Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2025

Về cuốn Từ điển Việt ngữ phổ thông của BS Lê Văn Thu và DS Nguyễn Hiền (kỳ 1)

 Nguyễn Huệ Chi

Cuốn sách(1) gồm 1274 trang, khổ 16x24cm, bìa cứng, giấy đẹp, tôi nhận được đã gần một tháng(2) nhưng đến nay mới đọc xong, dù chỉ là đọc lướt các vần từ C đến Y và đọc tương đối kỹ hai vần từ A đến B. Ngay khi mới cầm nó trên tay tôi đã rất vui thích ở hình thức trang nhã, dày dặn, cách đóng sách chắc chắn để dùng lâu và dùng nhiều không hỏng, và cách trình bày đúng quy thức một bộ từ điển Việt ngữ, ngoại trừ một ít sơ suất không đáng có và cũng không nhiều – như trùng lặp (2 mục từ ào ào; 2 mục từ bá láp; 2 mục từ bập bùng bập bừng); sắp xếp sai trật tự vần a, b, c (bé cái miệng phải đặt trên bé miệng; trong hai chữ bá láp một chữ đặt nhầm vào vần ba, chữ thả giàn đặt nhầm vào vần xả); viết chữ sai (từ bóng thiềm có chữ thiềm là con cóc viết thành thuyền); đôi khi có mục từ được ghi chữ “như” ở một từ đồng nghĩa, nhưng mở ra tìm, lại không thấy đâu cả (dứt dây động rừng: như bứt dây động rừng; tr. 200)... – Càng đọc vào tôi càng phát hiện ra những điều cầnđã được đáp ứng (chưa dám nói là đủ) ở một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Việt mà hai tác giả từng cất công đeo đuổi suốt nhiều năm. Không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng để khỏi phụ lòng hai ông, dưới đây tôi xin nêu một vài ý kiến ban đầu, hay dở đều xin nói thẳng, hai ông cứ xem là cảm tưởng của một người không chuyên nói lên những gì mà sách làm khơi dậy sự “động não” của mình.

1. Điều đầu tiên là sách có một Phàm lệ (bao hàm cả phần hướng dẫn về cách sử dụng sáchlời tri ân) sáng rõ, dễ hiểu và gọn gàng khiến ai đọc vào cũng hiểu ngay, không phải lật đi lật lại nhiều lần khi dùng từ điển. Kinh nghiệm cho biết, sách tra cứu càng phức tạp thì phàm lệ lại càng phải cố gắng đưa ra những quy tắc giản tiện đến hết mức có thể. Phải nói ra điều này vì tôi vốn quen thuộc với bộ Từ điển tiếng Việt của GS Hoàng Phê mà tôi coi là được biên soạn nghiêm túc và rất ít sai sót (tính đến bản in lần thứ 9, 2003(3)), nhưng mở đầu, ở phần giới thiệu Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển (trong đó có những quy ước dành cho người đọc dùng để tra cứu) lại đề cập hơi sâu nhiều thuật ngữ chuyên môn khiến không nhớ hết được, đọc mấy rồi cũng quên, thành ra mỗi lần tra cứu cứ phải đọc lại (chỉ với hai dấu mở và đóng ngoặc kép mà phải tìm mãi mới ra đây là dùng cho các mục từ phiên âm tên nước ngoài có gạch nối). Cho nên, xin nhắc lại, với một Phàm lệ gọn và không có gì khó hiểu, sách của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền đã giúp bạn đọc tra cứu các mục từ theo chỉ dẫn một cách dễ dàng. Mặt khác cũng nhờ đó, muốn kiểm tra người biên soạn tuân thủ quy tắc mình đề ra đến mức nào, phần nào làm được và phần nào chưa làm được hay có gì vướng mắc, cũng không đến nỗi quá khó khăn. Khi dõi theo các vần từ đầu đến cuối sách mà không gặp một chỗ nào “gờn gợn” về tâm lý bởi cách diễn đạt có gửi ngầm vào đấy một đôi chút thiên kiến vùng miền, bất đồng về chính trị, trái khoáy về thể chế... dù là ở các mục từ có phần nhạy cảm, như ấp chiến lược, ấp tân sinh, bần cố nông, bắt rễ xâu chuỗi, du kích, dư luận viên, nhạc đỏ, việt kiều (từ kép Việt kiều theo tôi phải viết hoa chữ Việt vì đây là tiếng Việt), cho đến cả câu dẫn chứng: bộ óc của đảng là bộ chính trị (ở mục từ bộ óc)... thú thật một mối thiện cảm đã nảy ra trong tôi một cách tự nhiên. Thậm chí có mục từ lẽ ra còn nên viết trung tính (neutre) hơn thì hai ông hình như đã hơi nghiêng về phía “tả” trong trình bày, chẳng hạn mục từ bồi thẩm đoàn có mở ngoặc chú thêm: tại các nước tư bản tôi nghĩ nên thay “các nước tư bản” bằng “các nước dân chủ phát triển” vì không phải nhờ vào “tư bản” mà chỉ có một “nền dân chủ đích thực” với “tam quyền phân lập” phân minh, mới dám lập ra “bồi thẩm đoàn” có thẩm quyền kết tội độc lập trong ngành tư pháp. Vân vân. Hiện tượng nhất quán đáng mừng này trong toàn cuốn từ điển chắc hẳn phải bắt nguồn từ nguyên tắc thứ nhất ghi ở Phàm lệ mà hai tác giả đã nêu lên như một kỳ vọng: “Muốn duy trì sự trong sáng của tiếng Việt, giúp giải phóng nó khỏi bóng tối của thành kiến chính trị và văn hóa” (tr.i). Liền đó, các ông lại viết tiếp một câu không phải bổ sung cho quy tắc mà là lược thuật một trải nghiệm nhằm dốc thêm bầu tâm sự: “Cũng có từ điển được biên soạn bởi người có định kiến chính trị phe phái quá sâu đậm nên rất nhiều từ đã được gán cho những nghĩa mà thật ra chúng không hề mang!” (tr.i). Trước những lời tâm huyết như thế thử hỏi ai có thể dửng dưng vô cảm được. Bởi vậy, không sợ mang tiếng thiên vị, tôi xin dùng kiểu nói thông dụng hiện nay để khái quát điều thu hoạch đầu tiên đối với cuốn sách: mọi mục từ trong sách đều được thu nạp và xử lý thông qua chỉ một thao tác mà người biên soạn coi là nền tảng khách quan, khoa học. Xử lý đến đâu là chuyện sẽ bàn.

Cũng phải nói trong khi viết Phàm lệ, với những lĩnh vực không thuộc phạm vi mình hiểu sâu, đôi khi hai tác giả có dùng những chữ chưa xác đáng, nhưng đó là khuyết điểm không ảnh hưởng đến phần chính ở sau. BS Trần Văn Tích đã dẫn ra chữ Lê Quý Đôn(4), tôi xin dẫn thêm vài chữ khác: Cung oán ngâm khúc Chinh phụ ngâm khúc không phải là “truyện thơ” mà là “ngâm khúc” (tên thể loại cổ thường nằm ở phần cuối tên tác phẩm); Phan Trần nên để là “truyện thơ” hoặc “truyện nôm” mà không để là “truyện”, cho khỏi nhầm với truyện văn xuôi (như Truyền kỳ mạn lục); Trinh thửThạch Sanh Lý Thông cũng nên để là “truyện thơ” chứ không nên gọi là “truyện tích”, vì truyện thơ nào của chúng ta cũng xuất phát từ một tích mà diễn ra văn vần (và tên gọi Thạch Sanh Lý Thông thì nên gọi thống nhất là Thạch Sanh như cách gọi đã có lâu đời, đừng căn cứ vào một bản in dân gian nào đấy đổi tên đi khiến rơi vào tình trạng tên gọi không phổ dụng).

Bìa trong

2. Điều đáng nói thứ hai là đứng về tầm vóc, cuốn từ điển lần này đã bổ sung được nhiều mục từ so với không ít từ điển có trước. Hiện tôi đang có trong tay hai cuốn Từ điển tiếng Việt (2003, NXB Đà Nẵng) của Hoàng Phê [TĐHP] và Việt Nam tự điển (1970, NXB Khai Trí) của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ [TĐLVĐ&LNT]. Xin thử kiểm đếm ít nhiều từ ngữ bất kỳ của hai cuốn nói đây cùng với cuốn của hai tác giả [TĐLVT&NH] để xem số lượng giữa chúng chênh lệch thế nào. Tạm chọn ra 10 từ trong các vần từ A đến Y: ăn, chơi, giàu, kéo, làm, nghèo, nói, sử, trèo, xa và đếm những chuỗi từ kép đi theo các mục từ ấy.

1. Về ăn, đếm được: TĐLVĐ&LNT  168 mục (ăn bốc đến ăn-banh) [chữ có gạch nối là của chính tác giả TĐLVĐ&LNT] / TĐHP 90 mục (ăn bám đến ăn vận) / TĐLVT&NH 185 mục (ăn ảnh đến ăn ý).

2. Về chơi, đếm được: TĐLVĐ&LNT  31 mục (chơi ác đến chơi-vơi) / TĐHP 11 mục (chơi bời đến chơi xỏ) / TĐLVT&NH 26 mục (chơi ác đến chơi xuân).

3. Về giàu, đếm được: TĐLVĐ&LNT  14 mục (giàu bự đến giàu-giàu) / TĐHP 5 mục (giàu có đến giàu sụ) / TĐLVT&NH 10 mục (giàu có đến giàu tình cảm).

4. Về kéo, đếm được: TĐLVĐ&LNT  42 mục (kéo bèn đến kéo xển) / TĐHP 6 mục (kéo bè kéo cánh đến kéo theo) / TĐLVT&NH 26 mục (kéo bè đến kéo theo).

5. Về làm, đếm được: TĐLVĐ&LNT  306 mục (làm ăn đến làm xàm) / TĐHP 79 mục (làm ải đến làm vườn) / TĐLVT&NH 206 mục (làm ăn đến làm xiếc).

6. Về nghèo, đếm được: TĐLVĐ&LNT  12 mục (nghèo con đến nghèo xơ nghèo xác) / TĐHP 9 mục (nghèo đói đến nghèo túng) / TĐLVT&NH 19 mục (nghèo cho sạch, rách cho thơm đến nghèo xơ nghèo xác).

7. Về nói, đếm được:  TĐLVĐ&LNT 528 mục (nói ắt-chất đến nói xượt) / TĐHP 94 mục (nói bóng đến nói xỏ) / TĐLVT&NH 446 mục (nói ấm á đến nói ý).

8. Về sử, đếm được:  TĐLVĐ&LNT 34 mục (sử chúng đến sử-quân-tử) / TĐHP 14 mục (sử ca đến sử xanh) / TĐLVT&NH 29 mục (sử bộ đến sử xanh).

9. Về trèo, đếm được:  TĐLVĐ&LNT 4 mục (trèo đèo đến trèo xuống) / TĐHP 2 mục (trèo đèo đến trèo trẹo) / TĐLVT&NH 6 mục (trèo cao ngã đau đến trèo trẹo).

10. Về xa, đếm được:  TĐLVĐ&LNT 66 mục (xa cách đến xa-xả) / TĐHP 39 mục (xa bô chê đến xa xưa) / TĐLVT&NH 65 mục (xa-bô-chê đến xa xưa).

Chỉ qua 10 từ chọn ngẫu nhiên, trong đó 9 là từ vựng tiếng Việt cơ bản và 1 là từ Hán Việt (sử), ta cũng thấy Từ điển Việt ngữ phổ thông của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền có số lượng từ ngữ vượt trội Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê. Còn so với Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ thì ít hơn, nhưng ít hơn không nhiều lắm, và cá biệt không phải không có “đảo nghịch”, như ở các từ ăn tỷ lệ 185/168, nghèo 19/12, trèo 6/4.

Hiện tượng hơn hay kém số lượng mục từ giữa ba bộ từ điển như vừa thống kê bắt nguồn chủ yếu từ hai lý do: khác biệt nhau giữa nguyên tắc lựa chọn mục từ quan niệm thế nào là mục từ bao gồm cả từ đơn từ kép của từng nhóm tác giả. Nhất thời chưa thể kết luận quan niệm lý thuyết của nhóm nào đúng hơn vì còn phải soi vào lý thuyết hiện đại về “từ” và “ngữ” của ngành ngôn ngữ học. Mà kiểm tra thực tế để xem nhóm tác giả này tuân thủ lý thuyết nghiêm chỉnh đến đâu so với nhóm kia là điều phức tạp, bởi không một nhóm nào nêu tường tận trong sách. Chỉ riêng nguyên tắc lựa chọn, đọc phần Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển in đầu từ điển Hoàng Phê, thấy sách này đặt mục tiêu thu thập khá rộng rãi; có 5 đối tượng từ ngữ khác nhau được nhắm đến: a. “từ ngữ thường dùng trên sách báo… và trong đời sống hằng ngày, phổ biến trong cả nước từ sau thập kỷ 20 của thế kỷ này”; b. “từ ngữ thường gặp trong các tác phẩm tiêu biểu”; c. “phương ngữ đã được dùng ít nhiều phổ biến”; d. “từ ngữ khoa học - kỹ thuật thường gặp trong các tài liệu phổ cập khoa học”; e. “thành ngữ thường dùng” (tr. XII). Về tiêu chuẩn định dạng thì ngoài “những đơn vị rõ ràng là từ” sách còn chọn thêm “những tổ hợp cố định thường dùng mà trong nhiều trường hợp khó xác định được là từ hay là ngữ, nhất là khi nghĩa của tổ hợp không phải chỉ là sự tổ hợp nghĩa của các thành tố” (tr. XII).

Dù sao, để đối chiếu làm ví dụ cụ thể một từ nói giữa hai sách Hoàng Phê và Lê Văn Thu - Nguyễn Hiền, chúng tôi vẫn bớt lại các phương ngữ, từ cổ và từ Hán Việt, là những phần rất dễ hai bên có cách xử lý còn bất nhất. Kết quả, những cụm từ đa âm tiết lấy nói làm gốc sau đây có mặt trong TĐLVT&NH mà không có mặt trong TĐHP lần in thứ 9: nói ấm ớ, nói ấp úng, nói ất giáp, nói ẩu, nói ba hoa, nói ba láp, nói bay bướm, nói bặm trợn, nói bập bẹ, nói bậy nói bạ, nói bô bô, nói bốc đồng, nói bỡn, nói bướng, nói cà rỡn (cà giỡn), nói càn, nói cạnh nói khóe, nói cầm chừng, nói câu giờ, nói chày nói cối, nói chặn, nói chen, nói cho ngay, nói chọc, nói chùng, nói dai, nói dại, nói dóc, nói dối, nói dông dài, nói dỡn, nói đẩy đưa, nói đoạn, nói đổng, nói đùa, nói đúng, nói gạt, nói gằn, nói gièm, nói giễu, nói gióng một, nói hớ, nói huỵch toẹt, nói khao khao, nói khẽ, nói khích, nói khó, nói khóe, nói không, nói khống, nói khơi khơi, nói khuếch nói khoác, nói lải nhải, nói lảm nhảm, nói lẩm bẩm, nói lẫn, nói lấp lửng, nói lấy được, nói lẫy, nói leo lẻo, nói léo nhéo, nói léo xéo, nói lép bép, nói lí nhí, nói liến, nói liều, nói líu tíu, nói lòng vòng, nói lớn lối, nói lúng búng, nói lưu loát, nói lý sự, nói mãi, nói mỉa, nói miệng, nói móc họng, nói một đàng làm một nẻo, nói nặng nói nhẹ, nói ngọng, nói ngọng nói nghịu, nói ngược, nói nhát gừng, nói nhỏ nhẻ, nói nhỏ nhẹ, nói như pháo nổ, nói như tát nước vào mặt, nói như vẹt, nói phải tội, nói phỉnh, nói phiên phiến, nói oan, nói ỡm ờ, nói qua, nói quá, nói quanh nói co, nói quấy, nói quấy nói quá, nói ra rả, nói ra nói vào, nói rỉa, nói rổn rảng, nói rộng ra, nói sa sả, nói sai, nói sau lưng, nói sẽ, nói sướng miệng, nói tách bạch, nói thao thao, nói thầm thì, nói thật, nói thêm, nói thiệt, nói tía lia, nói to, nói trắng, nói trộm, nói trời nói đất, nói trúng, nói trước quên sau, nói ú ớ, nói vanh vách, nói vặc, nói vậy chớ không phải vậy, nói ví von, nói võ vẽ, nói vói, nói vòng vo, nói vơ, nói vu vơ, nói vung, nói vuốt đuôi, nói xa xôi, nói xa nói gần, nói xàm, nói xạo, nói xằng, nói xẵng, nói xấc, nói xấu, nói xen, nói xéo, nói xỏ, nói xóc, nói xóc óc, nói xoen xoét.

146 đơn vị tất cả. Có thể rồi đây, một sự quy nạp chặt chẽ nhất nội hàm thuật ngữ “từ kép” hoặc “tổ hợp ngữ cố định” bắt buộc sẽ phải loại bớt đi một số (chẳng hạn các tổ hợp “nói đúng” / “nói sai” / “nói rộng ra” / “nói một đàng làm một nẻo” / “nói vậy chớ không phải vậy” đem vào tra cứu là không thỏa đáng vì tự thân chúng có biến đổi trong hành trình giao tiếp: chỉ cần thay “nói” một cách ngẫu nhiên bằng các động từ khác: nhìn, thấy, đọc, nghĩ, xét, chọn, làm… lập tức đã sản sinh nhiều tổ hợp mới tương đương, đồng nghĩa hoặc cận nghĩa – “thấy đúng”, “đọc đúng”, “nghĩ đúng”, “chọn đúng”, “thấy sai”, “nghĩ sai” “làm sai”, “nhìn rộng ra”, “xét rộng ra”, “nghĩ rộng ra”, “chọn rộng ra”, “làm một đàng nói một nẻo”, “thấy một đàng làm một nẻo”, “nghĩ một đàng làm một nẻo”, “ngó vậy chớ không phải vậy”, “biết vậy chớ không phải vậy”, vân vân – Chẳng lẽ kết hợp nào cũng đều là từ kép cần đưa vào từ điển cả?). Nhưng dẫu thế đi nữa thì số còn giữ lại được trong 146 đơn vị đã liệt kê ở trên vẫn không ít chút nào. Phải thừa nhận hai tác giả đã có công làm sống dậy một khối lượng đáng kể những từ ngữ vốn đang trong chiều hướng dần dần bị lãng quên, nhằm đưa chúng trở lại góp mặt vào cách ăn nói đa dạng của người Việt tứ xứ, giúp cho công cuộc giao lưu ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam đang cư ngụ trên nhiều địa bàn khác nhau, cả trong nước và hải ngoại, thêm phần phong phú năng động hơn. Đóng góp này của Từ điển Việt ngữ phổ thông 2023 là không hề nhỏ.

3. Nói đến một cuốn từ điển ngôn ngữ không thể không nói đến tiêu chí về chính tả. Chính tả là mặt thứ hai không tách rời khối lượng từ vựng được trình bày trong một từ điển phổ thông. Trong tiếng Việt, sự lẫn lộn phát âm thường gặp trước nay ở những khu vực dân cư Bắc, Trung, Nam mà ta có thể quy kết vào mấy nhóm có tính chất tiêu biểu (tiêu biểu chứ không bao quát hết). Miền Bắc, chủ yếu nhầm lẫn 4 nhóm phụ âm đầu: sx / trch / dgir / ln. Miền Trung, có một nhóm phụ âm đầu nhd hay gi / và hai nhóm phụ âm cuối ct / nng, và còn nhầm lẫn các dấu hỏingã / hỏinặng. Miền Nam, nặng nhất là hai nhóm vd / hgu/o và cũng có cả hai nhóm phụ âm cuối nng / ct.

Phát âm theo giọng địa phương là điều không khó gặp ở nhiều người, kể cả người có học, việc ấy thuộc quyền cá nhân, không có gì sai; nhưng khi đã vượt qua bậc học phổ thông trung học thì ít người còn viết sai chính tả (nhất là sai n / l là không thể chấp nhận), ngoại trừ ba trường hợp đặc biệt: sx / dgi r / chtr vẫn tồn tại dai dẳng và không chỉ riêng miền Bắc mà trên khắp cả ba miền. Các nhà từ điển học đôi khi cũng vướng phải ba cặp con chữ này. Nói không quá, không một người Việt học thức nào tự tin đến mức dám chắc bản thân chưa từng một lần phải ngập ngừng phân vân, kể cả lúng túng, trước một từ ngữ thuộc loại s hay x, d hay gi, tr hay ch(5). Thế mà, điều đáng ngạc nhiên là Từ điển Việt ngữ phổ thông đã gần như “bước qua chông gai” một cách suôn sẻ, có vấp váp chút ít cũng không đáng kể. Khẳng định của chúng tôi khuôn trong phạm vi phần mục từ quan sát được qua theo dõi các vần S, X, D, R, CH, TR ứng với ba trường hợp đặc biệt đã nêu. Tổng cộng 6 vần gồm 274 trang, đếm được 12015 mục từ(6). Hãy loại ra không tính những phương ngữ và từ cổ hiện chưa bắt gặp một lần trên báo chí sách vở ngoài cuốn sách của hai ông, muốn biết viết đúng hay viết sai không tìm ra “tiêu bản” để so sánh(7). Số mục từ thực sự không đúng chính tả trong 6 vần chỉ đếm trên đầu ngón tay: “chần dần”, “rấn bước”, “rấn sức” “ròm rõ”/”ròm rõi”, “sà lim”, “sì mũi”, “sọc sạch”, “sơ múi”, “đánh bỏ sừ”, “sái thuốc phiện” (viết đúng là chần vần, dấn bước, dấn thân, dấn sức, dòm dỏ/dòm dõi, xà lim, xì mũi, xọc xạch, xơ múi, đánh bỏ xừ, xái thuốc phiện). Đúng 10 từ tất cả.

Cũng không cần thiết trưng dẫn hết thảy số mục từ các ông đã viết đúng. Chỉ nêu lên một vài bằng cứ, đáng đề cập vì tìm thấy ngay ví dụ đối chứng trên sách vở báo chí hiện thời, không kể trong nước hay ngoài nước. Tất nhiên “tìm thấy ngay” không có nghĩa là tìm được nhiều. Trái lại, rất ít. Tuyệt đại đa số đều đã viết như hai ông. Số ít ỏi tìm thấy này chỉ chứng tỏ một vài “cái xương hóc” trong chính tả tiếng Việt vẫn đang còn rơi rớt, hoặc ghim vào tiềm thức quá sâu, muốn “gỡ” ra, có lẽ nên bàn giải ngọn ngành để cùng nhau đồng thuận chỉnh sửa.

- Hai ông viết dòng (dòng chảy, dòng lệ, dòng giống, dòng dõi – tr.190), trong khi thời Tự lực văn đoàn, Thạch Lam còn viết Theo giòng, Tú Mỡ viết Giòng nước ngược, đến Nhất Linh năm 1961 vẫn viết Giòng sông Thanh Thủy; còn hiện tại trang Người Việt (báo mạng, USA) một đôi khi vẫn viết: “có một giòng sông” (bài đăng 30.8.2018); hay: “Giòng sông Sacramento” (bài đăng 28.3.2024).

- Hai ông chọn cả hai chữ chia sẻ chia xẻ, áp dụng với từng văn cảnh khác nhau (“chia sẻ nỗi buồn với ai vì mất mát người thân” – tr.112 / “để chia xẻ quyền lợi bọn chúng đã toa rập với nhau” – tr.113), trong khi trên tạp chí Văn học mới (báo giấy, USA, phát hành ở nhiều nước) số 27, tháng 10.2023, hình như đang gộp cả vào một chữ “chia xẻ”: “nhiều người cũng chia xẻ quan điểm” (tr.98); “để chia xẻ với người đọc khắp nơi” (tr.102); “có sự sẵn lòng chia xẻ để lan tỏa những giá trị nhân văn” (tr.107); “với tấc lòng bình yên, chia xẻ” (tr.109).

- Hai ông viết xanh rờn (tr.1231), trong khi trang Thi viện (VN) không phải chỉ một lần viết “xanh dờn”: “Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn” (Bài Vân Đồn); “Hồ soi bóng liễu nước xanh xanh dờn” (Bài Đề Tây Đô thành, bản dịch thứ 4); “Ngấn rêu đượm nước nở xanh dờn” (Bài Sơn thượng, bản dịch thứ 4); “Đến tận cùng núi xanh dờn” (Bài Hoàng Mai đạo trung, bản dịch thứ 3)...

- Hai ông viết hình trung (tr.1208), trong khi cũng trên tạp chí Văn học mới đã dẫn, bắt gặp một chữ “vô hình chung”: “vô hình chung trở thành một ngọn nến sáng” (tr.108); và theo dõi trên nhiều báo mạng thì tìm được một chữ “vô hình chung” thứ hai ở trang VOA tiếng Việt: “Trung Quốc vô hình chung trở thành tâm điểm bị chú ý trong cuộc tranh luận giữa hai ứng cử viên tổng thống Mỹ” (bài đăng 28.9.2016); cũng vậy, một chữ “vô hình chung” thứ ba tìm được trên BBC tiếng Việt (Anh quốc): “vô hình chung lại dễ khuyến khích thêm…” (bài đăng 19.5.2020).

- Hai ông viết xoay xở (tr.1250), trong khi trang Doanh nhân Sài Gòn (báo mạng, VN) vẫn viết: “doanh nghiệp tìm cách xoay sở” (Hàng tồn kho, doanh nghiệp tìm cách xoay sở; 26.10.2022); trang VOV (VN) cũng thế: “xoay sở giữa khó khăn” (Xoay sở giữa khó khăn, Hưng Thịnh, Novaland mong được kéo dài thời gian vay vốn; 13.11.2023).

- Hai ông viết xôi kinh (xôi kinh nấu sử – tr.1254), tức hiểu “xôi” là động từ, trong khi hiện tại trang Soha (VN) mục “Tra từ” vẫn chỉ dẫn cho độc giả tra cứu thành ngữ “sôi kinh nấu sử” (http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/N%E1%BA%A5u_s%E1%BB%AD_s%C3%B4i_kinh); và trang Hoc24OLM (VN) vẫn dạy cho học sinh lớp 11: “Đặt câu với thành ngữ sau: a) Nấu sử sôi kinh…” (https://hoc24.vn/cau-hoi/dat-cau-voi-moi-thanh-ngu-sau-me-tron-con-vuong-trung-khon-hon-vit-nau-su-soi-kinh-phu-quy-sinh-le-nghia-di-guoc-trong-bung-di-hoa-vi-quy.325657222694)

- Hai ông viết coi sóc (tr.139); sắp xếp (tr.847); sâu xa (tr.852); trái xoan (tr.1072); xiêu lòng (tr.1247); xói mòn (tr.1251), trong khi tạp chí Văn học mới (đã dẫn) cũng những từ này đều viết đảo sx: “có trả lương để coi xóc quét dọn” (tr.200); “cùng xắp xếp xong hết mọi chuyện” (tr.199); “mình xắp xếp đồ đạc rồi mai đi sớm” (tr.199); “nằm không xâu lắm trong một con hẻm nhỏ” (tr.200); “khuôn mặt trái soan” (tr.184); “mãi rồi cũng siêu lòng” (tr.166); “sói mòn dần tình yêu” (tr.176) [trở lên, các chữ trong ví dụ do chúng tôi in nghiêng hoặc tô đậm].

- V.v. và v.v.

Xin được nói một câu ngoài đề: đọc báo chí tiếng Việt hải ngoại hiện nay, cả báo mạng và báo giấy, ta thường bắt gặp từ “diễn hành”, chỉ những cuộc tuần hành của quân lính, của đám đông quần chúng. Từ này gần như không có trên báo chí tiếng Việt từ xưa đến giờ. Khi tôi hỏi một vài người bạn quen thì được trả lời: viết “diễn hành” mới đúng luật kết cấu Hán + Hán; nếu viết “diễu hành” sẽ rơi vào kết cấu Việt + Hán, là kiểu kết cấu rất ít gặp trong quá trình hình thành tiếng Việt, nên “diễu hành” là viết sai. Tôi hơi băn khoăn, bèn đem hai chữ Hán “diễn演” và “hành行” ghép lại, rồi tra thử trên trang mạng baidu.com (Trung Quốc) thì có hai chữ “diễn hành 演行” thật, nhưng về nghĩa, mạng baidu.com cấp cho ta một nghĩa khác hẳn nghĩa tuần hành: 演行的解释: 犹实行 / diễn hành do thực hành (tức là: “diễn hành” cũng như “thực hành”). Vậy có thể quả quyết, “diễn hành” không vay mượn ở đâu, chỉ là cách nói trại từ diễu hành của những ai đó, thời gian phổ biến chưa lâu, phạm vi lưu hành cũng còn rất giới hạn(8). Mở Từ điển Việt ngữ phổ thông ra, không thấy “diễn hành”, trái lại từ diễu hành nằm ở trang 187. Rất tiếc, bên cạnh diễu hành viết đúng, từ điển của hai ông lại có cả “diễn binh” cùng hiện diện song song với diễu binh (được thích nghĩa là “sự phô trương lực lượng các quân binh chủng nhân một dịp lễ lớn”). Như trên, “diễn binh” cũng thuộc loại nói trại diễu binh và chưa mấy thông dụng trong tiếng Việt hiện hành (Hán ngữ có từ diễn binhnhưng hoàn toàn không với nghĩa phô trương sức mạnh quân đội; baidu.com giải thích là diễn tập hoặc luyện binh, và ghi chú thêm: từ mới (演兵:演习;练兵-新词语 / Diễn binh: diễn tập, luyện binh – tân từ ngữ)(9).

Hẳn có người hỏi: xác quyết chữ này đúng chữ nọ sai, thế dựa vào đâu mà nói sai hay đúng? Câu hỏi không kém nan giải. Thực tình không một chỗ dựa duy nhất nào có được đáp số đúng trong mọi tình huống. Ở trên đã nhắc Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, đó là công trình tập thể của Viện Ngôn ngữ học do GS Hoàng Phê chủ biên, khởi công làm phiếu điều tra tiếng Việt trên báo chí sách vở ngay từ ngày Viện mới là một tổ trong Viện Văn học (1959)(10). Khi thu thập được 3 triệu 30 nghìn phiếu, một đội ngũ chuyên môn bèn bắt tay biên soạn, tính đến 2003 đã in đến 9 lần, lần in nào cũng có chỉnh sửa, là công cụ mà nhiều người Việt hiện đang tra cứu hàng ngày. Nhưng, cuốn từ điển ấy cũng chưa có đủ mục từ, và không phải là cẩm nang giải quyết hết mọi chuyện rắc rối của tiếng Việt. BS Trần Văn Tích, một học giả từng trải, có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc ngôn ngữ ở hải ngoại, người đã hết lòng tìm đủ luận chứng ở 17 cuốn sách để bênh vực nhà nghiên cứu Thụy Khuê khi bà đem in một công trình bị một nhà xuất bản hải ngoại bắt thay hai chữ “sử dụng” bằng “xử dụng”; trong bài viết nhắc ở phần 1, ông đã dành gần 3 trang(11) kể lại những tình thế khó xử mình phải thuyết phục lý trí bằng so sánh nghiền ngẫm nhiều từ điển khác nhau, cho chúng “cọ xát” nghĩa trong thực tế sử dụng, cuối cùng chọn được từ ngữ thích đáng mà không phải nhượng bộ thói quen, định kiến, cũng không đánh mất sự tự chủ. Tôi xin mượn kinh nghiệm của ông để phần nào nói thay cho mình. Trong giao tiếp ngôn ngữ, chỉ có được chân lý hợp thành từ nhiều nguồn: sách vở (từ điển), thực tiễn, và sự trải nghiệm. Và cũng không thể dùng mệnh lệnh, phải tự mình sàng lọc, cuối cùng thuyết phục mình và người hướng tới cái đúng.

Dựa trên cơ sở của nguyên tắc làm việc vừa rút ra, trở lại với Từ điển Việt ngữ phổ thông của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền. Khi kết luận các ông đạt một tỷ lệ mục từ viết đúng chính tả đầy ấn tượng, như con số đã thống kê ở ba cặp con chữ dễ sai chính tả nhất (sx / dgi r / chtr), tôi đã cố gắng soi nhìn cuốn sách trong một tiến trình dài của ngành từ điển tiếng Việt nước ta. Công sức to lớn của hai ông, vốn là hai nhà khoa học tự nhiên, là đã không ngừng tiếp cận nhằm thâu lượm lời ăn tiếng nói của nhiều nhóm người Việt đa dạng trong thời gian trên dưới nửa thế kỷ. Nhưng có lẽ còn quan trọng hơn, nhờ tinh thần bỏ qua thiên kiến như viết ở lời đầu sách, các ông không câu nệ tiếp thu thành quả từ nhiều nhà từ điển học đi trước, biến chúng thành điểm mạnh của mình. Chỉ với hai cá nhân đơn độc thì dù có thêm “hiền thê” giúp sức (ghi trong lời Tri ân), vẫn không dễ gì vượt thoát khâu hết sức khó khăn là chuẩn định các mục từ cho đúng chính tả trong quá trình làm một cuốn từ điển ngôn ngữ ròng rã 12 năm, mà nhiều người đã phải gọi đó là những “cái bẫy”, hơi loạng quạng là sập. Ngay như trong tập thể soạn giả bộ Từ điển tiếng Việt Hoàng Phê có một thành viên tương đối trẻ; ở phần việc đóng góp cho công trình chung, nhờ áp lực của “cái đúng” từ Chủ biên và tập thể anh ta thực hiện thuận buồm xuôi gió. Đến lúc tự mình đứng ra soạn riêng một cuốn từ điển chính tả thì sách anh làm gặp đâu sai đấy, có đến 168 mục từ sai, đến mức sách vừa in ra đã bị thu hồi(12).

4. Trên phương diện cung cấp mục từ, còn một đóng góp nữa của Từ điển Việt ngữ phổ thông cũng rất nên nghĩ: các ông đã bảo lưu được nhiều từ cổ và phương ngữ của người Việt, không để chúng mai một đi. Ở bất kỳ vần nào trong cuốn sách của BS Lê Văn Thu và DS Nguyễn Hiền, ta cũng có thể nhặt được những mục từ mình chưa từng quen thuộc. Chỉ đọc từ A đến hết B đã tìm thấy: a thần phù (a vào, ùa vào, xông vào khi có đông người cùng hành động); ạch đụi (không suôn sẻ, không may mắn); áo quạ (áo dành cho đàn ông, tay dài, tà chỉ dài đến đầu gối); ăn chõm (tham lam lấy cả phần người khác); ba dẻm (tầm phào); ba đá (tính tình ngang ngược); ba đàng ba sá (du côn); ba rọi (1. miếng thịt lợn có cả mỡ và da; 2. tình trạng không ra gì do pha trộn lố lăng nhiều thứ với nhau); ba vá (đầu cạo trọc chừa ba chòm tóc); bá cháy (hết sẩy, tuyệt vời); bành ki (chỉ vật có kích thước lớn); bách xách (phiền phức); bảy rảy (bứt rứt); bắc kế (buộc ngựa hay bò vào xe cho chúng kéo); bái xái (xiểng liểng); bài hải (tiếng kêu hay tiếng la rất to); bại xụi (tê liệt không cử động được); ban sơ (lúc mới đầu); bán mạng ([chạy] thật nhanh không kể gì nguy hiểm); bần quân(13) (màu hơi nâu, chỉ nước da người phụ nữ khỏe về tình dục); bạng nhạng ([thịt] bạc nhạc); bẫng (bước hụt); bao bụng ([ăn] kỳ no); bào bọt (cảm giác xót đau trong bao tử); bập dừa (phao tập bơi bằng bẹ dừa nước sau khi đã tước vỏ); bẹ mèo (bẹ cau còn non); ben (bì kịp); bẻo (vạt chéo); (trôi giạt); bệu rệch (lôi thôi lếch thếch); bía (món ăn có lạp xường); bín (thắt bím); bủn (nát vụn); bùn lu (bùn có lẫn cỏ và rác); bo bíu (túng thiếu quá); bò khướu (con bò có lông đen); bồ bồ (xoay mòng mòng); bốc hốt (làm hỗn với phụ nữ); bốc xẹt (hời hợt, nông nổi, hay nói); bơn (bãi cát bồi); bớn (yếu ớt, ẻo lả); bợn nhợn (nhộn nhạo trong bụng); bọp (đã bị méo mó, mất hình dáng cũ); bườm (tiếng hô của bọn ăn cướp ra hiệu rút lui sau khi hành sự); v.v.

Ta cũng gặp trong cuốn từ điển không ít mục từ Hán Việt và thành ngữ Hán Việt, thuộc loại được Việt hóa và dùng lẫn với tiếng Việt tùy từng vùng đất có tiếp xúc Hán học xưa kia (có từ phổ biến rộng rãi khắp Nam Bắc, có từ chỉ một vùng), nhưng hiện đã ít dùng và trở lại tình trạng mờ nghĩa cho đến mất nghĩa nhìn trên bình diện cả nước. Nào ác đảng, ác ma, ác phạm, ác thần, ai tử (tiếng tự xưng trên giấy báo tang của người con trai cha mẹ vừa chết), ám tiễn, an bang, án quyết, án tích, án thế (bản án thay thế giấy khai sinh), ảo tượng, âm hạch (hột le, vật nhỏ nhạy cảm của bộ phận sinh dục nữ), âm tần (tần số âm thanh), âm thoa (vật bằng kim loại để định chuẩn âm thanh), ấm tử, ân phụ, bách linh, bạch chủng, bạch thủ, bạch viên, bại tục, bào huynh, bảo chủ (người đứng chịu trách nhiệm); bảo quyến, bạo chính, bát độ, bát tiết, bát tuần, bạt tụy, bắc giao (lễ tế Giao), bắc kế (buộc ngựa vào xe), bẩm thụ, bất đẳng (bất bình đẳng), bất cố lai vãng, bất học vô thuật, bất ly tri thù [不離錙銖] (keo kiệt không chịu mất tí gì), bất phân mộ dạ, bất thành khí, bỉ nhân, biểu đệ, biểu điệt, bồi thực, bôn bá [奔播] (lật đật, vội vàng, gian nan), khanh sát (chôn sống), nho tôn [儒尊] (người giỏi được tôn xưng trong hàng ngũ nhà nho), nột nho [呐儒?] (học trò dốt), phong chúc, phôi châu [肧珠] (phần tử nhỏ của hoa sẽ kết thành trái), phôi dựng [肧孕] (có thai), phôi nang [肧囊], phôi nhũ [肧乳] (chất sữa hay lớp cùi mềm của trái cây có vỏ cứng), phù dân [浮民] (người lông bông); quả nhân (người phụ nữ), quang manh [光盲] (mù lòa); quang trạch (sáng lóng lánh); quật hạ [?] (chịu luồn cúi dưới người khác), quật [quất] hồng [紅] (vỏ quả quýt [?]), quật huyệt (hang thú ở), quật kỳ (khác thường, vượt trội), quật [quất] lạc [] (tép quả quýt), quật tàng [掘藏] (khai quật), quật tỉnh (đào giếng), quật [quất] tử [子] (quả quýt);…

Đọc lại bản hướng dẫn đầu sách thì việc thu góp phương ngữ cũng như từ ngữ Hán Việt và cả từ Việt cổ cũng chính là mục tiêu quan trọng đứng hàng thứ hai của hai tác giả: “nhóm biên soạn cố gắng giữ lại các từ cổ (thịnh hành ngày xưa nhưng ít dùng bây giờ) và thêm các phương ngữ mà chúng tôi lượm lặt được (mặc dù không đầy đủ)” (tr.iv). Thêm một mục tiêu như thế cũng là rất tốt cho người cần tra cứu sách vở cũ, và người có công việc cần đi lại nhiều về các địa phương. Tôi phải ghi chú chữ Hán vào một đôi từ Hán Việt mình dẫn lại vì không phải chữ nào cũng phiên âm đúng và hiểu nghĩa đúng, giả định không phải người soạn nhầm mà sai lạc từ con đường truyền miệng trong dân gian. Lại cũng không phải từ nào cũng có trong sách vở chữ Hán của Trung Quốc, như thành ngữ “bất ly tri thù” (ngay sách Tục ngữ, cổ ngữ gia ngôn(14) của Huình Tịnh Của và phần phụ lục thành ngữ tục ngữ của tự điển Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ cũng không có, chỉ có ở mục từ “tri thù” (thứ 2) của tự điển này – Q. hạ, tr.1673, cột 1); rất có thể nhà nho Việt Nam đặt ra (hoặc rút gọn lại một câu chữ Hán) và cứ thế lưu truyền(15). Nếu giả thuyết này đúng thì việc thu thập của hai tác giả còn có ý nghĩa đối với ngành lịch sử ngôn ngữ học, nó là một trong những bằng chứng cụ thể của việc người Việt vay mượn Hán ngữ không thụ động mà có phần sáng tạo vào thời kỳ chữ Nôm và chữ quốc ngữ chưa được dùng phổ biến trong văn chương học thuật cũng như trong sổ sách, công văn giấy tờ.

Dẫu sao, khi đưa phương ngữ vào sách tra cứu có danh nghĩa “phổ thông”, tức là dùng phổ cập trong đời sống đương đại, cần tránh cho thế hệ đang học ở bậc phổ thông một sự nhầm lẫn, ngỡ rằng những phương ngữ và từ Hán Việt trong sách đều là từ hiện hành, dùng rộng rãi trong cả nước. Muốn thế cần ghi chú thật đầy đủ mấy chữ tắt (PN / TC) ở cuối mỗi từ mình chọn (vốn xếp theo vần nên không dễ nhận biết). Việc này thì Từ điển Việt ngữ phổ thông thực hiện phải nói hãy còn lác đác.

Hơn nữa, nếu đã thu thập phương ngữ vào sách thì không thể chỉ giới hạn trong một vùng nào, vì sách có tham vọng dùng cho toàn quốc, và toàn thể cộng đồng người Việt trên thế giới. Mới đọc được một lần và cũng là đọc lướt, tôi có cảm giác các tác giả thiên về phương ngữ ở miền Nam là chính, mà cũng chưa phải đã rà soát hết các vùng phía Nam. Tiếng địa phương của miền Tây Nam Bộ như bự chà bá, đú quài, chăm sáo, chăm gử, chèn ơi, có nhiêu, cơm núm xào, cười thảo mai, dây choại, huốc rồi, mèn đét ơi, quởn quá, thồn vào họng, xa mút chỉ cà tha, xá bấu, xàm xí, v.v… có góp mặt trong sách nhưng cũng chưa được bao nhiêu. Huống chi còn miền Trung, miền Bắc…, thiếu nhiều lắm, có lẽ thêm cả một Tập II cũng chưa đủ. Mà với danh nghĩa Từ điển Việt ngữ phổ thông thì đâu có thể nói là từ điển của một vùng được. Nó phải là từ điển của tất cả mọi vùng miền. Vậy nên tôi nghĩ, trước khi bắt tay vào công việc, người làm sách phải tính toán trước cách nào đó để khối lượng phương ngữ được hiện diện vừa phảicân đối cho cả ba miền Bắc Trung Nam. Đây là điều hết đỗi khó khăn, nhưng không vì khó khăn mà phải né tránh (nên chăng đối với các đặc ngữ quá riêng biệt chỉ dùng trong một phạm vi rất hẹp thì dành hết lại cho một bộ từ điển phương ngữ sau này? Có mất đi đâu, mà sách lại không làm người tra cứu nặng tay và mệt trí).

Có nghĩa là bản thân đầu đề Từ điển Việt ngữ phổ thông đã đòi hỏi trong đó một sự lựa chọn. Chính hai tác giả cũng tiến hành lựa chọn mà không tự biết. Thì hãy cùng lật lại cuốn TĐLVĐ&LNT để rõ thêm. 53 năm về trước Việt Nam tự điển cũng đã có chủ trương thâu lượm phương ngữ không khác gì Từ điển Việt ngữ phổ thông. Trích một đoạn trong lời dẫn đầu sách của hai tác giả họ Lê: “Ngoài những tài-liệu lượm-lặt trong các sách-vở, báo chí, chúng tôi đã góp-nhặt những tiếng nói từng địa phương hẻo-lánh, từ cửa miệng của đại chúng như thợ rèn, thợ mộc, các chị buôn gánh bán bưng, các bác nông-phu mộc-mạc quê mùa, các bậc kỳ-lão trong các hội hè đình đám” (Q. thượng, Tựa [gồm 2 trang, không ghi số trang]; tr. trước); “Chúng tôi hoàn toàn không đặt thêm một danh-từ mới nào mà chỉ góp nhặt những danh-từ đã được đồng-bào từ Nam chí Bắc dùng đến. Trung thành với nguyên-tắc này, chúng tôi không ngần-ngại kê vào và giải-thích tất cả những tiếng lóng trong các giới bình-dân mà chúng tôi lượm lặt được, cùng những tiếng tục mà chúng tôi đã ký chú bằng chữ “lóng” (Q. thượng, Tựa; tr. trước).

Một cuốn tự điển đã chủ trương thu thập phương ngữ trước mình 53 năm, nay hai tác giả soạn cuốn sách có cùng chí hướng, tại sao không tận dụng hết thành quả của nó mà phần lớn mục từ ở các vần đều bỏ bớt? (xem lại bản thống kê 10 vần ăn, chơi, giàu, kéo, làm, nghèo, nói, trèo, sử, xa liệt kê ở trước). Câu trả lời là các ông đã lựa chọn và tinh giản cho phù hợp với đối tượng đọc đông đảo đang đồng hành. Lựa chọn là phương án đúng vì không một cuốn sách nào gồm đủ hết những tư liệu người đi trước lưu lại. Lựa chọn ngay cả những sản phẩm đáng gọi là “đặc sản” do chính mình tìm ra, có thế mới thức thời, dù rằng bỏ đi ai mà chẳng tiếc. Từ điển Việt ngữ phổ thông trước sau đã không tránh khỏi câu ngạn ngữ “bỏ thì thương vương thì tội” khiến cho về một mặt nào đấy, ở một khối lượng mục từ nào đấy lại có thể trở thành “gánh nặng” cho thế hệ trẻ.

Trang cuối Từ điển Việt ngữ phổ thông