Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 3)

 Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Sự tự chủ

Leib

Nhà triết học Đức Edith Stein đưa thân thể bà lên phía trước trong Chiến tranh Thế giới I. Một sinh viên tốt nghiệp, bà đã nghỉ việc để tình nguyện như một y tá. Khi bà quay lại với luận văn của bà, thời gian của bà với những người bị thương đã hướng dẫn lý lẽ của bà về sự thấu cảm. Bà hỏi 1“chúng ta không cần sự dàn xếp của thân thể để đảm bảo với chính mình về sự tồn tại của người khác?”

2Từ bà dùng cho “thân thể” là Leib.

Hình thức đầu tiên của tự do, như tôi hy vọng để cho thấy, là sự tự chủ (sovereity, chủ quyền). Một người tự chủ biết bản thân họ và thế giới đủ để đưa ra các phán quyết về các giá trị và để thực hiện các phán quyết đó.

Đối với Stein, chúng ta có được sự hiểu biết về bản thân mình khi chúng ta công nhận những người khác. Chỉ khi chúng ta nhận ra rằng những người khác ở trong cùng tình thế khó khăn như chúng ta, sống như những thân thể như chúng ta sống, chúng ta có thể coi nghiêm túc họ xem chúng ta như thế nào. Khi chúng ta đồng nhất với họ như họ nhìn chúng ta, thì chúng ta hiểu bản thân mình mà theo cách khác chúng ta có thể không hiểu. Nói cách khác, sự khách quan của chính chúng ta phụ thuộc vào tính chủ quan của những người khác.

Đây không phải là cách chúng ta quen để xem các thứ. Chúng ta tưởng tượng rằng chúng ta có thể chỉ tự thu nhận thông tin, như các cá nhân cô lập. Chúng ta tin rằng khi chúng ta ở một mình, chúng ta tự do. Sai lầm này bảo đảm rằng chúng ta không tự do.

Từ Leib đưa chúng ta đến một lập trường mới. Tiếng Đức có hai từ cho “thân thể,” Körper và Leib. Từ Körper có thể có thể có nghĩa là thân thể của một người nhưng cả một “vật thể lạ” (Fremdkörper), một “thiên thể” (Himmelskörper), “cơ thể chủng tộc, cơ thể dân” (Volkskörper), và các vật thể khác được nghĩ là tuân thủ các định luật vật lý. Một Körper có thể còn sống, nhưng nó không cần là (so với xác chết). Stein nói, 3“Có thể có một Körper mà không có tôi, nhưng không Leib nào mà không có tôi.”

Từ Leib chỉ rõ một thân thể người đang sống, hay một thân thể động vật, hay thân thể của một sinh vật trong một câu chuyện. Một Leib là một Körper, tuân theo các định luật vật lý, nhưng đó không phải là tất cả cái nó là. Nó có các quy tắc riêng của nó và như thế các cơ hội riêng của nó. Một Leib có thể di chuyển, một Leib có thể cảm nhận, và một Leib có trung tâm riêng của nó, không thể vẽ đồ thị chính xác trong không gian, mà Stein gọi là 4một “điểm zero”. Chúng ta có thể luôn thấy phần nào đó của Leib của chúng ta, nhưng chúng ta không bao giờ có thể thấy tất cả nó.

Sự sống động của chúng ta được chia sẻ. Khi chúng ta hiểu người khác như Leib hơn là Körper, chúng ta thấy toàn bộ thế giới khác đi. Người khác có một điểm zero, hệt như chúng ta có; các điểm zero tạo những mối kết nối, tạo ra một mạng lưới hiểu biết mới. Chính nhờ Leib của người khác 5mà chúng ta được giải phóng khỏi suy nghĩ về bản thân chúng ta như bên ngoài thế giới, hay chống lại thế giới. Một bước nhảy nhỏ về sự thấu cảm là lúc bắt đầu của sự hiểu biết mà chúng ta cần cho tự do.

Nếu chỉ tôi chống lại thế giới, thì tất cả những lời tuyên bố đêm khuya cục cằn của tôi được biện hộ và là đúng và đáng sự chú ý. Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng rằng con gái tôi (cũng) trở nên cáu kỉnh khi nó mệt mỏi và nói những thứ hoàn toàn vô lý. Nhìn thấy nó, nhìn thấy điều đó, tôi nhận ra một hiện tượng trong thế giới, và đột nhiên biết nhiều hơn về bản thân mình. Tôi có được thí dụ đó nhờ việc hỏi con trai tôi về lý lẽ của cuốn sách này. Biết tôi và biết em gái, nó ngay lập tức biết ý tôi muốn nói gì, và sau đó nó cũng có thế thấy rằng đây là kiến thức khách quan, thuộc loại chúng ta không thể có được một mình.

Nhờ Leib, 6các hiện tượng xuất hiện, những thứ là quan trọng cho cuộc sống và cho tự do: sinh ra, ngủ, thức dậy, sức khỏe, thở, ăn, uống, chỗ ở, làm tình, bệnh tật, sự già đi, chết. Chẳng ai trong chúng ta nhớ sự được sinh ra, nhưng tất cả chúng ta đều được sinh ra. Chẳng ai trong chúng ta sẽ nhớ sự chết, nhưng chúng ta nhớ ngững người khác đang chết. Sự thấu cảm không chỉ là sự thôi thúc mơ hồ nào đó để là tử tế. Sự thấu cảm là một điều kiện trước cho kiến thức nào đó về thế giới. Cá nhân cô lập, thử ngắm thế giới một mình, không có cơ hội nào để hiểu nó.

Bởi vì Leib ở tại nguồn tri thức, nó cũng ở tại 7nguồn của một nền chính trị của tự do. Khi chúng ta xem những người khác như các chủ thể giống bản thân mình, chúng ta bắt đầu có được kiến thức khách quan về thế giới. Nếu chúng ta xem những người khác như các khách thể (hay vật thể), chúng ta sẽ thiếu tri thức cốt yếu không chỉ về họ mà cả về thế giới và về bản thân chúng ta nữa. Điều này làm cho chúng ta dễ bị tổn thương với những người lạm dụng chúng ta và cai trị chúng ta. Chúng ta sẽ thấy bản thân mình như các vật thể, và chúng ta sẽ bị thao túng bởi những người khác đối xử với chúng ta như thế.

Dưới ánh sáng này, tự do phủ định là sự tự lừa dối của những người không thực sự muốn được tự do. Những người trình bày tự do như phủ định bỏ qua cái chúng ta là, bỏ qua Leib. Nếu chúng ta chỉ là Körper, thân xác vật lý, thì ý tưởng về tự do phủ định sẽ có một loại ý nghĩa. Các vật thể có thể bị các vật thể khác kiềm chế. Tự do có thể chỉ là tự do khỏi (freedom from), mà không có các khát vọng hay tính chất cá nhân, không có bất kể ý nghĩa nào về cuộc sống là gì hay nên là gì. Nhưng khi chúng ta hiểu đúng bản thân chúng ta như một thân thể theo nghĩa con người, như một Leib, chúng ta hiểu rằng tự do phải phù hợp với trạng thái đặc biệt đó. Nó phải là khẳng định, không phải phủ định. Các rào cản là xấu không phải bởi vì chúng ngăn chúng ta như các vật thể, mà bởi vì chúng cản trở chúng ta khỏi việc hiểu nhau và khỏi việc trở thành các chủ thể.

Tự do phủ định không chỉ là một sự hiểu lầm mà là một ý tưởng áp bức. Bản thân nó là một rào cản, một rào cản thuộc loại trí tuệ và đạo đức. Nó cản chúng ta khỏi việc thấy những gì chúng ta cần để là tự do. Những người muốn chúng ta không-tự do tạo ra các rào cản giữa chúng ta, hay can ngăn chúng ta khỏi việc xây dựng các cấu trúc cho phép sự hiểu biết. Khi chúng ta xem mình như Leib, và hiểu thế giới, chúng ta thấy những gì chúng ta sẽ phải cùng nhau xây dựng nhằm để trở nên tự do.

Cuộc sống

Edith Stein đã chỉ có một việc làm đại học, trong một năm học duy nhất. Bà mất nó khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Trong tháng Tư 1933 bà viết một bức thư cho giáo hoàng, trong đó bà thử giải thích, bằng ngôn ngữ ngài sẽ hiểu, lập trường của những người Do thái của nước Đức: 9“Chúng tôi đã thấy những hành động được thực hiện tồi tệ ở nước Đức mà chế giễu bất kể ý nghĩa nào về công lý và nhân tính, không nhắc đến sự yêu mến láng giềng.” Bà gọi sự lặng thinh của Giáo hội về sự đàn áp Do thái là một “vết nhơ” trên lịch sử của nó.

Hitler có một quan điểm về thân thể con người hoàn toàn ngược với quan điểm của Stein. Trong Mein Kampf, ông viết về Fremdkörper, “các cơ thể lạ,” phá hoại Volkskörper, cơ thể chủng tộc Đức. Thay cho việc xem mỗi người ở nước Đức như một cơ thể con người khác biệt, bọn Nazi vẽ chân dung chủng tộc Đức như một cơ thể duy nhất và những người Do thái như các đồ vật lạ, các vi trùng hay các ký sinh trùng.

Khi các con tôi còn nhỏ, chúng tôi sống ở Vienna. Khi con gái tôi học lớp một và con trai tôi lớp ba, chúng tôi thường đi đến trường trên các xe scooter (xe trượt dùng một chân đẩy) ngang Quảng trường Anh hùng, 10Heldenplatz, nơi một đám đông khổng lồ đã chào mừng Hitler ngay trước khi nước Đức sáp nhập Austria. Năm đó tôi đưa con trai tôi đi tập đá bóng trong một sân vận động hai lần một tuần. Một ngày, các huấn luyện viên phân phát các áo màu tím, Leibchen, một từ nghe như “thân thể nhỏ.” Bọn trẻ cởi những thứ chúng đang mặc, xỏ tay và đầu vào những chiếc áo mới, và đột nhiên trông giống một đội bóng.

Năm năm trước đó, khi chúng tôi đợi xe bus đi nhà trẻ, con trai ba tuổi của tôi bị quyến rũ bởi những máy thường được dùng để đào vào vỉa hè và trải nhựa đường lên bề mặt bị lộ ra. Các công nhân đang chuẩn bị để đặt Stolpersteine, “chướng ngại vật [thực ra là các phiến đá hay bê tông 10 x 10 cm có mặt trên phủ đồng thau khắc tên và thời gian sống của các nạn nhân],” những bài vị có thể sờ thấy được cho những người Do thái bị sát hại. Những tấm kim loại được khắc và được nhúng vào vỉa hè này nhắc nhở chúng ta về nơi những người Do thái một thời đã sống. Thông tin chúng mang—tên, địa chỉ, nơi chết—cho chúng ta một cơ hội để phục hồi nhân bản, để phục hồi, ít nhất trong trí tưởng tượng, những gì họ đã mất. Trước khi những người Do thái bị giết, họ bị tước mất mọi thứ: đầu tiên tài sản của họ, rồi quần áo của họ. Giống cả triệu hay khoảng thế người Do thái khác bị tàn sát ở Auschwitz, Edith Stein đã phải cởi hết quần áo. Đây là sự trộm cắp, tất nhiên, nhưng chủ yếu là sự làm nhục, đối xử một Leib như một Körper, chuẩn bị mọi người cho sự tàn sát.

Trước khi con trai tôi sinh ra ở Vienna, tiếng Đức đối với tôi là một ngôn ngữ của cái chết: của bài phát biểu của Hitler tại Heldenplatz, của dấu hiệu trên các cổng của Auschwitz, của tất cả hàng ngàn nguồn tôi đã đọc nhằm để viết về Holocaust và những hành động tàn bạo khác. Körper trong mọi hình thức của nó là quen thuộc, Leib ít quen thuộc hơn. Với con trai tôi, tiếng Đức trở thành một ngôn ngữ của cuộc sống. Tôi nghe từ Leib trong một khu hộ sinh Vienna, từ một y tá cố gắng dạy việc cho con bú sữa mẹ.

Các bà mẹ ở lại trong các bệnh viện Austria trong 96 giờ sau khi sinh đẻ, để học tắm cho con và cho con bú sữa mẹ. Trong không gian đó với các thân thể đó trong bốn ngày, tôi đã học những thứ mà khác đi lẽ ra tôi đã không biết. Tình trạng khó khăn của nữ y tá, bà mẹ, và trẻ sơ sinh đã khác với tình trạng của tôi, nhưng tôi đã có thể hiểu cái gì đó về nó, rồi về bản thân tôi và thế giới. Tôi tự do hơn với tư cách một người cha vì đã ở đó.

Leib của bạn đẩy bạn lại vào thế giới, làm thay đổi nó. Nó chuyển vật lý thành nỗi đau và niềm vui, chuyển hóa học thành mong muốn và sự thất vọng, sinh học thành thi ca và văn xuôi. Nó là màng có thể thấm được giữa sự bắt buộc và tự do. Nó là một Leib có khả năng về loại tập trung đánh dấu một người tự do và tự chủ. 12Körper (khiến) chúng ta tập trung vào một trại (tập trung).

Láng giềng

Stein đã không có khả năng có được chứng chỉ và giữ việc làm phù hợp với bà, như một phụ nữ ở nước Đức giữa hai cuộc chiến tranh. Sau khi công bố luận văn của bà về sự thấu cảm, bà đã chuyển năng lực của bà sang 13việc công bố công trình của một người bạn và giáo viên đã bị giết trong trận chiến, và sau đó sang biên tập công trình của 14Edmund Husserl, người hướng dẫn luận văn của họ. Husserl đã viết những thư giới thiệu với mục đích rằng bà nên là một giáo sư triết học, một vai trò thích hợp cho phụ nữ.

Là người Do thái theo sự nuôi dạy, Stein đã cải đạo sang Công giáo. Sau khi Hitler lên nắm quyền và bà mất việc làm học thuật, bà nhận (thánh) chức như một nữ tu sĩ. Việc viết lại triết lý của bà về mặt kinh thánh có thể giúp chúng ta thấy cái là đặc biệt về thân thể chúng ta. Không giống bản dịch Kinh thánh tiếng Đức đương thời, bản dịch tiếng Đức đầu tiên của Martin Luther luôn luôn dùng Leib cho thân thể con người. Như một Leib, chúng ta không là thần thánh cũng chẳng là các đồ vật, nhưng chúng ta cũng chẳng là một sự pha loãng, cái gì đó ở giữa. Vũ trụ không cho chúng ta cũng chẳng từ chối chúng ta tự do. Nó đặt trước chúng ta những ràng buộc mà chúng ta có thể biết, và nó đưa ra cho chúng ta khả năng để thêm cái gì đó mới vào.

Bởi vì chúng ta là không hoàn hảo, chúng ta nhìn vũ trụ theo những cách thích hợp với các hạn chế của cơ thể con người. Đây là kiến thức vị trí mà Chúa không thể có. Không giống Chúa, chúng ta có thể chọn để nhìn bản thân mình và thế giới qua những người khác thuộc loài của chính chúng ta. Một câu kinh thánh quen thuộc làm cho quan điểm của Stein về kiến thức qua Leib của người khác: “Vì bây giờ chúng ta nhìn qua một kính, tối mờ; nhưng rồi mặt đối mặt: bây giờ tôi biết một phần; nhưng rồi tôi sẽ biết đầy đủ cứ như Chúa biết tôi vậy (For now we xem through a glass, darkly; but then face to face: now I know in part; but then shall I know even as also I am known)” (1 Corinthians 13:12).

Chúa không có Leib và biết về các hạn chế đi kèm: “Thần linh ta sẽ không luôn ở với người, vì người cũng chỉ là xác thịt (My spirit shall not always strive with man, for that he also is flesh)” (Genesis 6:3). Stein diễn đạt nó theo cách này: 15“Chúng ta phải thú nhận rằng nếu Chúa vui mừng về sự ăn năn của một người phạm tội, ngài không cảm thấy nhịp đập nhanh của trái tim.”

Trái tim chúng ta có đập nhanh vì sự háo hức hay gắng sức. Không giống Chúa, chúng ta có thể là tự do, theo nghĩa chính xác về việc biến các ràng buộc của vũ trụ của chúng ta thành các cơ hội. Chúa không biết nghịch cảnh nào, và nghịch cảnh có những tính hữu ích. 16Đối mặt với một quy luật tất yếu, mà Ngài không đối mặt, chúng ta mở rộng quy luật tự do mà Ngài không biết. Và như thế:

Các giới hạn của một vật thể là các giới hạn của nó.

Các năng lực của Chúa là các năng lực của Ngài.

Các giới hạn của một Leib là các năng lực của nó.

Jesus xứ Nazareth chắc chắn đã có một Leib. Ngài đã tha thứ các tội lỗi của một phụ nữ khóc lóc mà “đã bắt đầu rửa chân ngài bằng nước mắt của cô, và đã lau chúng bằng tóc của cô (began to wash his feet with her tears, and did wipe them with the hairs of her head)” (Luke 7:38). Khi Jesus nói rằng “tinh thần quả thực muốn lắm, nhưng thể xác thì yếu đuối (the spirit indeed is willing, but the flesh is weak)” (Matthew 26:41), chúng ta có thể liên kết. Ngài đã chịu cái đau thân thể và biết rằng ngài sẽ chết. Không giống Chúa Cha, Jesus không hay tranh cãi cũng chẳng báo thù, thay vào đó nhấn mạnh các luật đơn giản về sự yêu kính Chúa và yêu thương láng giềng của mình.

Trong khi Chúa nhanh chóng mất sự kiên nhẫn với các sáng tạo của ngài, vạch trần sự không hoàn hảo của chúng bằng việc giết chúng, còn Jesus thì kiên nhẫn nói bằng những câu đố và những lời bóng gió, buộc những người nghe của ngài nghĩ lại. Khi được hỏi chúng ta phải coi ai như hàng xóm của chúng ta, ngài kể một câu chuyện về một Leib đau khổ.

Trong ngụ ngôn về người Samaritan Tốt bụng, một người Do thái bị [tên cướp đánh bị thương và] “lột sạch quần áo” đang nằm “bị thương” cạnh đường. Những người Do thái khác đi ngang qua và không giúp ông ta. Một người không-Do thái, một người Samaritan, nhận ra người Do thái bị thương như một người đồng loại, “đã động lòng thương” (Luke 10:30–33), chăm sóc vết thương của ông ta, và tìm cho ông ta nơi trú ẩn. Ai là láng giềng? Người đã động lòng thương. Hãy đi và làm cũng vậy.

Trong câu chuyện, chính người Samaritan mới là người tự do. Ông tự chủ, vì ông đang hành động theo các giá trị của riêng ông và có khả năng thực hiện chúng trong thế giới. Con đường ông đi là con đường vật chất, nhưng không chỉ vậy. Chúng ta ở trong tự nhiên nhưng không hoàn toàn thuộc về nó. Thân thể chúng ta chịu quán tính, nhưng chúng ta có thể chọn để dừng lại bên đường. Trọng lực kéo thân thể chúng ta xuống, nhưng chúng ta có thể nâng ai đó khác lên khỏi hào sâu.

Điều bí ẩn

Đối với nhà triết học Pháp Simone Weil, việc thừa nhận sự tồn tại của người khác là 17một hành động yêu thương. Đối với bà, việc yêu thương láng giềng của ta như chính ta có nghĩa là sự hiểu biết 18“cùng sự kết hợp của tự nhiên và siêu nhiên” trong thân thể của người khác mà chúng ta trải nghiệm bản thân mình.

Kinh thánh cũng yêu cầu chúng ta yêu thương “người lạ sống giữa các ngươi” như chúng ta yêu chính mình (Leviticus 19:34). 19“Để yêu thương một người lạ như bản thân mình ngụ ý,” Weil nói, “rằng chúng ta yêu chính mình như những người lạ.” Giống như nhiều phát biểu có hệ thống của bà, cách trình bày này là một thách thức. Nó không chỉ là chúng ta làm điều đúng khi chúng ta yêu thương một người lạ. Chính là chúng ta nhìn bản thân mình như một người lạ có thể nhìn chúng ta, xem cái gì là lạ trong chúng ta, cái gì là cái chúng ta cần thấy. Khi chúng ta nhìn bản thân mình như những người khác nhìn chúng ta, chúng ta biết mình kỹ hơn. Điều này đang giải phóng (chúng ta). Chúng ta trải nghiệm các ràng buộc của thế giới bên ngoài và đẩy chống lại chúng, cùng với những người khác cũng làm thế. Chúng ta là tự do khi chúng ta biết theo hướng nào chúng ta muốn đẩy và làm sao chúng ta có thể làm vậy.

Weil cảm thấy các ràng buộc một cách sâu sắc. Bà bị chứng đau nửa đầu và sự vụng về thân thể. Năm học đó khi Stein có thể dạy, 1932–33, Weil sống ở nước Đức. Trong 1934–35 Weil làm việc như một thợ máy và một người đóng gói trong các nhà máy ở Pháp, để hiểu các công nhân; lao động làm bà kiệt sức. Bà đã tình nguyện chiến đấu trong Nội Chiến Tây ban nha trong 1936 nhưng làm mình bị thương ngay lập tức. Trong Chiến tranh Thế giới II, làm việc ở London cho cuộc Kháng chiến Pháp, bà yêu cầu được phái sang châu Âu bị chiếm đóng với một nhóm y tá. Chỉ huy tối cao của bà, Charles de Gaulle, nghĩ bà bị điên. Weil đã gặp khó khăn ăn uống và chết vì đau yếu trong chiến tranh.

Weil gọi thân thể chúng ta là 20“một nguồn bí ẩn mà chúng ta không thể loại bỏ.” Chúng ta ở đây như thân thể chúng ta hay chẳng chút nào; chúng ta là tự do như thân thể chúng ta hay chẳng chút nào. Trong các sổ ghi chép mà bà giữ trong chiến tranh, Weil viết về trọng lực và vẻ duyên dáng. Chúng ta là loại sinh vật đặc biệt, chịu các quy luật vật lý nhưng có khả năng hiểu chúng—và uốn chúng cho các mục đích không thể quy giản về chúng. Thân thể hướng con đường của nó giữa thế giới của các thứ như chúng là và thế giới của các thứ như chúng có thể là. “Điều bí ẩn” của Weil là sự hiện diện của thân thể trong cả hai thế giới, cái là và cái nên là. Để là tự chủ có nghĩa là có ý thức về cái nên là và làm sao để đến đó.

Sân vận động

Simone Weil thích thể thao. Bà nghĩ rằng sự phối hợp cơ thể cho phép 21“suy nghĩ bước vào sự tiếp xúc trực tiếp với các thứ.” Sự luyện tập tạo ra, bà nghĩ, “một bản chất thứ hai, tốt hơn bản chất thứ nhất.” Giống Weil, tôi là 22một lực sĩ tồi do tạo hóa, cho nên tôi phải luyện tập. Tôi có thể bơi nhờ một câu lạc bộ bơi địa phương và những người dạy và một bà mẹ kiên nhẫn đọc tiểu thuyết cạnh hồ bơi. Tôi đã chẳng bao giờ có thể làm tất cả những thứ trong lớp thể dục mà những đứa trẻ khác thấy dễ dàng, nên tôi tự rèn luyện. Mẹ tôi nhớ lại tôi nhảy dây một mình trong garage hàng giờ mỗi ngày. Tôi vượt trội trong bóng chày bởi vì nó là môn thể thao tôi có thể luyện một mình hay với bố tôi.

Như một đứa trẻ, tôi thích xem bóng chày trực tiếp. Là một điều thú vị đặc biệt để có mặt trong sân vận động, thân thể tôi với những thân thể khác. Tôi chơi bóng và như thế tôi có thể đồng nhất với các cầu thủ. Tôi thần tượng hóa đội Cincinnati Reds, Cỗ máy màu Đỏ Vĩ đại của các năm 1970. Tôi chơi các trận bóng chày tưởng tượng với một người bạn, đánh như tất cả các cầu thủ đội Reds, bắt chước tư thế của họ.

Loạt trận World 1975 giữa đội Reds và đội Boston Red Sox là loạt trận đầu tiên tôi nhớ. Trong ván một, cầu thủ giao bóng chiến thắng cho đội Red Sox là Luis Tiant người Phi-Cuba trẻ mãi không già. Trong ván này, mà tôi xem trên truyền hình, một trong những bình luận viên nói rằng Tiant đã lo về nuôi nấng con trai anh ở Hoa Kỳ. Tôi vừa mới sáu tuổi và không chắc từ định kiến có nghĩa là gì.

Một sân vận động (stadium) là một nơi giáo dục. Từ stadium đến từ Hy Lạp và liên quan đến một sự đo cố định. Một sân vận động là một địa điểm được xác định khách quan nơi những thứ chủ quan xảy ra mãnh liệt. Trong một nhóm lớn hơn nhóm chúng ta có thể đếm, chúng ta học những thứ mà muộn hơn chúng ta thấy khó để chất vấn. Tại Sân vận động Riverfront ở Cincinnati, tôi đã học quốc ca, “The Star-Spangled Banner.” Tôi không thể nhớ việc không biết lời bài hát.

Bị cannon Anh làm kinh sợ trong chiến tranh 1812, Francis Scott Key hỏi:

Ồ hãy nói the star-spangled banner (lá cờ lấp lánh-sao đó) vẫn phấp phới trên tổ quốc và quê hương của những người tự do và dũng cảm?

23Đội Reds đã đưa các cầu thủ da trắng, da Đen, và Mỹ Latin tài năng lại với nhau. Tôi không nghĩ tôi có bao giờ tự hỏi mình có nghĩa là gì cho các cầu thủ Mỹ gốc Phi ủng hộ một bài hát về tự do được viết khi tổ tiên họ bị bắt làm nô lệ. Tôi có nhớ việc tự hỏi có nghĩa là gì cho các cầu thủ không-Mỹ để ủng hộ quốc ca của nước khác.

Khi xem xét Leib của những người khác (như Stein diễn đạt), hay nhìn những người lạ giữa chúng ta (như Weil nói), chúng ta hòa hợp bản thân mình một cách khác đi. Khi nghĩ về hành động thân thể đó của sự đứng nghiêm từ những góc nhìn khác, chúng ta nghe lời hát của quốc ca khác đi. Những câu hỏi nó nêu ra trở nên ít hùng biện hơn: Lá cờ Mỹ có phấp phới hôm nay? Hầu như chắc chắn nó phấp phới. Phần này là phần dễ. Nhưng nó có phấp phới trên “mảnh đất của những người tự do” không?

Là dễ để hình dung rằng tự do sẽ được một bài hát, các vòi phun trên một sân vận động, tổ quốc, các tổ tiên, các Cha lập Quốc, chủ nghĩa tư bản mang lại cho chúng ta. Nhưng quan niệm rằng chúng ta được trao tự do chính vì một “quê hương của những người dũng cảm” ư? Chẳng phải can đảm hơn để hỏi những người Mỹ đã làm, đã có thể làm, nên làm những gì ư?

Chúng ta nói rằng một biểu tượng bênh vực cái gì đó, nhưng quá thường xuyên một biểu tượng chỉ thay thế cho cái gì đó. Lá cờ Mỹ được cho là để bênh vực tự do, nhưng nó có thể rất dễ dàng thay thế cho tự do. Trong việc hát quốc ca, chúng ta coi các giá trị của nó là vĩnh viễn, hay cứ như chúng được bài hát (biểu) diễn. Nhưng lời tán dương không phải là sự thực hành.

Không theo chỉ số có ý nghĩa nào những người Mỹ ngày nay là giữa những người tự do nhất trên thế giới. Một tổ chức Mỹ, Freedom House, đo tự do bằng các tiêu chuẩn những người Mỹ ưa thích: các quyền tự do dân sự và chính trị. Hết năm này đến năm khác khoảng 50 nước làm tốt hơn chúng ta về các số đo này.

Canada láng giềng phía bắc của chúng ta đứng trên chúng ta nhiều. Trong một xếp hạng gần đây, Hoa Kỳ chia sẻ vị trí với Nam Hàn (một nước những người Mỹ đã chiến đấu vì), Rumania (một nước hậu cộng sản mà ít người Mỹ xem như một nước ngang hàng), và Panama (một nước mà Hoa Kỳ đã tạo ra nhằm để khiến một kênh đào được xây dựng).

Sự thật về “tổ quốc của những người tự do” vẫn nên tỉnh rượu hơn. Hầu hết các nước với xếp hạng cao hơn chúng ta về các quyền tự do dân sự và chính trị vượt chúng ta với các sự chênh lệch lớn hơn về các số đo mà các công dân của chúng coi là những yếu tố của tự do, như sự tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe. Nếu các số đo như vậy được bao gồm, chúng ta sẽ rớt xuống còn thêm nữa trên thang đo.

Những nước nơi người dân có khuynh hướng nghĩ về tự do như tự do tới (freedom to) đang làm tốt hơn theo các số đo của chính chúng ta, mà có khuynh hướng tập trung vào tự do khỏi (freedom from). Điều đó sẽ khiến bạn phải ngừng lại để suy nghĩ. Các hệ thống chính trị được định hướng tới tự do tới đang làm tốt hơn chúng ta dựa vào tự do khỏi. Điều này gợi ý rằng không có mâu thuẫn nào giữa hai thứ. Quả thực, nó gợi ý rằng tự do tới đến đầu tiên. Đó không phải là cái chúng ta thường nghĩ hay muốn nghĩ. Nó giúp để nhìn vào những người khác nếu chúng ta muốn hiểu bản thân chúng ta.

Chúng ta có khuynh hướng để nghĩ về tự do chỉ như tự do khỏi, như tự do phủ định. Nhưng việc hiểu về tự do như một sự trốn thoát hay một sự lẩn tránh không nói cho chúng ta tự do là gì cũng chẳng về nó được sinh ra thế nào. Tự do tới, tự do khẳng định, gồm việc suy nghĩ chúng ta muốn trở thành ai. Chúng ta coi trọng những gì? Chúng ta thực hiện các giá trị của mình như thế nào trong đời? Nếu chúng ta không nghĩ về tự do như khẳng định, chúng ta thậm chí sẽ không có được tự do theo nghĩa phủ định, vì chúng ta sẽ không có khả năng nói cái gì thực ra là một rào cản, làm thế nào các rào cản được quản lý một cách khẳng định và trở thành các công cụ, và các công cụ mở rộng tự do của chúng ta thế nào.

Tự do khỏi là một cái bẫy quan niệm. Nó cũng là một cái bẫy chính trị, vì nó gồm sự tự-lừa dối, không chứa chương trình nào cho sự thực hiện chính nó, và mở ra các cơ hội cho các bạo chúa. Cả một triết học và một nền chính trị về tự do phải bắt đầu với tự do tới.

Tự do là khẳng định. Nó là về việc giữ các đức hạnh trong tâm trí và có sức mạnh nào đó thể thực hiện chúng. Trong chừng mực một thứ như vậy có thể được đo, những người Mỹ có thể làm tốt hơn. Khi tôi viết, về sự an lạc tự khai (self-reported well-being), 24những người Mỹ đứng thứ mười lăm trên thế giới. Trong khoảng 50 nước, người dân sống lâu hơn (dân Mỹ).

Cái chết

Không lâu sau khi tôi đạt tuổi năm mươi, đã có vẻ rằng tôi suýt chết. Khi tôi gần cái chết, tôi 25đã nghĩ về bóng chày.

Một trong những ký ức rõ nhất từ tuổi niên thiếu là cú home run đầu tiên tôi đánh, ở tuổi mười ba, trong tháng Năm 1983. Đồng phục của đội có màu xanh lơ và xanh đậm, dòng chữ trắng quảng cáo một nha sĩ chỉnh răng địa phương. Đội đầy tài năng ở hầu như mọi vị trí. Hôm đó chúng tôi chơi trên một trong vài sân địa phương có một hàng rào. Cú ném bóng cho tôi là một quả bóng nhanh hướng xuống và trên nửa bên trong của gôn nhà (home plate), nhưng quá gần vị trí trung tâm. Tôi bước lên, quay vào đúng quả bóng, và đánh. Cầu thủ trái ngoài (left fielder) quay lại, bước một bước, và theo dõi nó vượt hàng rào. Quả bóng nảy lên trên sân nhựa của bãi đậu xe và biến mất trong rừng. Đồng đội của tôi reo hò.

Cái tôi nhớ là cách cây gậy được cảm thấy trong tay tôi khi tôi đánh quả bóng. Tôi biết rằng tôi đánh trúng nó. Tôi có cảm giác đó về sự đúng đắn trên bàn tay tôi, trong cổ tay tôi, lên cánh tay tôi, và vào tận lồng ngực lép của tôi. Tôi đã là một thiếu niên bị xa lánh có thể lập trình một máy tính; sớm hơn năm đó, ở trường, tôi tạo ra một trò chơi được gọi là “Lifegame” và đã phấn khích và sau đó hơi bị lo bởi nó có thể tiếp quản sự chú ý của người chơi thế nào. Tôi đã bị ám ảnh kể từ thời niên thiếu với khả năng rằng mọi thứ có thể là một sự mô phỏng và rằng vì thế tôi không thực sự còn sống.

Nhưng khi đánh vào quả bóng, tôi biết rằng tôi còn sống.

Trong những thời khắc hiểm nguy, cơ thể tôi gợi lại ký ức đó, như đã xảy ra trong một bệnh nặng vào cuối 2019. Tháng Mười Hai đó một sự nhiễm trùng ruột thừa của tôi lan sang gan và rồi sang máu của tôi, gây ra tình trạng thường gây-tử vong được biết đến như nhiễm khuẩn máu. Khi hệ thống miễn dịch của tôi cố gắng kháng cự, nó tấn công thần kinh của chính tôi. Tay tôi cảm thấy nóng và ngứa ran dữ dội, cứ như tôi đang đeo găng làm bằng len thép được nung nóng.

Vào ngày kết thúc năm, trong một phòng cấp cứu ở New Haven, tôi có thể cảm thấy thân thể tôi bồng bềnh giữa Leib và Körper. Khi tôi nhắm mắt lại, tôi thấy các thứ không có ở đó. Sự nóng bỏng tôi cảm thấy đã không liên quan gì đến thế giới bên ngoài. Tôi bị kiệt sức và thở khó khăn, nhưng không bởi vì bất cứ cố gắng nào tôi đã làm.

Một phần lỗi là của tôi. Tôi được nuôi dạy để nghĩ về thân thể chỉ như một ràng buộc bên ngoài nữa, phải được kháng cự. Cái đau phải được bỏ qua. Nếu tôi gây thương tật bản thân mình trong một trò chơi, tôi chẳng bao giờ chạm vào chỗ đau. Và như thế khi ruột thừa của tôi vỡ vào ngày 3 tháng Mười Hai trong một cuộc viếng thăn nước Đức, thôi thúc đầu tiên của tôi là không để ý. Tôi ở trong nhà nước phúc lợi Đức để dự một cuộc họp hội đồng và thảo luận một bệnh viện, nhưng bằng cách nào đó chẳng gì trong số ấy có vẻ liên quan trực tiếp đến tôi.

Tôi cũng 26đã có một bài giảng ở Munich tối đó về câu hỏi “Hoa Kỳ Có thể Trở thành một Nước Tự do?” Tôi đã giảng, che đậy sự khó chịu của mình bằng việc kể các chuyện cười, và cơn đau dường như giải phóng tôi khỏi những sự ức chế. Sau bài giảng, tôi thấy không rất đói và sớm rời bữa tối để về khách sạn. Tôi lên giường, nhưng sau đó nghĩ về gia đình tôi ở xa đã khiến tôi gọi một taxi và đến một bệnh viện. Tôi tự hào về mình vì đã làm việc đó. Một khi ở đó, tuy nhiên, tôi đã không than phiền đủ. Các bác sĩ đã cho tôi về với chẩn đoán sai và không kê kháng sinh. Tôi đi họp hội đồng.

Nếu tự do chỉ là phủ định, một sự vắng mặt của các rào cản, thì thân thể đi vào câu chuyện một cách phủ định, như chỉ một ràng buộc nữa. Thái độ đáng tiếc của chính tôi tới thân thể mình là nhất quán với một sai lầm Mỹ rộng hơn.

Từ việc coi thân thể như một vật thể, thì chỉ còn một bước ngắn nữa để coi nó như một hàng hóa. Có vẻ bình thường ở Hoa Kỳ để xem thân thể như một nguồn lợi nhuận. Và đó là vấn đề tiếp của tôi.

Tôi bay về nhà từ nước Đức với một ruột thừa bị vỡ và viêm màng bụng, rồi tìm được cách (theo thúc giục của vợ tôi) để đi gặp bác sĩ lần thứ hai. Sau khi được xem xét vào ngày 15-12-2019, tôi được chuyển đến một bệnh viện New Haven. Lần này ruột thừa vỡ được chẩn đoán, như một vết thương trên gan tôi. Nhưng trong sự vội vàng của họ để tống tôi ra khỏi cửa sau khi cắt bỏ ruột thừa, các bác sĩ đã quên gan. Tôi rời khỏi với một đơn kê không đủ cho kháng sinh và không có giới thiệu nào cho việc chữa áp xe gan, mà về nó tôi chẳng biết gì lúc đó. (Tôi biết về sự phát hiện sưng gan rất lâu sau sự thực, do đọc hồ sơ y tế riêng của mình.) Sự nhiễm trùng sau đó lan vào máu tôi.

Chủng tộc

Một vấn đề là tôi; vấn đề khác là y tế thương mại; một vấn đề thứ ba là chủng tộc. Trong phòng cấp cứu ở New Haven vào ngày 29-12, tôi đã cần một người Samaritan Tốt bụng, tôi cần ai đó để nhận ra tôi qua thân thể tôi, và tôi đã có một người như vậy. Sự hiện diện của cô, thật buồn để nói, có thể đã làm cho tình hình tồi tệ hơn.

Bạn bác sĩ gặp tôi ở phòng cấp cứu đã không gặp khó khăn gì để nhìn thấy Leib của tôi. Chúng tôi đã cùng chạy một cuộc đua trong một cơn bão. Cơn run co giật và sốt cao của tôi đã có nghĩa gì đó với cô. Cô biết rằng đã khó cho tôi để truyền đạt nỗi đau, nhưng cô biết rằng thân thể tôi cần nhiều sự chú ý hơn nó đã nhận được. Cô ngồi suốt đêm trên một chiếc ghế cạnh tôi.

Tuy vậy, khi bạn tôi lên tiếng thay tôi, cô bị né tránh. Các đồng nghiệp của cô nhìn thấy màu da cô hơn là lắng nghe những lời của cô. Đã là một đêm tháng Mười hai lạnh, và cô ấy mặc một chiếc áo lông cừu máu tím kéo khóa lên tận cổ cô. Tôi chỉ liên tục nghĩ rằng nếu cô kéo thẻ bệnh viện của cô từ đằng sau áo len đó, các đồng nghiệp của cô đã có thể nhìn cô như một bác sĩ hơn là một người da Đen. Y tá trực, và bác sĩ điều trị đã chống lại bạn tôi. Nếu bạn tôi nói tôi rất yếu, họ có khuynh hướng nghĩ ngược lại. Họ coi thân thể tôi ít nghiêm túc hơn họ nên coi. Tôi suýt nữa mất mạng—hay, như người ta nói ở Đức, Leib und Leben của tôi.

Sau nhiều lỗi hơn, 28cuối cùng tôi được chẩn đoán bị nhiễm trùng và được điều trị; sau vài tuần nữa và nhiều sự cẩu thả hơn nhiều, nhiễm trùng gan cũng giảm bớt. Một khi tôi có thể đi lại xung quanh, tôi đã đi. Như trong hầu hết bệnh viện Mỹ, thực sự không có nơi nào để đi. Nên tôi đã đi vòng hành lang: đầu tiên một vòng, cuối cùng mười, hai mươi vòng.

Tôi cần chuyển động. Một hôm một y tá chạm tay tôi khi tôi đi các vòng của mình và thì thầm với tôi rằng tôi đang làm việc đúng, cứ như sự theo đuổi hạnh phúc là một bí mật chúng tôi chia sẻ.

Hạnh phúc

29Sau khi suýt chết trong bệnh viện Mỹ đó, lang thang trên hành lang của nó tôi suy nghĩ một chút đến “quyền được sống.” Trong Tuyên ngôn Độc lập, quyền được sống của Thomas Jefferson được tiếp theo bởi một quyền tự do và một quyền để mưu cầu hạnh phúc. Tự do ở giữa.

Sự sống đến đầu tiên, mà có ý nghĩa. Chúng ta chỉ có thể tự do như một Leib. Không có Leib, không có tự do. Có thể có một Körper mà không có tôi, nhưng không Leib nào mà không có tôi, như Stein nói. Tự do phủ định biến chúng ta thành một Körper, một đối tượng trong nhiều đối tượng, được cho là tự do khi các đối tượng khác không cản đường đi. Điều đó sẽ không thực hiện được. Dù tự do của chúng ta là gì, nó phải bắt đầu từ chúng ta là loại sinh vật nào, liên quan đến chúng ta khác thế nào với thế giới ở xa, và gợi ý chúng ta tiếp xúc với thế giới đó và thay đổi nó ra sao.

Tự do và cuộc sống được kết nối, dù có lẽ không theo cách chúng ta thường được bảo. Không phải là chúng ta phải đổi một thứ lấy thứ khác, đổi tự do lấy sự an toàn. Giả như tôi đã tự do hơn khi tôi đau ốm, tôi cũng sẽ an toàn hơn. Sự thiếu tự do đe dọa cuộc sống, hệt như các đe dọa với cuộc sống làm xói mòn tự do.

Trong danh sách của Jefferson, sự mưu cầu hạnh thúc đứng thứ ba. Việc suy ngẫm về hạnh phúc dạy chúng ta những thứ quan trọng. Nó là khác nhau cho mỗi chúng ta. Điều này có thể gây khó chịu. Nhưng sự đa dạng không thể làm xiêu lòng của các ý tưởng về cái tốt chứng tỏ khả năng của tự do.

Jefferson nghĩ hạnh phúc đòi hỏi đức hạnh. Người đương thời của ông Marquis de Sade đưa ra lập luận không thể quên được cho thói xấu—cuộc sống hạnh phúc của Jefferson đã không có mà không có thói xấu.

Schopenhauer nói hạnh phúc được cho trước, Balzac nói nó được tạo ra.

Bentham nói hạnh phúc có thể được luật hóa, Dostoevsky nói luật hất cẳng bản thân hạnh phúc.

Lafargue nói sự biếng nhác mang lại hạnh phúc, Fourier nói lao động.

Burke nói cái đẹp hứa hẹn hạnh phúc, Kawabata và Murakami (như Ovid) nói rằng nó mang lại nỗi thống khổ.

Leopold Staff nói chúng ta hạnh phúc khi chúng ta cho nhiều nhất, Irène Némirovsky nói khi chúng ta cho ít nhất.

Lammenais nói chúng ta hạnh phúc khi chúng ta kỳ vọng nhiều, Goethe nói khi chúng ta kỳ vọng ít.

Epictetus nói rằng hạnh phúc quay trở lại từ nơi chúng ta hướng sự yêu thương của chúng ta tới, Buddha (Bụt) dạy chúng ta đừng mong đợi sự báo ơn như vậy.

Mickiewicz nói hạnh phúc là không thể giữa sự đau khổ, Tertullian nói rằng đây là cơ hội của chúng ta.

Żeromski nói người trẻ hạnh phúc, Cicero nói người già. (Theo dữ liệu thăm dò, cả hai đều đúng, và chính những người tuổi trung niên là bất hạnh nhất.)

Jean-Paul Sartre định nghĩa địa ngục như những người khác, người đương thời của ông, 30Simone Weil định nghĩa địa ngục như sự cô đơn.

Sự bất đồng không thể giải quyết được này về mưu cầu hạnh phúc ra sao xác nhận một 31quyền đối với tự do. Hạnh phúc liên quan đến cái chúng ta quý trọng. Các thứ chúng ta quý trọng là thực, nhưng chẳng ai trong chúng ta quý trọng cùng thứ theo cùng cách như bất cứ ai đó khác, cũng chẳng có một cách đúng duy nhất để xếp thứ tự tất cả các đức hạnh. Không có một thứ tốt nào mà tất cả những thứ khác chỉ là phần hay ví dụ. Nếu giả như có một thứ tốt phi thường như vậy, thì vũ trụ của chúng ta sẽ khác, và tự do sẽ là không thể. Giả như con người đồng ý về các nguồn của hạnh phúc, chúng ta sẽ là các sinh vật đơn giản hơn nhiều, lệ thuộc vào sự lập trình, không có khả năng tự do.

Chúng ta tìm thấy sự thống nhất về một điểm duy nhất về hạnh phúc giữa các nhà tư tưởng trong mọi thời đại trong mọi nền văn hóa: sức khỏe tạo thuận lợi cho nó. Khi chúng ta khỏe, mỗi chúng ta muốn các thứ khác nhau. Khi chúng ta ốm yếu, tất cả chúng ta đều muốn được khỏe mạnh. Leib đến trước; chỉ với Leib khỏe mạnh chúng ta mới có thể chuyển sang các mong muốn và yêu sách và giá trị khác. Bệnh tật không chỉ cản trở sự mưu cầu hạnh phúc của chúng ta, nó hủy hoại cuộc sống của chúng ta và hạn chế tự do của chúng ta.

Sức khỏe

Tự do là về thân thể. Các nhà Lập Quốc biết điều này, nhưng họ biết ít về cơ thể con người. John Locke, một nhà triết học Anh quan trọng đối với tư tưởng hiến pháp Mỹ, coi sức khỏe như một yếu tố của chính phủ tốt. Thomas Jefferson nghĩ rằng sau đạo đức, sức khỏe là thứ quan trọng nhất trong đời. 32Các nhà Lập Quốc than phiền về những bệnh dịch gây tai họa cho nền cộng hòa non trẻ của họ, nhưng họ đã không có phương cách chữa trị. Chúng ta có. George Washington tiêm chủng binh lính của ông theo cách tốt nhất ông biết. Chúng ta biết giỏi hơn. Ông đã chết sau khi được các bác sĩ trích máu. Chúng ta sẽ không làm điều như vậy.

Các nhà Lập Quốc có những quan điểm đa dạng về chế độ nô lệ, nhưng ngay cả vài trong số họ chống lại sự lan rộng của nó (như Jefferson) bản thân họ đã sở hữu các nô lệ. Nói chung, chúng ta có thể nói rằng các elite Mỹ ban đầu thường đã không xem thân thể của một người Phi như một Leib. Họ thường tin rằng những người từ châu Phi không là con người đầy đủ, rằng thân thể người Phi là khác với thân thể của riêng họ. Niềm tin này vẫn còn lại với chúng ta, và nó làm khó hơn cho tất cả chúng ta để trở nên khỏe mạnh.

Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đã là rõ với tôi trong phòng cấp cứu bởi vì tôi đang chết. Những người da trắng ở Hoa Kỳ biết về chủng tộc, nhưng họ kìm nén kiến thức đó trong một quy ước hàng ngày về sự làm ra vẻ không biết. Tôi đã không biết về chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc từ sự cố trong bệnh viện; khi tôi ở cửa tử thần, những gì tôi đã biết rồi trào lên để làm rõ tình hình, bởi vì nó liên quan đến sự sống sót của chính tôi. Chỉ vào lúc cùng cực tôi mới cần đến kiến thức thông thường. Những người Mỹ da Đen không thể phủ nhận những gì họ biết, bởi vì cần nó để sống qua ngày. Khi những người da trắng phủ nhận những gì chúng ta biết, chúng ta biến những tình huống, mà chúng ta đều có thể làm tốt hơn, thành những tình huống chúng ta đều làm tồi hơn. Trong khi các bác sĩ phớt lờ bạn tôi, tôi đang mất đi một sự thật mà tôi đã không sống qua.

Tình trạng nô lệ được hình dung như tự do phủ định: một quyền của chủ nô để sở hữu tài sản, mà chính phủ không cần can thiệp vào. Chính truyền thống này khiến một số người trong chúng ta nghĩ rằng 33hành động chính phủ phải hoạt động chống lại những người không-da Đen nếu nó hoạt động cho những người da Đen. Tự do phủ định mời gọi những người da trắng để nghĩ về bản thân họ như tự-túc, 34giống các chủ sở hữu đồn điền, không cần sự trợ giúp chính phủ. Khi đó nhiều người da trắng (và những người không-da Đen khác) từ chối một quyền chăm sóc sức khỏe vì nó có nghĩa sự chia sẻ quyền đó với những người da Đen. Sự không nhận ra Leib của người khác này dẫn đến sự tự-dối mình và unfreedom (không-tự do). Rốt cuộc, Leib riêng của người ta cũng bị bỏ qua và bị lạm dụng, hay thậm chí bị giết. Chúng ta chết sớm hơn khi chúng ta sống dối trá.

Tôi đã có ba vấn đề khi tôi bị bệnh nặng: thái độ riêng của tôi đối với thân thể tôi; sự thương mại hóa của chăm sóc y tế; và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Các vấn đề này rốt cuộc là một vấn đề. Nếu chúng ta không nhận ra tình trạng khó khăn của bệnh tật và cái chết, nếu chúng ta không nhận ra tất cả các thân thể, thì chúng ta không nhận ra tình trạng khó khăn của riêng mình khi chúng ta đau ốm và nó có nghĩa gì cho tự do. Nếu chúng ta hiểu tự do chỉ như tự do khỏi, chúng ta không nghĩ đủ rộng; chúng ta nghĩ chỉ đến mình, hay về bản thân mình đối lại thế giới. Khi chúng ta không thấy thân thể của những người khác, chúng ta thực sự không hiểu thân thể của riêng mình, và cuối cùng chúng ta phản bội tự do của chính chúng ta và cuộc sống của riêng chúng ta.

Liên quan đến sức khỏe, ý tưởng tự do phủ định là một di tích nguy hiểm của quá khứ, của một thời khi thứ nhiều nhất có thể được hy vọng là tài sản, nô lệ, và phụ nữ vây quanh một người đàn ông đau yếu. Bây giờ chúng ta có thể làm tốt hơn nhiều, và cho tất cả mọi người. Một cuộc cách mạng về y học và vệ sinh bắt đầu sau Nội Chiến. Các bác sĩ—và đi theo họ, các chính phủ khắp thế giới—đã thực hiện các chính sách về vệ sinh, vaccin, và chăm sóc phòng ngừa. Các chương trình này đã tạo ra không chỉ thực tế mà tạo ra sự kỳ vọng về một cuộc sống lâu hơn nhiều.

Những tiến bộ về y tế đã làm cho một sự tăng tự do lên hết sức là có thể. Những người tự tin hơn về sức khỏe sẽ có những hoài bão lớn hơn cho cuộc sống. Những người kỳ vọng sống cuộc đời ngắn chắc có khả năng hơn để liều mình trong bạo lực mà, đến lượt, cắt ngắn cuộc sống của những người khác.

Chúng ta có thể đưa tư tưởng của Jefferson đến kết luận logic của nó và kết hợp ba quyền cơ bản của ông trong một quyền thứ tư: quyền đối với chăm sóc sức khỏe. Nhưng chúng ta sẽ chỉ đạt điều đó nếu chúng ta giải quyết được cái gì đó mà các nhà Lập Quốc đã không giải quyết được: việc nhận ra các thân thể người khác như thân thể người ngang nhau.

Bắt bóng

Vì bệnh tật và không hoạt động, trong năm 2020 tôi lóng ngóng. Chân tay tôi theo không chính xác các chỉ dẫn của tôi, và tôi cảm nhận những vật thể không thực sự ở đó. Về nhà từ bệnh viện mùa xuân đó, tôi tìm những việc làm đơn giản tôi có thể làm với thân thể tôi. Trong khi quét sàn garage bằng tay phải của mình, một ống thông cho kháng sinh trong tay trái của mình, tôi tình cờ thấy một quả bóng Wiffle và một gậy đánh bóng bằng chất dẻo màu đỏ. Con gái tôi cầm lấy cây gậy, và tôi đặt cây chổi xuống và tung quả bóng cho nó bằng tay lành của tôi. Nó đánh quả bóng trong lần thử đầu tiên.

Con gái tôi sắp lên tám. Nó thậm chí không biết môn thể thao nào được gợi lên. Việc dạy nó để chơi bắt bóng khi tôi hồi phục, tôi đã có một cảm giác kỳ quặc. Bởi vì cơ thể tôi đã quên phần lớn những gì một thời nó đã từng biết, tôi biết một cách kỳ lạ tất cả các cử động tôi làm để tung và nhận bóng. Tôi có ý thức hơn về không gian và thời gian, hay đúng hơn về cơ thể tôi vào một thời đã làm chủ chúng ra sao trong sự tự-điều chỉnh cơ thần kinh khiêm tốn của nó. Khi tôi trở nên khỏe mạnh, tôi dần dần quay lại một trạng thái mà tôi đã đạt được lâu trước đó bằng luyện tập. Tôi tự do vì tôi đã không còn phải nghĩ về những gì tôi đang làm. 35Simone Weil gọi điều này là thói quen.

Sự rèn luyện không tạo ra sự hoàn hảo. Thật may, chẳng gì làm cho chúng ta hoàn hảo. Nhưng sự rèn luyện có dẫn chúng ta đến thói quen và đến vẻ uyển chuyển, một phẩm chất mặt khác vắng mặt từ vũ trụ. Vào tháng Sáu 2020, bốn tháng sau khi tôi rời bệnh viện, hai tháng sau khi ống rời khỏi tay tôi, con gái tôi đã có thể chơi bắt bóng, và tôi cũng vậy. Vòng cung được cảm nhận một nửa của những cú ném của nó thăng hoa thành sự chắc chắn được nhận thức-một nửa của tôi về khi nào và ở đâu quả bóng sẽ đi ngang mặt phẳng của thân thể tôi, và thành chuyển động có ý thức-một nửa mà đưa nó chính xác vào găng tay của tôi. Trong sự thiếu nhận thức về tôi đang làm những gì, tôi trở nên tự do.