về sự nghiên cứu này, xem Center for the Developing Child, “InBrief: The Science of Early Childhood Development,” Harvard University, 2007.

72Con người đã tiến hóa để trở nên kiên nhẫn: Xem Sarah Blaffer Hrdy, Mothers and Others: The Evolutionary Origins of Mutual Understanding (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2011); Bernd Heinrich, Why We Run: A Natural History (New York: HarperCollins, 2001).

73các cấu trúc đúng phù hợp phải có rồi: So sánh Joseph Raz: “Autonomy is possible only if various collective goods are available.” The Morality of Freedom (Oxford: Oxford University Press, 1986), 247.

74Edith Stein chỉ ra: Dường như đối với tôi rằng việc Edith Stein kiên trì phá vỡ một số khái niệm cơ bản của Heidegger xứng đáng một lượng độc giả rộng hơn nó đã nhận được. Đây là một gợi ý: “Dasein (hiện hữu) đối với ông trống rỗng đến mức trở thành một sự nối tiếp từ không gì đến chẳng gì. Và tuy thế, đúng hơn là sự trọn vẹn mà đầu tiên thực sự làm cho nó có thể hiểu được vì sao con người là ‘về sự hiện hữu của nó.’ Sự hiện hữu này không chỉ là một sự mở rộng thời gian của nó và vì thế liên tục ‘trước chính nó’; con người luôn luôn đòi hỏi được biếu những món quà của sự hiện hữu nhằm để có khả năng bày tỏ những gì thời khắc đồng thời cho nó và lấy đi.” “Martin Heidegger’s Existential Philosophy,” trans. Mette Lebech, Maynooth Philosophical Papers, no. 4 (2007): 80. Xem cả Ken Casey, “Do We Die Alone? Edith Stein’s Critique of Martin Heidegger,” KenCasey99.wordpress.com, June 2, 2012.

 

 75“hướng tới cái chết-being toward death”: Sein-zum-Tode là về cuộc sống sinh động đích thực qua sự nhận thức nội tại về cái chết. Phê phán bên trong của tôi: sự bắt đầu từ sự sinh nở tạo ra cảm giác về thời gian tốt hơn như khả năng mà dường như bản thân Heidegger nghĩ đến (trong Sein und Zeit, 1927). Phê phán bên ngoài của tôi: các đức hạnh cạnh tranh, tuyệt đối và sự khẳng định của chúng trao một ý nghĩa cho cuộc sống mà, trong khi theo nghĩa nào đó bị cái chết ràng buộc, không dựa nhiều vào nó.

 76“being toward life-hướng tới sự sống”: Marci Shore chơi với một số ý tưởng Heideggerian khi mang thai, chẳng hạn, hiểu theo nghĩa đen Geworfenheit, hay “sự bị quăng” (vào đời), như dính líu đến bản thân sự sinh đẻ (một trẻ sơ sinh “được [bà đỡ] tóm [hay ca mổ moi ra]”—thì sao?). Theo như tôi biết, không ai đã thử viết một cuốn sách như vậy, nhưng có những ví dụ khác về việc định hướng lại Heidegger theo hướng sự sinh, hay chí ít nghĩ về các khái niệm của ông về sự sinh. Xem Lisa Guenther, “Being-from-Others: Reading Heidegger After Cavarero,” Hypatia 23, no. 1 (2008): 99–118.

 77“Sự bắt đầu, trước khi nó trở thành”: Hannah Arendt, The Origins of Totalitarianism (New York: Harcourt, Brace, 1951), 477.

78Như những đứa trẻ, bản thân họ: Từ tuổi khoảng mười tám tháng, những đứa trẻ từ các gia đình giàu hơn sử dụng ngôn ngữ một cách khác biệt. Được lưu ý trong David Denby, Lit Up (New York: Picador, 2018), 116.

79những kinh nghiệm tiêu cực thời thơ ấu: Về một dẫn nhập cho nghiên cứu này, xem Center on the Developing Child, “InBrief: The Impact of Early Adversity on Children’s Development,” Harvard University, 2007; xem cả Christina Bethell et al., “Positive Childhood Experiences and Adult Mental and Relational Health in a Statewide Sample,” JAMA Pediatrics 173, no. 11 (November 2019); V. J. Felitti et al., “Relationship of Childhood Abuse and Household Dysfunction to Many of the Leading Causes of Death in Adults,” American Journal of Preventive Medicine 14, no. 4 (May 1998): 245–58.

80“một thứ con người sở hữu”: Weil, Réflexions sur les causes de la liberté, 71.

81Kiến thức của chúng ta về sự phát triển thời thơ ấu sớm: Về một tập hợp hữu ích của các bài báo, xem “Advancing Early Childhood Development: From Science to Scale” (series), Lancet 389 (October 2016).

82giỏi về việc nhận diện các khuôn mặt: Faraz Farzin, Chuan Hou, and Anthony M. Norcia, “Piecing It Together: Infants’ Neural Responses to Face and Object Structure,” Journal of Vision 12, no. 13 (December 2012): 6.

83lời nói của ai đó khác: Elizabeth Bates, Luigia Camaioni, and Virginia Volterra, “The Acquisition of Performatives Prior to Speech,” Merrill-Palmer Quarterly of Behavior and Development 21, no. 3 (July 1975): 205–26.

84công việc của những người chăm sóc: điểm quan trọng là không phải để khiến cá nhân các bậc cha mẹ đối mặt với thần kinh học của việc nuôi dạy trẻ. Điểm quan trọng là tính đến kiến thức này trong việc tạo ra các điều kiện chung làm cho việc nuôi dạy trẻ cáo kết quả hơn. Xem Joyve Leyson, “Upbringing and Neuroscience,” trong Malte Brinkmann, Johannes Türstig, and Martin Weber-Spanknebel, eds., Leib–Leiblichkeit–Embodiment (Berlin: Springer, 2019), 259–62.

85Các xúc cảm tích cực mở rộng dải lựa chọn: Barbara Fredrickson, “The Broaden-and-Build Theory of Positive Emotions,” Philosophical Transactions of the Royal Society of London, Biological Sciences 359, no. 1449 (September 29, 2004).

86Chúng ta có thể học để cai quản bản thân mình: Xem Clyde Hertzman, “The Lifelong Impact of Childhood Experiences: A Population Health Perspective,” Daedalus 123, no. 4 (1994): 167–80.

87Nhiều nghiên cứu chỉ ra: Xem những kiến nghị đồng thuận trong Tổ chức Y tế Thế giới, “Improving Early Childhood Development: WHO Guideline,” WHO.int, March 5, 2020, 11 và đây đó.

88sự chơi đùa không có cấu trúc (unstructured play); và những lựa chọn về các thứ: Rutger Bregman, Humankind: A Hopeful History, trans. Elizabeth Manton and Erica Moore (New York: Little, Brown, 2020), 279–96. (Nhân loại: Một Lịch sử tràn đầy Hi vọng, NXB Dân trí).

89Chức năng làm mẹ thuộc về tự do: Heather Boushey, Finding Time: The Economics of Work-Life Conflict (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 2016) đưa tôi đến kết luận này.

90 Những người lớn cho trẻ em vay: Luce Irigaray đưa ra một lý lẽ tương tự, dùng hình tượng kỳ lạ của hơi thở: Chúng ta sống trong dạ con nhờ sự thở của một bà mẹ, nhưng chúng ta chẳng bao giờ có thể thở cho bà hay trả lại bà bằng hiện vật. L’oubli de l’air chez Martin Heidegger (Paris: Éditions de Minuit, 1983), 10, 31–35, 42–43.

 91“một khoản vay phải được gia hạn liên tục”: Weil, La pesanteur et la grâce, 80.

92làm cho không thể để: Đây có thể là ý xấu thay vì một sự hiểu lầm, như các tiểu thuyết và các tiểu luận của Margaret Atwood nhắc nhở chúng ta.

93như mỗi chiếc giường trong phòng hộ sinh: Đúng, Plato đã không viết về các phòng hộ sinh. Nhưng vấn đề rằng các thứ mới có thể nảy sinh là một vấn đề của triết học của ông, không phải của sự giải thích của tôi về nó.

94và mở rộng nó: Đối với Leszek Kołakowski, là quan trọng rằng các đức hạnh mới có thể được tạo ra, vì giả như tất cả các thứ tốt đã được làm rồi, thì chúng ta không thể là tự do. Ông trình bày tư tưởng này trong một bài phát biểu ngày 3 tháng Mười Hai 1965, được công bố đầu tiên trong Życie Literackie, no. 50 (1965): 34–35, rồi được in lại trong Marzec 1968 w dokumentach MSW 1 (Warsaw: IPN, 2008), 266–68.

95mô tả cái hang: Plato, Republic, bk. 7.

96một “sự giải thoát,” một sự giải phóng: Ở cuối The Apology.

97Socrates nói rằng “những người bị giam cầm như vậy”: Plato, Republic, bk. 7.

98giữa những cái bóng nào đó: Chúng ta hãy chấp nhận sự xây dựng thí nghiệm hang khắt khe của Plato, trong đó mọi người ngồi hàng năm nhìn vào một bức tường và chỉ thấy các bóng của “các đồ vật được chạm khắc,” và chẳng bao giờ để ý đến thân thể của những người thực sự mang các đồ vật đó tới và lui. Plato gạt bỏ vấn đề thân thể của những người múa rối bằng việc đặt họ đằng sau một bức tưởng thấp. Họ giữ các đồ vật trên bức tường thấp đó và bằng cách nào đó chẳng bao giờ để lộ bàn tay và cánh tay của họ.

99sự hiện diện của các thân thể khác: Tôi thực hiện một phân tích tương tự nhưng mở rộng hơn nhiều về Turing Test, với sự chú ý đến giới, trong “And We Dream as Electric Sheep,” Eurozine, May 6, 2019. Tôi viết trong cuốn sách này về giới ít hơn tôi muốn mình đã viết, nhưng muốn chuyển các bạn đọc đến tiểu luận đó, mà mở rộng và bổ sung Về Tự do trong một số lĩnh vực.

100Plato bảo chúng ta: Trong Theaetetus.