Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

Dư Hoa và những phận người trong dòng xoáy thời cuộc

 Hồ Anh Thái

Dư Hoa thuộc thế hệ những nhà văn trải qua các phong trào trời long đất lở và công cuộc sửa sai sau đó. Từ trải nghiệm cá nhân và nỗ lực khai thác tư liệu, cộng với khả năng hư cấu phóng khoáng, trong thế hệ này đã xuất hiện những tài năng vào bậc nhất của văn chương Trung Quốc hiện đại.

 

Dư Hoa, nhà văn đương đại người Trung Quốc, sinh năm 1960. Ảnh tư liệu

Ở phương Tây, Dư Hoa được đánh giá cao, có lẽ chỉ sau Cao Hành Kiện, nhà văn gốc Trung Quốc được giải Nobel. Không giống với nhiều nhà văn đồng hương, sản phẩm chỉ dừng ở mức là hàng nội địa, sách của Dư Hoa được người đọc của nhiều nền văn hóa khác chia sẻ. Đó là nhờ tính phổ quát, dù nói chuyện Trung Quốc nhưng lại chạm đến những vấn đề của nhân loại rộng lớn.

Năm 2024, Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn cho ra mắt liền 3 tiểu thuyết của Dư Hoa, trong đó Ngày thứ Bảy là cuốn mới dịch, SốngChuyện Hứa Tam Quan bán máu được biên tập lại để tái bản. Riêng tiểu thuyết Sống được hiệu chỉnh và dịch bổ sung những đoạn còn thiếu trong bản dịch ở Nhà xuất bản Văn học từ năm 2002.

Ba cuốn này, thành tựu chủ yếu của Dư Hoa về tiểu thuyết, cho một cái nhìn khá đầy đủ về tư tưởng và phong cách của nhà văn. Ông đã xông thẳng vào những khác biệt của xã hội Trung Quốc, từ đó tìm ra mẫu số chung của con người và lay động được người đọc ở cả những nơi xa xôi trên hành tinh.

Trước hết, Dư Hoa là nhà văn của bi kịch. Hơn nữa là bi kịch của những người khốn cùng. Nhân vật phần nhiều đều là những con người ở dưới đáy xã hội và bị tước bỏ hầu như tất cả những gì gần gũi và thiết yếu. Ở tiểu thuyết Sống, ta gặp Phúc Quý là con trai địa chủ, nhà có hơn trăm mẫu ruộng. Thời phong kiến, anh ta rượu chè cờ bạc đến mất hết tài sản, kể từ đó thành người nông dân khốn cùng, phải cùng vợ làm lụng nuôi mẹ già con dại. Rồi vô tình Phúc Quý bị bắt đi theo quân Tưởng Giới Thạch, sau đó thua trận, anh ta liền bị quân giải phóng bắt. Qua mấy năm Phúc Quý được thả về, cuộc sống càng ngày càng khó khăn. Đứa con trai hơn mười tuổi đi hiến máu cứu bà hiệu trưởng, cũng là vợ chủ tịch huyện, bị rút nhiều máu quá, chết. Cô con gái bị câm điếc lấy được anh công nhân vẹo cổ, sinh được đứa con trai, nhưng sau khi sinh con, cô cũng chết. Những người thân dần dần bỏ ông mà đi cả. Cuộc đời ông từ đó lầm lũi sống với con trâu già, ông lấy chính tên mình đặt cho con trâu: Phúc Quý. Ông Phúc Quý và con trâu Phúc Quý đều già, tưởng đã chết nhiều lần mà vẫn chưa chết được.

Câu chuyện dân dã toát ra triết lý vô thường, sống chết là luật tự nhiên, cõi trần chỉ là nơi sống tạm và các thành viên trong gia đình cứ lần lượt theo nhau đi hết. Đi liên tục, đi mải miết, như một dòng chảy không hề ngừng lại. Những bi kịch trong tiểu thuyết Sống được kể giản dị, chân thật, và sức chấn động thật mạnh, khiến người đọc nhiều lần phải nhói lòng.

Từ tiểu thuyết này, đạo diễn Trương Nghệ Mưu làm phim Phải sống rất sáng tạo. Câu chuyện từ nông thôn được đổi sang bối cảnh thành thị, trải qua hơn ba thập kỷ, loanh quanh trong một cái ngõ bình dân. Tiểu thuyết chủ yếu xoay quanh bi kịch cá nhân, còn khi vào phim, bi kịch cá nhân được tô đậm trên nền bi kịch xã hội. Phúc Quý có hai đứa con, thì trong thời xảy ra phong trào đại nhảy vọt, dân chúng phải quyên góp xoong chảo để nấu sắt thép thủ công, “đẩy mạnh công nghiệp”, ông bị chết mất đứa con trai. Thời cách mạng văn hóa chết mất cô con gái. Nhưng không hoàn toàn như tiểu thuyết, các thế hệ nối nhau lìa trần như một dòng chảy cho đến lúc cạn kiệt, phim Phải sống vẫn để lại cho Phúc Quý người con rể và đứa cháu nội với đàn gà con mới nở, như một hi vọng sinh sôi ra những thế hệ tiếp nối. Phim đã đoạt giải thưởng lớn (Grand Prix, về thứ bậc là giải nhì) tại liên hoan phim quốc tế tại Cannes 1994 và giải diễn viên nam xuất sắc nhất cho nghệ sĩ Cát Ưu trong vai Phúc Quý.

Ba tiểu thuyết của Dư Hoa (Trung Quốc): Ngày thứ Bảy, Lục Hương dịch. SốngChuyện Hứa Tam Quan bán máu, Vũ Công Hoan dịch. Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn 2024. Ảnh: Lý Uyên

Nối tiếp, Dư Hoa viết tiểu thuyết Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, trong đó nhân vật chính là anh công nhân nhà máy tơ. Một lần về quê, anh thấy người làng ai khỏe mạnh đều đi bán máu, “đàn ông chưa bán máu bao giờ đều không lấy được vợ”. Bán máu là tiêu chuẩn chứng thực sức khỏe, người xương không cứng, đến bữa chỉ ăn được một bát cơm, thì không thể bán máu, vì thế cũng bị vợ chưa cưới hủy hôn. “Máu trong người giống như nước trong giếng, nếu không gánh, nước trong giếng cũng không nhiều lên, ngày nào cũng gánh, nước cũng vẫn như thế”. Từ đó, như được gợi ý, Hứa Tam Quan đi bán máu. Mỗi lần bán là một sự kiện trong đời: bán máu để cưới vợ. Để bồi thường thuốc thang cho con ông thợ rèn bị con mình đánh vỡ đầu. Để thăm cô đồng nghiệp mà mình thích bị gãy chân. Bán máu sau năm mươi bảy ngày húp cháo ngô giữa nạn đói thời đại nhảy vọt. Để hối lộ đội trưởng của con trai thứ hai, cậu này trong số thanh niên thành thị bị gửi về lao động ở nông thôn trong phong trào hạ phóng, cha mẹ đang hi vọng lấy lòng tay đội trưởng để con mình được trở về thành phố. Bán máu để chữa bệnh cho con cả ở bệnh viện Thượng Hải, ông phải đi tàu thủy, rồi xuống các bến tàu trên đường để bán máu. Đây là lần kinh hoàng nhất. Quy định là chỉ được bán lần sau cách lần trước ba tháng, nhưng cần gấp tiền chữa bệnh cho con, trên đường đi ông phải cứ vài ngày lại xuống một bến tàu thủy, rồi liều thân đến bệnh viện ở đó bán máu. Bệnh viện thành phố lại cho phép vì không biết ông vừa bán ở nơi khác.

Đến cuối đời, nhớ lại thời đi bán máu, bán xong phải ra quán để bồi dưỡng món gan lợn xào (tin rằng bổ máu) và rượu nếp (cho hoạt huyết), Hứa Tam Quan bỗng nhiên thèm hai món ấy. Ông quyết định đi bán máu lần nữa để được thưởng thức lại hai món ưa thích của nghề. Nhưng lần này, máu người già bị chê, bệnh viện không mua, ông cảm thấy như bị xúc phạm nghề nghiệp.

Khi mới vào nghề, Phúc Quý được truyền dạy bí quyết, thì cuối đời lại đem bí quyết truyền dạy cho hai chàng thanh niên chèo thuyền. Những vòng quay mới lại tiếp tục trong thế hệ mới của những người khốn cùng.

Không chỉ khảo sát diễn tiến tâm lý và số phận của Hứa Tam Quan, tác giả cũng trình bày sự thay đổi ở các nhân vật khác theo chiều biến thiên của xã hội, chẳng hạn lão Lý phụ trách việc mua máu ở bệnh viện. Hai lần đầu, lão đều nhận quà để cho người bán máu được ưu tiên. Lần thứ ba lão nói từ nay lão không động đến cái kim sợi chỉ của nhân dân, vì lão vừa được kết nạp vào đội ngũ. Nhưng đến khi có nạn đói thì lão bảo tạm thời tôi đói quá, tôi không thể không động đến cái kim sợi chỉ nữa… Ngay cả quán ăn cũng vận động theo sự thay đổi thời cuộc: những lần đầu đều vào gọi món gan lợn và rượu nếp một cách dễ dàng, nhưng thời có nạn đói thì bát mì nấu với nước lã cũng đắt không chịu nổi, người vừa bán máu chẳng dám ăn.

Sau tiểu thuyết này, Dư Hoa cho xuất bản Ngày thứ Bảy, với những tìm tòi cả về phương pháp biểu hiện lẫn tìm tòi về nội dung, chắt lọc từ hiện thực những vấn đề gây nhiều trăn trở.

Ngày thứ Bảy, người đàn ông bốn mươi mốt tuổi đang ngồi trong quán ăn thì quán bị hỏa hoạn, gây nổ. Sau khi chết, anh ta xuống cõi âm với bộ mặt biến dạng.

Người đàn ông này thuộc loại chết không có mồ chôn, tức không có ai khâm liệm và đưa táng. Vợ cũ đã tự tử. Bố nuôi bị ung thư, không muốn là gánh nặng cho con trai, ông đã bỏ đi để chết lặng lẽ ở một nơi xa lạ. Người đàn bà cho anh ta bú từ khi sơ sinh thì chết trong một tai nạn đáng ngờ, sau khi bà chất vấn chính quyền địa phương vì những điều khuất lấp.

Ở cõi âm, anh ta gặp những người chết cũng không có mồ chôn, đi lang thang. Họ là những người thân, hoặc những người có quan hệ xã hội, và những người mới quen. Tất cả họ đều chết một cách đầy uẩn khúc, khó xác định danh tính, cho nên không được chôn cất.

Từ đó mở ra những vấn đề xã hội, những mặt trái trong hệ thống quyền lực, những vấn nạn và bi kịch cá nhân trong một xã hội mà thường dân không lên tiếng được.

***

Trong khi đẩy những bi kịch cá nhân đến tận cùng, Dư Hoa chứng tỏ bản lĩnh của một người viết luôn luôn sáng suốt trước hiện thực. Ở tiểu thuyết Sống, viết năm 1992, ông dừng ở mức khơi gợi theo kiểu nói ít hiểu nhiều. Nhưng đến Chuyện Hứa Tam Quan bán máu, xuất bản năm 1995, Dư Hoa để cho nhân vật trải qua những biến cố cụ thể và chỉ đích danh phong trào đại nhảy vọt cuối thập kỷ 1950 và phong trào cách mạng văn hóa từ giữa thập kỷ 1960 rồi kéo dài hơn mười năm. Mỗi một biến động đều hằn sâu những vết thương trong đời sống người bình dân, những người hoàn toàn bị cuốn đi trong dòng xoáy thời cuộc và trở thành nạn nhân. Năm 2013, Dư Hoa viết Ngày thứ Bảy, bối cảnh là một thời kỳ mới, cuộc sống chuyển đổi, mang màu sắc một xã hội tiêu thụ với những đặc điểm khác hẳn. Và người mang gánh nặng của chuyển đổi vẫn là những phận người ở thế yếu, những con sâu cái kiến chỉ biết im lặng chấp nhận số phận.

Nhận định rằng 3 tiểu thuyết này tiêu biểu cho tư tưởng và nghệ thuật của Dư Hoa là dựa trên sự vận động của nội dung mà ông đã chọn và phương pháp thể hiện. SốngChuyện Hứa Tam Quan bán máu là phương pháp hiện thực nghiêm ngặt, trong đó thực tế được tái hiện trực tiếp, như vốn thế, với cách kể chuyện cổ điển. Đến Ngày thứ Bảy, Dư Hoa sử dụng phương pháp hiện thực kỳ ảo, âm dương trộn lẫn, quá khứ và hiện tại chồng lấn. Khung cảnh ở cõi âm chỉ là cách để phản chiếu hiện thực cõi trần ở một góc lạ, và trong cái lạ đó, hiện thực được phô diễn càng chân thực hơn.

Tác giả chú trọng việc tự làm mới mình, thay đổi giọng điệu qua từng cuốn sách khác nhau. Ở SốngChuyện Hứa Tam Quan bán máu là giọng kể hiện thực, đôi khi có chút chua chát giễu cợt. Ở Chuyện Hứa Tam Quan bán máu là giọng điệu của những tấn hài kịch bình dân – trên nền bi kịch cay đắng là những hoạt cảnh hài hước nhốn nháo: chuyện ngoại tình, ghen tuông, nhận hay không nhận con ngoài giá thú, chuyện gọi hồn, mê tín dị đoan, những chuyện trớ trêu trong môi trường sống…

Dư Hoa cũng từng dùng phương pháp cổ điển của tiểu thuyết Trung Quốc trong bộ Huynh đệ (2005). Ở đó ông sử dụng lối kể chương hồi, miêu tả tỉ mỉ như một bộ tranh tiểu họa, dẫn giải đến từng gợn mây ngọn gió, dông dài phong vũ giang san. Nhưng trong 3 tiểu thuyết đang nhắc đến, Dư Hoa thường xuyên đi một lối khác với nhà văn cùng thế hệ là Mạc Ngôn, vốn viết kiểu thuần túy tiểu thuyết Trung Hoa. Ở 3 tiểu thuyết này, Dư Hoa vận dụng phương pháp tiểu thuyết phương Tây, tốc độ nhanh, chi tiết chắt lọc dồn nén, tâm lý được diễn tả qua hành động, không dông dài tỉ mỉ chương hồi như bút pháp truyền thống của tiểu thuyết Tàu. Miêu tả bi kịch có thể gây đau xót và phẫn nộ nhưng mục tiêu không phải để lấy những giọt nước mắt dễ dãi theo kiểu văn chương cổ truyền châu Á, mà tác giả đã tránh được sự lạm dụng cảm xúc đến mức lâm li. Ba cuốn này vì thế dễ dàng tiếp cận người đọc của thời đại mới, và cũng được đánh giá cao hơn ở phương Tây, được dịch ra nhiều ngôn ngữ và được trao giải thưởng văn chương ở nhiều nước.