Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 1)

 Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Mục lục

 

Mục lục. v

Lời giới thiệu.. xii

Lời nói đầu.. xvii

Dẫn nhập.. 1

Lễ kỷ niệm... 1

Các chuyến bay. 3

Các holocaust 5

Những chiếc chuông. 7

Sự cân bằng. 9

Chủ nghĩa ngoại lệ. 13

Chế độ đầu sỏ.. 14

Ở lại 17

Sự tự chủ.. 21

Cuộc sống. 23

Láng giềng. 25

Điều bí ẩn.. 27

Sân vận động. 28

Cái chết 31

Chủng tộc. 33

Hạnh phúc. 34

Sức khỏe. 36

Bắt bóng. 38

Giao bóng. 39

Hơi thở.. 41

Sự nhận ra. 43

Sự công nhận.. 45

Nhìn thấy. 46

Bơi 49

Khế ước. 51

Sự tiếp xúc. 53

Khoản vay. 55

Mở ra. 58

Sự không thể dự đoán được. 63

Các trạng thái không chắc xảy ra. 63

Các tuyên bố và Sự thích nghi 65

Entropy và Trọng lực. 67

Các Máy của Chúng ta. 69

Các nhà Du hành vũ trụ của Chúng ta. 70

Các quyền con người 72

Những người Nhựa dẻo (Plastic People). 73

Các nhà Bất đồng chính kiến Bình thường. 75

Sự Giải phóng. 78

Gậy Thủy tinh.. 79

Đầy tớ.. 82

Tiểu sử.. 84

Maidan.. 86

Sự Giam hãm... 87

Celly. 89

Thời gian bị Mất 91

Thời gian được Lấy lại 93

Những Rào cản Dã man.. 95

Duy lý hóa các Zombie (Thây ma). 96

Các vụ Não tặc. 99

Sự Cô lập Thực nghiệm... 100

Sự Hỗn loạn Lạnh lẽo.. 103

Bị dắt mũi không có Người dắt 105

Những chiếc Lồng Tự-Xây. 106

Truyền thống Cấp tiến.. 109

Sự di động. 112

Lời của Wolf 112

Vòng Cung cuộc Đời 113

Bạn Có thể Tưởng tượng?. 116

Những cuộc Đi Tự do.. 117

Ba Chiều.. 118

Chấn thương Công cộng. 120

Tương lai của Stalin.. 122

Giữa các Đế chế. 124

Biên cương Đóng. 126

Sự di động Xã hội 128

Giai cấp Trung lưu.. 130

Sự Tống giam Hàng loạt 132

Zone Lớn.. 134

Không-tự do Chủng tộc. 136

Chính trị làm Bất động. 137

Khách Nga. 139

Sự Trì trệ Hội tụ.. 143

Đường bộ và Đường sắt 146

Chủ nghĩa Dân túy khoái ác. 147

Những sự Sai lệch Thời gian.. 148

1 Phần trăm của 1 Phần trăm... 150

Sự Giàu có Không thể Tả xiết 152

Chính trị của tính bất diệt 154

Chiến tranh Sinh thái 157

Chính trị có Trách nhiệm... 160

Tính xác thực (Factuality). 162

Sống thật 162

Các Mặt Trời 163

Nhiệt hạch (Sự Nung chảy-Fusion). 166

Sống Hài hòa. 168

Những ngôi Sao Nhỏ.. 170

Vòng xoáy Tuyệt chủng. 172

Sự thô ráp Đầy ý nghĩa. 175

Đường lối Đảng. 176

Các Nạn nhân Hoàn hảo.. 178

Sự kết liễu của nước Mỹ. 179

Việc bàu những kẻ Độc tài 182

Các Phóng viên Mất tích.. 183

Chân trời của Sự thật 186

Đài Phun nước. 189

Những lời Nói dối Hùng mạnh.. 191

Những Lệnh Sát hại 192

Những người Phát biểu Tự do (Free Speakers). 193

Đoàn kết. 195

Những người Chính đáng. 195

Việc Chứng thực. 196

Các Quyền dân sự.. 198

Xã hội dân sự.. 199

Chính trị Thực tiễn.. 201

Những người Bong bóng. 203

Tỷ lệ tử vong. 204

Sao Kim... 206

Trống rỗng. 207

Các Chủ thể (Subjects). 209

Các Khách thể (Objects). 211

Bàn tay. 212

Hiệu quả. 214

Không-tự do Libertarian.. 215

Đạo đức giả Đầu sỏ tài phiệt 218

Chính trị Cyborg. 219

Giáo phái Tử thần.. 221

Các Notalitarian.. 222

Hồ và Rừng. 224

Kết luận.. 227

Thức tỉnh.. 227

Hình học. 230

Các cá nhân.. 232

Những sự Chia rẽ. 234

Những người Dân chủ.. 237

Các Cử tri 238

Những người Cộng hòa. 242

Các Sử gia. 244

Những đứa Trẻ. 247

Những người Tự chủ.. 249

Cha Mẹ. 250

Những người Di chuyển (Movers). 251

Những người Lao động. 252

Các Tù nhân.. 253

Phân phối 256

Tâm trí 259

Những người Nghe. 264

Tin tức. 266

Rings (các Vòng vân, Ngân vang). 268

Sự thấu hiểu.. 270

Sự Bao gồm... 272

Cơ hội 275

Phụ lục. 278

Tự do Khẳng định và Phủ định.. 278

Lời cảm ơn.. 279

Ghi chú.. 285

Lời nói đầu.. 285

Dẫn nhập: Tự do.. 286

Sự tự chủ.. 290

Sự không thể dự đoán được. 298

Sự di động. 311

Tính xác thực (Factuality). 323

Đoàn kết 327

Kết luận: Chính phủ.. 331

Index. 338

Về Tác giả. 344

 

Tặng những người muốn là tự do

 

Lời giới thiệu

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ 71 của tủ sách SOS2,* cuốn Về Tự do (On Freedom) của Timothy Snyder, do nhà xuất bản Crown, New York xuất bản ngày 17-9- 2024, và đã mau chóng trở thành cuốn best seller của New York Times như cuốn On Tyranny 2017 của ông. Đây là cuốn thứ ba bằng tiếng Việt của Snyder trong tủ sách SOS2. Cuốn này tổng kết những suy ngẫm của Snyder về tự do được trình bày trong nhiều tác phẩm trước của ông.

Khái niệm tự do được tranh cãi từ thời cổ đến nay. Khái niện tự do phủ định (negative freedom hay liberty) và tự do khẳng định (positive liberty) được Isaih Berlin đưa ra 1958. Theo Berlin khái niệm tự do trước ông về cơ bản là tự do phủ định, tự do khỏi, tức là phải dỡ bỏ những sự can thiệp, các rào cản, các chướng ngại (từ bên ngoài, từ cộng đồng,…,nhất là từ Nhà nước) để con người có được tự do. Cách hiểu này đã trở nên chi phối ở Mỹ, và chủ yếu các chướng ngại, các rào cản là do nhà nước tạo ra, cho nên phải thu hẹp nhà nước càng nhiều càng tốt (Bộ Hiệu Quả do Elon Musk điều hành trong chính quyền Trump 2.0 là tiêu biểu cho các nỗ lực này). Cách hiểu này về tự do chiếm ưu thế, phổ biến ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Đã có nhiều tranh cãi về hai khái niệm tự do này. Nhiều người đã chỉ ra những cách hiểu tự do kinh điển đã không hoàn toàn là tự do phủ định.

Snyder hiểu tự do là năng lực của con người để trở thành người tự do; là năng lực của con người để chọn, kết hợp các giá trị của một người để thực hiện một vài giá trị được chọn đó trong đời thường. Như thế theo Snyder, tự do là tự do khẳng định, là giá trị của các giá trị và kịch liệt phê phán cách hiểu thịnh hành của tự do như tự do phủ định ở Mỹ hiện nay.

Snyder coi tự do phủ định chỉ là điều kiện cần cho tự do. Sau khi dỡ bỏ các rào cản, thì sao, người ta có tự do không? Đấy là một câu hỏi quan trọng và ông thuyết phục bạn đọc rằng chưa, và cần thực hiện tự do khẳng định.

Như thế có thể xem Tự do như một khái niệm trên tầng tư duy trừu tượng; năm hình thức của tự do kết nối (hay cụ thể hóa) quan niệm tự do trên bình diện tư duy trừu tượng với việc thực hiện tự do trên thế giới trần tục hàng ngày.

Năm hình thức tự do đó là:

  1. Tự chủ (sovereignty) theo nghĩa rằng không có những con người tự chủ thì quan niệm về tự do là vô nghĩa. Điều đó có nghĩa là ngay cả với những người trưởng thành mất chủ quyền là mất tự do. Tuy nhiên, Snyder để ý đến làm sao đứa trẻ sơ sinh, những người chưa trưởng thành (những người bị J. S. Mill bỏ qua) có thể trở thành người có chủ quyền. Để là tự chủ là để nghĩ và hành động có trách nhiệm. Để là những con người tự chủ là có những năng lực (như đặt tên các cảm xúc và sự tự-kiểm soát) mà chúng ta cần để là những người tự do. Cần thời gian và những cố gắng xã hội, các định chế xã hội và các chính sách xã hội cho mọi người (nhất là cho các trẻ sơ sinh) để học để trở thành những con người tự chủ. “Các năng lực, mà mọi người cần nhằm để hoạt động như những người lớn, phát triển khi chúng ta còn nhỏ. Các kỹ năng, mà chúng ta sẽ dùng để trở những con người độc nhất, được tạo ra trong thời gian 5 năm đầu tiên của cuộc đời, khi bộ óc phát triển gần như tới kích thước đầy đủ của nó. Khi các trẻ sơ sinh và những trẻ đi chập chững tương tác với những người khác, ý chí và tiếng nói và tư duy nổi lên.”… “Tự do như thế là một khoản vay được chi ra và được trả lại qua các thế hệ. Trẻ con cần sự chú ý nhiều và chu đáo trong 5 năm đầu đó. Thời gian đặc biệt này không thể được trẻ con trao cho trẻ con, cũng chẳng được người lớn trao cho người lớn. Trẻ con chỉ có thể vay loại đặc biệt này của thời gian từ những người lớn. Sự tự chủ hình thành phát triển ngay từ khi đứa trẻ chào đời với sự giúp đỡ của cha mẹ, gia đình và các định chế xã hội khác.
  2. Tính di động (mobility) là năng lực cho một người để di chuyển theo các giá trị của mình khi người đó lớn lên. Nói cách khác người ta di chuyển trong một không gian 5 chiều, 4 chiều không-thời gian và chiều thứ năm là chiều của các giá trị, chiều của các đức hạnh, chiều của cái nên là chứ không phải trong bốn-chiều của cái là. Tính di động trong không gian là dễ để hình dung nhưng nếu không có cơ sở hạ tầng thì tính di động trong không gian là khó, tức là, hình thức tự do này cũng phụ thuộc vào công việc của những người khác và các các thế hệ khác và vào các định chế và các chính sách (phát triển hạ tầng cơ sở, các công đoàn, hệ thống phúc lợi). Cũng đúng thế cho tính di động xã hội. Tính di động cũng có một chiều thời gian mà người ta cần có cảm giác nào đó về quá khứ và các tương lai mở mà mình sẽ chọn, nếu không sẽ còn tương lai nào nữa (như trong trường hợp thảm họa do biến đổi khíu hậu) thì tự do là vô nghĩa. Tính di động được phát triển cùng tính tự chủ, nhưng chỉ phát triển thật sự sau tính tự chủ (từ tuổi thiếu niên trở đi). Tính di động trong chiều thứ năm, chiều giá trị, chiều của thế giới đạo đức, của các đức hạnh, chiều của cái nên là, hay nói rộng hơn ở mức văn hóa là một đặc điểm khiến cho Leib khác với Körper. Cả hai từ tiếng Đức này được Snyder để nguyên văn và đều có nghĩa là thân thể, là cơ thể, nhưng Leib với hàm ý thân thể của người sống còn Körper có hàm ý thể xác tuân theo các quy luật vật lý. Leib có thể di chuyển trong chiều thứ năm còn Körper thì không.
  3. Tính không thể tiên đoán được (unpredictability), thoạt nhìn có thể hơi lạ rằng tính không thể tiên đoán được là một hình thức tự do, nhưng suy ra nó một cách rõ ràng từ định nghĩa tự do và các đặc tính của các giá trị. Thực ra, những kẻ chuyên quyền và các chính thể chuyên chế muốn mọi người có thể tiên đoán được hoàn toàn và media xã hội biến người dân thành có thể tiên đoán được hơn và vì thế có hại cho tự do (tuy media xã hội có những mặt rất hữu ích khác). Tính không thể tiên đoán được là một đức hạnh lớn của con người. Giả như chúng ta là hoàn toàn có thể tiên đoán được, thì chúng ta sẽ giống các máy và chúng ta không tự do. Sẽ không có sự đổi mới nào, sự sáng tạo thật sự nào nếu không có tính không thể tiên đoán được.
  4. Tính xác thực (factuality-sự phù hợp với dữ kiện, với thực tế), là cốt yếu cho các hình thức tự do khác. Không có tính xác thực chúng ta không có khả năng tiếp cận đến sự thật, sẽ không có khoa học. Không có sự thật tuyệt đối, chúng ta có thể tiếp cận đến sự thật chỉ qua tranh luận, lập luận, kiểm chứng các giả thuyết và bác bỏ các giả thuyết trên cơ sở của các dữ kiện (facts). Nói cách khác tìm sự thật tốn công sức và tiền bạc và các định chế (báo chí, làm phóng sự điều tra, khoa học,…). Không có tính xác thực chúng ta không thể hiểu thế giới và xã hội và chúng ta không biết về nhiều thứ, như về sự phát triển của thời thơ ấu mà cho phép trẻ sơ sinh lớn lên thành con người tự chủ hay về media xã hội làm cho chúng ta có thể tiên đoán được hơn và vì thế làm giảm tính không thể tiên đoán được hay các điều kiện làm cho tính di động là có thể, và nếu không có tính xác thực thì là khó để hình dung sự đoàn kết. Không có tính xác thực chúng ta không thể hình thành các nhóm người có các lợi ích chung, không thể có xã hội dân sự hay sự hợp tác nào. Như thế các chính sách cho phép sự sản xuất các dữ kiện, chẳng hạn media địa phương, nghề báo điều tra, sự kiểm tra dữ kiện, và khoa học, là quan trọng cho tự do. Tính xác thực cũng cho phép chúng ta trở thành những người nói tự do (free speaker) mà là quan trọng hơn quyền tự do ngôn luận (nói sự thật khó chịu cho những kẻ nắm quyền lực). Và “quyền lực của những người không có quyền lực” có thể được thực hiện chỉ bằng việc nói sự thật.
  5. Đoàn kết (solidarity, như với tính tự chủ và tính di động, để là tự do người ta cần sự giúp đỡ của những người khác, người ta cần những điều kiện cho tự do mà bản thân người ta không thể tạo ra. Điều này có nghĩa rằng mặc dù tự do được thực hiện về mặt cá nhân nhưng nó có các khía cạnh tập thể mà người ta cần sự giúp đỡ của những người khác và của các định chế và các chính sách, đồng thời người ta phải tôn trọng tự do của những người khác. Snyder cũng thảo luận sự ngược lại của sự đoàn kết dưới dạng của chủ nghĩa thoát ly [escapism] (các thiên đường thuế, sự bất tử, hay sự trốn chạy khỏi trái đất).

   Cuốn sách gồm 7 chương: dẫn nhập, 5 chương cho mỗi hình thức của tự do, và Kết luận. Như đã nói cuốn sách viết cho độc giả Mỹ, phê phán cách hiểu tự do phủ nhận một cách thái quá rất thịnh hành ở Mỹ, và phần kết luận cũng chủ yếu dành cho người Mỹ, biện minh cho sự tồn tại và trách nhiệm của chính phủ. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể suy ra những bài học cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam chúng ta cũng như nhiều gợi mở để thúc đẩy sự nghiên cứu, tranh cãi tiếp về tự do.

 

Tôi chân thành giới thiệu cuốn Về Tự do của Timothy Snyder cho tất cả những người Việt mong muốn tự do. Tôi đặc biệt mong các đảng viên ĐCSVN đọc cuốn sách này để cùng những người khác góp phần vào việc tranh luận, thảo luận, xây dựng hay làm rõ nội hàm của Kỷ nguyên mới, Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam. Vì tự do dẫn đến Dân chủ chứ không phải ngược lại, cho nên việc đấu tranh để có tự do và thực hành tự do là vô cùng quan trọng. Chính vì thế Kỷ nguyên mới phải là Kỷ nguyên của Tự do.

 

Hà Nội, 2-3-2025

Nguyễn Quang A

 

 

* Những cuốn trước của tủ sách SOS2:

  1. Kornai János, Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin 2002.
  2. Kornai János, Hệ thống xã hội chủ nghĩa, Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin 2002.

……….

  1. Daron Accemoglu, James A Robinson, Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB trẻ có bản dịch khác được xuất bản 2013)

…….

  1. Timothy Snyder, Chống Chuyên chế (On Tyranny), NXB Dân Khí, 2017

…….

  1. Triệu Tử Dương, Tù nhân bí mật của Nhà nước – Nhật ký bí mật của Triệu Tử dương, NXB Dân Khí, 2019
  2. Gabriel Zucman, Của cải Giấu giếm của các Quốc gia, NXB Dân Khí, 2019
  3. Emmanuel Saez và Gabriel Zucman, Chiến thắng của sự Bất công:

………

  1. Amartya Sen, Quê Nhà trong Thế giới, NXB Dân Khí, 2021
  2. Desmond Shum, Roulete Đỏ, NXB Dân Khí, 2021
  3. Katherine M. Gehl và Michael E. Porter, Ngành Chính trị, NXB Dân Khí, 2021
  4. Ronald Inglehart và Christian Welzel, Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa và Dân chủ, NXB Dân Khí, 2022
  5. Ronald Inglehart, Sự Tiến hóa Văn hóa, NXB Dân Khí, 2022
  6. Blanko Milanovic, Bất bình đẳng Toàn cầu, NXB Dân Khí, 2022
  7. Blanko Milanovic, Chủ nghĩa tư bản, Một mình, NXB Dân Khí, 2022
  8. Julia Cagé, Cứu Media, NXB Dân Khí, 2022
  9. Moisés Naím, Sự Trả thù của Quyền lực, NXB Dân Khí, 2022
  10. David Van Reybrouck, Chống Bầu cử - Biện hộ cho Dân chủ, NXB Dân Khí, 2022
  11. John Gastil và Eric Olin Wright biên tập, Cơ quan Lập pháp bằng rút Thăm, NXB Dân Khí, 2023
  12. Timothy Snyder, Đường tới không-Tự do, NXB Dân Khí, 2023
  13. Yves Sintomer, Chính phủ Tình cờ, NXB Dân Khí, 2023
  14. Daron Accemoglu và Simon Johnson, Quyền lực và Tiến bộ, NXB Dân Khí, 2024
  15. Jason Hannan, Trolling bản thân chúng ta đến chết, NXB Dân Khí, 2024
  16. David Daokui Li, Thế giới quan của Trung Quốc, NXB Dân Khí, 2024
  17. Fareed Zakaria, Thời đại cách mạng, NXB Dân Khí, 2024
  18. Dan Slater và Joseph Wong, Từ Phát triển đến Dân chủ, NXB Dân Khí, 2024

Lời nói đầu

“Anh nghĩ sao?” Mariia mỉm cười hỏi trong bộ quần áo tươi sáng của bà, khi tôi cúi dưới khung cửa của chiếc lều gọn gàng của bà và bước lại dưới ánh nắng và đống gạch nát. “Mọi thứ nên thế phải không?” Đúng vậy. Thảm và chăn của bà, được sắp đặt theo hình mẫu phẳng đẹp mắt, gợi nhớ nghệ thuật vị lai Ukrainia. Dây dẫn đến máy phát điện của bà đước sắp xếp gọn gàng, và những chai nước ở gần tầm tay. Một cuốn sách dày mở trên giường bà.

Bên ngoài nhà ở bằng kim loại của bà, một nơi tạm trú do một tổ chức quốc tế cung cấp, những chiếc áo len đang khô trên dây phơi. Một chiếc ngăn kéo gỗ xinh xắn, bên trong lót nỉ, nằm trên một ghế băng dài, giống một hộp Pandora đang mở. Khi tôi khen bà về nó, Mariia biếu tôi chiếc ngăn kéo như một món quà. Nó là một di vật đơn độc của ngôi nhà của bà, ngay trước mặt chúng tôi, một đống đổ nát sau bom và đạn pháo. Bà bực dọc nhìn lên một chiếc máy bay lướt qua. “Mọi thứ xảy ra,” bà thở dài, “và chẳng gì trong số đó là cần thiết cả.”

Giống mọi ngôi nhà trong làng, nhà của Mariia bị phá hủy trong thời gian Nga xâm lấn. Làng Posad Pokrovs’ke, ở cực nam đất nước, cạnh mũi tấn công Nga. Nó nằm giữa những cánh đồng hướng dương trong vùng đất màu mỡ này. Quân đội Ukrainia đã đẩy quân Nga ra khỏi tầm đạn pháo vào cuối 2022, khiến cho an toàn để trở về, hay để thăm, như tôi đang thăm, trong tháng Chín 2023.

Ngồi trên ghế băng và lắng ghe Mariia, tôi nghĩ về tự do. Ngôi làng, người ta nói, đã được giải phóng. Người dân của nó có tự do không?

Chắc chắn, cái gì đó khủng khiếp đã được loại bỏ khỏi cuộc sống của Mariia: mối đe dọa hàng ngày của cái chết hung dữ, sự chiếm đóng của những kẻ tra tấn và giết người. 1Nhưng đó, thậm chí cái đó, có là sự giải phóng không?

Mariia tám mươi lăm tuổi và sống một mình. Bây giờ bà có chỗ ở nhỏ gọn gàng của mình, chắc chắn bà tự do hơn khi bà vô gia cư. Đó là vì gia đình và những người tình nguyện đã đến giúp. Và bởi vì một chính phủ đã hành động, một chính quyền mà bà cảm thấy được kết nối bằng lá phiếu của Mình. Mariia không phàn nàn về số phận của riêng bà. Bà khóc khi nói về những thách thức khó khăn đối mặt với tổng thống của bà.

  • Từ Ukrainia giải-chiếm đóng (деокупація, de-occupation), mà bà và tôi dùng trong đàm thoại, là chính xác hơn từ giải phóng (liberation) thông thường. Nó lôi cuốn chúng ta xem xét những gì vượt xa hơn sự loại bỏ áp bức mà chúng ta cần cho tự do. Rốt cuộc phải mất nhiều công sức để đưa một bà già vào một vị trí nơi bà có thể chào đón các vị khách và thực hiện các tương tác bình thường của một người có phẩm giá. Tôi khó tưởng tượng Mariia thực sự tự do mà không có một ngôi nhà thích hợp với một chiếc ghế và mà không có một lối quang tới con đường cho khung hỗ trợ bà đi bộ.

Tự do không chỉ là một sự vắng mặt của cái ác mà là sự hiện diện của cái tốt.

 

MIỀN NAM Ukraine LÀ THẢO NGUYÊN; miền bắc Ukraine là rừng. Khi thăm một thị trấn được giải-chiếm đóng ở miền bắc nước này, tôi đã có những suy nghĩ tương tự về tự do. Sau khi đưa các con tôi đến các trường thân thiện ở New Haven, Connecticut, tôi có một hành trình tới một ngôi trường bị bỏ hoang ở Yahidne, mà những kẻ chiếm đóng Nga đã biến thành một trại tập trung nhỏ. Trong hầu hết thời gian ngôi làng bị chiếm đóng, quân Nga đã nhồi 350 dân thường, toàn bộ dân cư của nó, vào tầng hầm trường học, một diện tích ít hơn hai trăm mét vuông. Bảy mươi người là trẻ em, đứa bé nhất là một trẻ sơ sinh.

Yahidne được giải-chiếm đóng trong tháng Tư 2022, và tôi đến thăm tháng Chín năm đó. Trên tầng trệt, binh lính Nga đã phá hủy đồ nội thất. Trên các bức tường chúng để lại các bức vẽ graffiti làm mất nhân tính về những người Ukrainia. Đã không có điện. Với ánh sáng của điện thoại của mình, tôi tìm đường xuống tầng hầm, và xem các bức vẽ của trẻ con trên các bức tường của nó. Tôi đã có thể đọc những thứ chúng viết (“Nói không với Chiến tranh”); muộn hơn các con tôi đã giúp tôi nhận diện các ký tự (như một Impostor từ trò chơi Among Us).

Có hai danh sách được viết bằng phấn bên khung cửa về tên của những người chết: ở một bên, những người bị quân Nga hành quyết (mà tôi có thể nói là mười bảy người); bên kia, những người đã chết do kiệt sức hay đau yếu (mà tôi có thể nói là mười người).

Vào lúc tôi đến Yahidne, những người sống sót không còn ở trong tầng hầm nữa. Họ có tự do không?

Một sự giải thoát (phóng) gợi ý một nỗi thống khổ đã biến mất. Nhưng những người lớn cần sự hỗ trợ, các trẻ em cần một trường học mới. Hết sức quan trọng là thị trấn không còn bị chiếm đóng nữa. Nhưng sẽ là sai để chấm dứt câu chuyện về Yahidne khi những người sống sót ra khỏi lòng đất, hệt như sẽ sai để chấm dứt câu chuyện về Posad Pokrovs’ke khi sự ném bom ngừng lại.

Quý ông được trao chìa khóa của trường Yahidne yêu cầu sự giúp đỡ để xây dựng một sân chơi. Có thể có vẻ như một mong muốn kỳ lạ, giữa một cuộc chiến tranh hủy diệt. Quân Nga giết trẻ em bằng tên lửa, và bắt cóc chúng để đồng hóa. Nhưng sự vắng mặt của các tội ác này là không đủ; sự giải-chiếm đóng là không đủ. 2Lũ trẻ cần chỗ để chơi, chạy, và bơi, để luyện bản thân chúng. Một đứa trẻ không thể tạo ra một công viên hay một bể bơi. Niềm vui của bọn trẻ là để khám phá những thứ như vậy trên thế giới. Cần công việc tập thể để xây dựng các cấu trúc của tự do cho lũ trẻ như cho những người già.

 

Tôi đến Ukraine trong chiến tranh trong khi viết cuốn sách này về tự do. Ở đây có thể sờ mó chủ đề của nó, ở khắp nơi. Một tháng sau khi Nga xâm lấn Ukraine, tôi nói chuyện với vài đại biểu quốc hội Ukrainia: “Chúng tôi chọn tự do khi chúng tôi không bỏ chạy.” “Chúng tôi đang chiến đấu vì tự do.” “Bản thân tự do là sự lựa chọn.”

Không chỉ các chính trị gia. Ở Ukraine thời chiến khi nói chuyện với những người lính, những bà góa và nông dân, với các nhà hoạt động và các nhà báo, tôi nghe hoài từ tự do. Việc họ dùng nó thế nào thật lý thú. Với phần lớn nước họ dưới sự chiếm đóng diệt chủng, những người Ukrainia dường như có lý do chính đáng để nói về tự do như sự giải thoát khỏi, như một sự vắng mặt của, cái xấu. Chẳng ai đã nói thế.

Khi tôi hỏi họ muốn nói gì với tự do, không một người duy nhất nào mà tôi nó chuyện với đã định rõ tự do khỏi (freedom from) những người Nga. Một người Ukrainia bảo tôi, “Khi chúng tôi nói tự do, chúng tôi có ý không muốn nói ‘tự do khỏi cái gì đó’.” Một người khác xác định chiến thắng như là “vì cái gì đó, không phải chống lại cái gì đó.” Những kẻ chiếm đóng đã ngáng đường của cảm giác rằng thế giới đang mở ra, rằng thế hệ tiếp sẽ sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, rằng các quyết định được đưa ra bây giờ sẽ quan trọng trong những năm tới.

Là quan trọng để dỡ bỏ sự áp bức, để đạt 3cái các nhà triết học gọi là “tự do phủ định” (negative freedom). Nhưng sự giải-chiếm đóng, sự loại bỏ cái hại, chỉ là một điều kiện cần cho tự do, không phải là bản thân tự do. Một người lính trong một trung tâm phục hồi bảo tôi rằng tự do là về mọi người có một cơ hội để thực hiện các mục đích riêng của họ sau chiến tranh. Một cựu binh đang đợi một chân giả nói rằng tự do là một nụ cười trên nặt con trai ông. Một lính trẻ đang nghỉ phép nói rằng tự do là về những đứa trẻ anh muốn có. Chỉ huy của họ, Valeriy Zaluzhnyi, bảo tôi trong phòng tham mưu ẩn khuất của ông rằng tự do có nghĩa là một cuộc sống bình thường với những triển vọng.

Tự do là một tương lai khi một số thứ vẫn như thế và những thứ khác tốt đẹp hơn. Nó là cuộc sống mở rộng và phát triển.

 

Trong cuốn sách này, tôi nhắm để định nghĩa tự do. Nhiệm vụ bắt đầu với việc cứu từ này khỏi sự dùng quá nhiều và sự lạm dụng. Tôi lo rằng, ở nước tôi, Hoa Kỳ, chúng tôi nói về tự do mà không xem xét nó là gì. Những người Mỹ thường nghĩ sự vắng mặt của cái gì đó: sự chiếm đóng, sự đàn áp, hay thậm chí chính phủ. Một cá nhân là tự do, chúng tôi nghĩ, khi chính quyền đứng xa ra. Tự do phủ định là chuyện thường tình của chúng tôi.

Chắc chắn, thật cám dỗ để nghĩ về tự do như chúng ta tương phản với thế giới, mà quan niệm về tự do phủ định cho phép chúng ta làm. Nếu các rào cản là vấn đề duy nhất, thì tất cả phải ổn với chúng ta. Điều đó làm cho chúng ta cảm thấy thoải mái. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ tự do nếu không có một thế giới bên ngoài đối xử tồi tệ với chúng ta. Nhưng sự loại bỏ cái gì đó trên thế giới có thực sự đủ để giải phóng chúng ta? Chẳng phải quan trọng hơn, có lẽ thậm chí quan trọng hơn, để thêm các thứ vào?

Nếu chúng ta muốn tự do, chúng ta sẽ phải khẳng định, không chỉ phủ nhận. Đôi khi chúng ta sẽ phải phá hủy, nhưng thường xuyên hơn chúng ta sẽ cần tạo ra. Thường xuyên nhất chúng ta sẽ cần thích nghi cả thế giới và bản thân chúng ta, trên cơ sở của những gì chúng ta biết và quý trọng. Chúng ta cần những cấu trúc, những cấu trúc đạo đức cũng như chính trị đúng đắn. Đức hạnh là phần không thể tách khỏi của tự do.

4“Các Tường Đá không tạo nên một Nhà tù / Các song sắt cũng chẳng tạo nên một chiếc Lồng”—thi sĩ nói. Đôi khi chúng tạo nên, và đôi khi chúng không. Sự áp bức không chỉ là sự cản trở, mà ý định con người đằng sau nó mới là. Tại Donetsk của Ukraine, một nhà máy bị bỏ không đã trở thành một phòng thí nghiệm nghệ thuật; dưới sự chiếm đóng Nga, cùng tòa nhà đó 5đã trở thành một cơ sở tra tấn. Một tầng hầm trường học, như ở Yahidne, có thể trở thành một trại tập trung.

Các trại tập trung Nazi ban đầu, cũng đúng thế, đã ở trong các quán bar, các khách sạn, và các lâu đài. Trại tập trung cố định đầu tiên, Dachau, đã ở trong một nhà máy bị bỏ không. 6Auschwitz đã là một căn cứ quân sự Ba lan có ý định bảo vệ người dân khỏi một cuộc tấn công Đức. 7Kozelsk, một trại Tù binh Chiến tranh Soviet nơi các sĩ quan Ba lan bị giữ trước khi họ bị hành quyết, đã là một tu viện—nơi Fyodor Dostoevsky, trong tiểu thuyết 8Anh Em nhà Karamazov, viết đoạn đối thoại với câu hỏi nổi tiếng: Nếu Chúa chết, thì mọi thứ đều được phép ư?

Không có lực lớn hơn nào, cũng chẳng phải sự vắng mặt của một lực lớn hơn như vậy, làm chúng ta tự do. Tự nhiên cho chúng ta một cơ hội để là tự do, không hơn, không kém. Chúng ta được bảo rằng chúng ta “sinh ra tự do”: không đúng. Chúng ta sinh ra gào khóc, gắn vào dây rốn, được bọc trong máu của một phụ nữ. Liệu chúng ta có trở nên tự do hay không phụ thuộc vào các hành động của những người khác, vào các cấu trúc cho phép các hành động đó, vào các giá trị làm cho các cấu trúc đó sống động—và chỉ sau đó mới phụ thuộc vào một sự chập chờn của sự tự phát và sự can đảm của các lựa chọn của riêng chúng ta.

Các cấu trúc cản trở hay cho phép này là các cấu trúc vật lý và đạo đức. Chúng ta nói và nghĩ thế nào về tự do là quan trọng. Tự do bắt đầu với việc giải-chiếm đóng tâm trí chúng ta khỏi các ý tưởng sai. Và có các ý tưởng đúng và sai. Trong một thế giới của chủ nghĩa tương đối và sự hèn nhát, tự do là tuyệt đối giữa các thứ tuyệt đối, là giá trị của các giá trị. Điều này không phải bởi vì tự do là một thứ tốt mà tất cả các thứ khác phải cúi đầu trước nó. Mà bởi vì tự do là điều kiện dưới đó tất cả những thứ tốt đẹp có thể chảy bên trong chúng ta và giữa chúng ta.

Cũng chẳng phải tự do là một chân không do một Chúa đã chết hay một thế giới trống rỗng để lại. Tự do không phải là một sự vắng mặt mà là một sự hiện diện, là một cuộc sống trong đó chúng ta chọn nhiều sự cam kết và thực hiện những sự kết hợp của chúng trên thế giới. Các đức hạnh là thực, thực như bầu trời đầy sao; khi chúng ta tự do, chúng ta học chúng, thể hiện chúng, đưa chúng vào cuộc sống. Theo thời gian, các lựa chọn của chúng ta giữa các đức hạnh xác định chúng ta như những người có ý chí và cá tính.

 

Khi chúng ta cho rằng tự do là tự do phủ định, sự vắng mặt của cái này hay cái nọ, chúng ta cho rằng việc dỡ bỏ một rào cản là tất cả những thứ chúng ta phải làm để là tự do. Đối với cách tư duy này, tự do là điều kiện mặc định của vũ trụ, do lực lớn hơn nào đó mang lại cho chúng ta khi chúng ta dọn đường. Điều này thật ngây thơ.

Những người Mỹ được bảo rằng các Cha Lập Quốc, đặc tính dân tộc của chúng ta, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa của chúng ta trao tự do cho chúng ta. Chẳng cái nào trong số này đúng cả. Tự do không thể được trao. Nó không phải là một của thừa kế. Chúng ta gọi Mỹ là một “nước tự do,” nhưng không nước nào tự do cả. Việc lưu ý một sự khác biệt giữa thuật hùng biện của những kẻ áp bức và những người bị áp bức, nhà thơ bất đồng chính kiến Eritrea Y. F. Mebrahtu kể lại rằng 9“họ nói về đất nước, chúng ta nói về nhân dân.” Chỉ người dân có thể là tự do. Nếu chúng ta tin cái gì đó làm cho chúng ta tự do, chúng ta chẳng bao giờ học được những gì chúng ta phải làm. Thời khắc bạn tin rằng tự do được trao cho, nó đã biến mất.

Chúng tôi những người Mỹ có khuynh hướng nghĩ rằng tự do là vấn đề về các thứ được dọn sạch, và rằng chủ nghĩa tư bản làm việc đó cho chúng tôi. Là một cái bẫy để tin vào điều này hay bất kể nguồn bên ngoài khác nào của tự do. Nếu chúng ta liên kết tự do với các lực bên ngoài, và ai đó bảo chúng ta rằng thế giới bên ngoài mang lại một mối đe dọa, chúng ta hy sinh tự do cho sự an toàn. Điều này có ý nghĩa với chúng ta, bởi vì trong tâm mình chúng ta đã không tự do rồi. Chúng ta tin rằng chúng ta có thể trao đổi tự do lấy an ninh. Đây là một sai lầm chết người.

Tự do và an ninh hoạt động cùng nhau. Lời nói đầu của Hiến pháp hướng dẫn chúng ta rằng “những phước lành của tự do” được theo đuổi cùng với “phúc lợi chung” và “phòng thủ chung.” Chúng ta phải có tự do và an ninh. Để cho người dân tự do, họ phải cảm thấy an toàn, nhất là trẻ em. Chúng phải có cơ hội để biết lẫn nhau và thế giới. Rồi, khi chúng trở thành những người tự do, chúng quyết định lấy những rủi ro nào, và vì lý do gì.

Khi Nga xâm lấn Ukraine, Tổng thống Volodymyr Zelens’kyi đã không bảo nhân dân của ông rằng họ cần đánh đổi tự do lấy an ninh. Ông đã bảo họ rằng ông ở lại trong nước. Sau cuộc thăm của tôi đến Yahidne, tôi đã nói chuyện với ông trong văn phòng của ông ở Kyiv, đằng sau các bao cát. Ông đã gọi sự giải-chiếm đóng là một cơ hội để khôi phục cả an ninh và tự do. Ông nói rằng “sự tước đoạt tự do là sự bất an,” và rằng “sự không an toàn là sự tước đoạt tự do.”

 

Tự do là về việc biết chúng ta quý trọng cái gì và 10đưa nó vào cuộc sống. Như thế nó phụ thuộc vào những gì chúng ta có thể làm—và điều đó, đến lượt, phụ thuộc vào những người khác, những người chúng ta biết và những người chúng ta không biết.

Khi tôi viết lời nói đầu này trên một chuyến tàu đêm từ Kyiv hướng sang phía tây, tôi biết tôi còn bao lâu trước khi tôi đến biên giới Ba lan. Tôi có một chút an toàn trong sự hiểu biết đó, và một chút tự do để làm việc—nhờ lao động của những người khác. Ai đó khác đã đặt các đường ray và sửa chúng khi chúng bị nã pháo, ai đó khác đã xây dựng các toa xe và chăm sóc chúng, ai đó khác đang lái tàu. Khi quân đội Ukrainia giải-chiếm đóng các thành phố, nó kéo cờ lên và chia sẻ các bức ảnh. Nhưng những người Ukrainia có khuynh hướng coi các thành phố như được giải phóng khi dịch vụ đường sắt được khôi phục.

Các nhà tuyên truyền Nga cho rằng không có cái đúng và không có cái thiện, và như thế mọi thứ đều được phép. Tất cả các hậu quả của quan điểm đó ở xung quanh tôi tại Ukraine được giải-chiếm đóng, trong các hố chết tôi thấy ở Bucha, trong các khu định cư bị phá hủy như Posad Pokrovs’ke, trong các trại tập trung như Yahidne. Các lính Nga ở Ukraine nói về các thành phố bị chúng phá hủy như “được giải phóng.” Và quả thực: tất cả các rào cản, từ quan điểm của họ, đã được dỡ bỏ. Họ có thể san ủi các đống đổ nát và các xác chết, như ở Mariupol, xây dựng cái gì đó khác, bán nó. Theo nghĩa phủ định đó của tự do, họ tự do để giết người và ăn cắp.

Các bánh xe và các đường ray bên dưới tôi không làm cho tôi tự do, nhưng chúng đưa tôi tới phía trước, tạo ra các điều kiện mà bản thân tôi không thể tạo ra, cho tự do của tôi. Tôi sẽ là một người ít tự do hơn ngay bây giờ nếu giả như không có xe lửa, hay Nga đã phá hủy nhà ga Kyiv. Nhân dân ở Ukraine không tự do hơn khi Nga phá hủy các tiện ích công cộng và các trường công.

Chúng ta làm cho tự do là có thể không phải bằng việc phủ nhận chính phủ, mà bằng việc khẳng định tự do như sự hướng dẫn tới chính phủ tốt. Việc lập luận tiến tới từ định nghĩa đúng về tự do, tôi tin, sẽ đưa chúng ta đến loại chính quyền đúng. Và như thế cuốn sách này bắt đầu với một sự giới thiệu về tự do, và kết thúc với một kết luận về chính phủ. Năm chương ở giữa cho thấy con đường từ triết học đến chính sách.

 

Mường tượng tự do thế nào trong cuộc sống của chúng ta? Các mối quan hệ giữa tự do như một nguyên lý và tự do như một thực hành là năm hình thức của tự do.

Các hình thức tạo ra một thế giới nơi mọi người hành động trên cơ sở các giá trị. Chúng không phải là các quy tắc hay các mệnh lệnh. Chúng là các liên kết logic, đạo đức, và chính trị giữa hoạt động chung và sự hình thành của những cá nhân tự do. Các hình thức giải quyết hai câu hỏi hóc búa rõ ràng: một người tự do là một cá nhân, nhưng chẳng ai trở thành một cá nhân một mình; tự do được cảm nhận trong một đời người, nhưng nó phải là công việc của hàng thế hệ.

Năm hình thức là: sự tự chủ (sovereignty), hay năng lực học được để đưa ra các sự lựa chọn; sự không thể dự đoán (unpredictability), khả năng để thích nghi những sự đều đặn vật lý với các mục đích cá nhân; sự di động (mobility), khả năng để di chuyển qua không gian và thời gian đi theo các giá trị; tính xác thực (sự hợp dữ kiện, sự hợp thực tế-factuality), sự thấu hiểu thế giới mà cho phép chúng ta thay đổi nó; và liên đới hay đoàn kết (solidarity), sự nhận ra rằng tự do là cho tất cả mọi người.

Công việc của tự do bắt đầu sau công việc của một bà mẹ. Một đứa trẻ sơ sinh có khả năng để đánh giá thế giới và thay đổi nó, và nó phát triển các năng lực cần thiết với sự hỗ trợ của, và cùng với, những người khác. Đây là sự tự chủ.

Đến tuổi trưởng thành, một người trẻ học để nhìn thế giới như nó vốn là và để hình dung nó có thể thế nào. Một người tự chủ trộn các đức hạnh được chọn với thế giới bên ngoài để tạo ra cái gì đó mới. Như thế sự không thể dự đoán được là hình thức thứ hai của tự do.

Các thân thể của chúng ta cần các chỗ để đi. Với tư cách những người trẻ chúng ta không thể tạo ra cho bản thân mình các điều kiện cho phép chúng ta để là tự chủ và không thể dự đoán được. Nhưng một khi các điều kiện đó đã được tạo ra, chúng ta nổi loạn chống lại chính các định chế đã làm cho chúng có thể và đi con đường riêng của chúng ta. Và sự di động này, hình thức thứ ba của tự do, nên được khuyến khích.

Chúng ta tự do để làm chỉ những thứ chúng ta biết làm thế nào, và tự do để đi chỉ đến những chỗ nơi chúng ta có thể đi. Những gì chúng ta không biết có thể làm tổn thương chúng ta, và những gì chúng ta biết trao quyền cho chúng ta. Hình thức thứ tư của tự do là tính xác thực (hợp với dữ kiện, sự hợp với thực tế -factuality).

Không cá nhân nào đạt tự do một mình. Về mặt thực tiễn và đạo đức, tự do cho bạn có nghĩa là tự do cho tôi. Sự công nhận này là sự đoàn kết, sự liên đới (solidarity), hình thức cuối cùng của tự do.

Giải pháp cho vấn đề tự do không phải là, như một số người bên Hữu nghĩ, để nhạo báng hay từ bỏ chính phủ. Giải pháp cũng không phải là, như một số người bên Tả nghĩ, để bỏ qua hay vứt đi thuật hùng biện của tự do.

11Tự do biện minh cho chính phủ. Các hình thức của tự do cho chúng ta thấy nó biện minh thế nào.

 

Cuốn sách này đi theo logic của một lý lẽ và logic của một cuộc sống. Ba hình thức đầu tiên của tự do thuộc về các pha khác nhau của cuộc sống: sự tự chủ thuộc về tuổi thơ; sự không thể dự đoán được thuộc về tuổi trẻ; sự di động thuộc về tuổi trưởng thành trẻ. Sự xác thực và sự đoàn kết là các hình thức trưởng thành của tự do, cho phép những người khác. Mỗi hình thức có một chương.

Trong dẫn nhập, tôi dựa vào cuộc sống của chính tôi, bắt đầu với lần đầu tiên tôi nghĩ về tự do: trong mùa hè 1976, năm kỷ niệm 200 năm của nước Mỹ. Trên cơ sở của năm thập niên của những sai lầm của chính tôi, tôi sẽ thử cho thấy một số hiểu lầm về tự do nảy sinh như thế nào, và chúng có thể được sửa chữa ra sao. Kết luận mô tả một chính phủ tốt, một chính phủ chúng ta có thể cùng nhau tạo ra. Ở đó tôi hình dung một nước Mỹ vào năm 2076, năm kỷ niệm ba trăm năm của nó, như một xứ tự do.

Các chương được chia thành các đoạn ngắn (đoản văn-vignette). Vài trong số chúng gồm những ký ức xuất hiện trong tâm trí khi tôi thử giải quyết một vấn đề triết học. Những giây lát hồi tưởng cho phép sự suy ngẫm nào đó. Chúng cho phép tôi áp dụng một phiên bản khiêm tốn của phương pháp Socratic cho cái tôi trước kia: thẩm vấn ý nghĩa của các từ và các thói quen sống, để đánh thức những gì đã biết rồi theo nghĩa nào đó. Điểm quan trọng là để khơi ra những sự thật về đất nước này và về tự do, mà đã không hiển nhiên đối với tôi lúc đó—và mà lẽ ra không hiển nhiên đối với tôi bây giờ giả như tôi đã không trải qua những kinh nghiệm sớm hơn đó.

Đây là một phương pháp triết học (tôi hy vọng) phù hợp cho một sử gia như tôi. Tôi dựa vào các ví dụ lịch sử và biết nhiều về quá khứ của một số vùng hơn các vùng khác. Đây là một cuốn sách về Hoa Kỳ, nhưng tôi đưa ra những so sánh với Tây Âu, Đông Âu, Liên Xô, và nước Đức Nazi.

Tôi thảo luận ở đây với các nhà triết học cổ xưa, hiện đại, và đương thời. Đôi khi tôi nêu các tài liệu tham khảo rõ ràng; những người quan tâm sẽ kiếm được chúng. Tôi có trích dẫn rõ ràng năm nhà tư tưởng: Frantz Fanon, Václav Havel, Leszek Kołakowski, Edith Stein, và Simone Weil. Các nhân vật này không phải là những người Mỹ và không được biết kỹ ở Hoa Kỳ; với những ngoại lệ nhỏ, họ chẳng sống ở nước này cũng chẳng viết về nó. Một cú thúc từ một truyền thống khác (hay một từ, thuật ngữ từ một ngôn ngữ khác) có thể giải thoát chúng ta khỏi những sự hiểu lầm. Tôi phóng tác một khái niệm thúc đẩy lý lẽ từ mỗi nhà tư tưởng; tôi không khẳng định rằng họ đồng ý với nhau (hay với tôi) về mọi vấn đề.

Cuốn sách này có tính bảo thủ, bởi vì nó dựa vào truyền thống; nhưng có tính cấp tiến, bởi vì nó đề xuất cái gì đó mới. Nó là triết học, nhưng nó bám chặt vào kinh nghiệm. Vài cụm từ trong cuốn sách này là các tin nhắn văn bản tôi viết cho bản thân mình trong những khoảnh khắc tỉnh ngắt quãng trên một giường bệnh, trong một căn bệnh gần như đã lấy mạng sống của tôi. Các lý lẽ được hình thành trong khi dạy một lớp bên trong một nhà tù Mỹ an ninh tối đa. Tôi viết phần lớn những gì tiếp theo trong ba chuyến đi đến Ukraine thời chiến.

Các câu hỏi căn bản được các bạn đọc nêu ra. Các cuốn Bloodlands (Vùng đất đẫm máu) và Black Earth (Đất Đen) của tôi, nghiên cứu sự giết người hàng loạt, đã dẫn đến những cuộc thảo luận công khai đưa tôi đến chủ đề đạo đức của cuốn sách này. Nếu tôi có thể mô tả cái xấu nhất, tôi không thể kê đơn cái tốt nhất ư? Sau khi tôi công bố sách mỏng chính trị On Tyranny (Về Chế độ Chuyên chế) và một lịch sử đương đại gọi là The Road to Unfreedom (Đường tới Không-tự do), tôi hỏi một nước Mỹ tốt đẹp hơn trông giống cái gì. Đây là câu trả lời của tôi.

Việc định nghĩa tự do là một loại tham vọng khác với việc bảo vệ nó. Tôi thẩm vấn cái tôi trước kia của mình; tôi thẩm vấn những người khác; và những người khác thẩm vấn tôi. Phương pháp là một phần của câu trả lời: có thể có sự thật về tự do, nhưng chúng ta sẽ không đến tới nó trong sự cô lập hay bằng suy diễn. Tự do là khẳng định; là việc tìm ra các từ xung quanh nó, giống việc thực hiện nó trong cuộc sống, là một hành động sáng tạo.

Cuốn sách này có ý định minh họa bằng ví dụ các đức hạnh nó khen ngợi. Tôi hy vọng, nó là hợp lý, nhưng cũng không thể dự đoán được. Nó được dự định là điềm tĩnh, nhưng cũng thực nghiệm. Nó ca tụng không phải cái chúng ta là, mà ca ngợi tự do có thể là của chúng ta.

Mặt trời mọc bên ngoài cửa sổ của tôi. Gần biên giới rồi. Tôi bắt đầu suy ngẫm của mình vào một ngày hè.

T.S.

Tàu Kyiv-Dorohusk

Toa 10, Phòng 9

6:10 sáng, 10 tháng Chín 2023