Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Dỗi hờn, từ tự ái cá nhân đến phẩm giá quốc gia

 Nguyễn Hoàng Văn

Đọc Thượng Đế thì cười của Nguyễn Khải, cuốn hồi ký như một thiên tùy bút với những hờn dỗi cá nhân khi từng phận đời bị cuốn vào vòng xoáy của thế thời, tôi chợt nghiệm ra những hệ lụy lớn hơn liên quan đến cái tính khí thường tình này của con người.

Bắt đầu từ cái dỗi của những nạn nhân trong vụ án Nhân Văn khi được Hội Nhà văn mời hồi tịch vào năm 1987. Bị khai trừ và cấm xuất bản ba năm, tính từ năm 1958, thế mà mất ngót nghét ba mươi năm vật vờ bên lề xã hội, sau khi biến động chính trị glasnostperestroika từ Moscow lan tới Hà Nội, câu chuyện oan khuất của họ mới được lật lại và, lúc này, họ đâm… dỗi. Vào lại Hội để làm gì? Hội có bảo vệ được chúng tôi khi hoạn nạn? Nhưng dỗi thì dỗi, làm người, họ khó mà thoát khỏi những ràng buộc của việc sống nên cuối cùng cũng thỏa hiệp để rồi, sau đó, lại lai rai những cái dỗi lặt vặt mà, nhìn kỹ, cũng bị cuộn vào cái vòng xoáy thế thời. [1]

Như Trần Dần, khi ốm. Được Hội cho xe hơi đến tận nhà đưa đi khám bệnh, nhà thơ… lại dỗi, đòi đi xích lô, bảo chỉ “thích đi xe của dân chứ không thích đi xe của quan. Nhưng khi đại diện của Hội, Nguyễn Khải, mang cuộc sống của vợ con đặt trên bàn cân, “Anh không thích nhưng vợ con anh thích. Ông Trần Dần đi khám bệnh bằng xe hơi thì của Hội thì người hàng phố sẽ nhìn gia đình anh bằng con mắt khác, nói năng với vợ con anh cũng bằng con mắt khác”, nhà thơ của chúng ta lại xiêu lòng. [2]

Chớ vội bảo đó là thứ vặt bởi vẫn còn có những ý nghĩa xã hội và… vòng xoáy thế thời. Người ta dỗi là do nghĩ rằng mình, hay vợ con mình, không được tôn trọng. Cơn dỗi kia có xiêu đi là do cái “cận ảnh” về gia đình mình được sống ngửng đầu, không phải dè dặt cúi xuống dưới những ánh mắt xỉa xói hay e dè, không dám dây vào, như mấy chục năm qua. Nhưng “thế thời” phải thế nào thì con người mới ăn ở với nhau như thế, vừa hèn mạt với mình vừa tệ mạt với người không may, phải sống lủi thủi một bên lề? Và đó, có lẽ, cũng là lý do để Nguyễn Tuân, sau những lần “cúi đầu” trong các cuộc kiểm điểm ở cơ quan, lại tìm đến bạn bè để… dỗi: “Thế này thì mình xin ra khỏi đảng”? [3] Dỗi đảng mà không tìm đến đảng, chỉ lủi thủi dỗi suông bên lề, ở chỗ bạn bè thân tình? Đây, có lẽ, là cách để xả bớt những ẩn ức và nhà văn, như một người “biết sợ để sống”, cũng biết “cúi đầu” trong những cuộc họp kín của chi bộ để, trong cuộc sống mở với xã hội, có thể tồn tại với cái cổ được ngửng thẳng lên.

Nguyên Hồng thì khác. Bị kiểm điểm tơi bời như là Tổng biên tập tạp chí Văn, vốn bị cáo buộc là “Nhân Văn ngóc đầu dậy”, nhà văn cương quyết không nhận sai, không chịu kiểm điểm. Kiên nhẫn giải bày mà chẳng lọt được tai ai thì… dỗi, “Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Nguyên Hồng bỏ biên chế, bỏ hộ khẩu thành phố, đưa mẹ già cùng vợ và đàn con nheo nhóc trở lại vùng núi, nơi từng cư ngụ thời chống Pháp sống một cuộc đời gian nan, khổ sở. Sống khổ đến độ, khi qua đời, “nhà chỉ còn năm bơ gạo, một con gà nhỏ, trong túi còn đúng 20 đồng”, cả cỗ quan tài cũng phải vay của hàng xóm. [4]

Nếu đó là cái dỗi của cá nhân với thiết chế thì, giữa cá nhân với cá nhân, cái dỗi vẫn bị cuốn trôi theo vòng xoáy thế thời như khi Nguyễn Trọng Oánh gặp lại Nguyễn Khải. Từng là bạn bè thân thiết thuở đầu xanh, mới về tạp chí Văn nghệ Quân đội vào cuối thập niên 1950, chia tay năm 1966, người ở lại thủ đô, người tan loãng trong chiến trường Nam bộ và đến tháng Năm năm 1975 mới gặp lại tại Sài Gòn vậy mà chẳng có cái bừng bừng của niềm vui hội ngộ, chỉ là sự ghẻ lạnh với “ánh mắt cứ nhìn chéo đi như ghét lắm, giận lắm”. [5]

Trong cái nhìn của Nguyễn Khải thì đây là cái dỗi của kẻ bị đày ải chiến trường mấy mươi năm, lăn lộn với bao điều phải chống đỡ nên chỉ có thể làm một “người viết nghiệp dư” so với người hậu phương, không cần ra chiến trường mà có thể viết về chiến tranh như thật, thậm chí hay hơn. Nhưng, theo những gì mà Nguyên Ngọc kể lại trong Đồng bằng, thì đó còn có thể là sự cay đắng của người trả giá với kẻ hưởng lợi trên sự thua thiệt của mình. Bệnh nặng giữa chiến trường gian khổ, khoảng năm 1970-71 Nguyễn Trọng Oánh được cấp trên cho về thủ đô chữa bệnh nhưng chỉ biết chờ, chờ và chờ, chờ mãi cho đến khi hết… chiến tranh bởi những đồng đội ở hậu phương như Nguyễn Khải, luôn thoái thác, luôn vịn cớ này cớ khác để bám chặt hậu phương, không chịu thay thế người anh em đang kiệt sức nơi đầu sóng ngọn gió. Năm năm chờ đợi với bệnh tật trong gian khổ, thiếu thốn thì sức đã cạn kiệt và, chút tình nghĩa ban đầu, nếu có, cũng khó mà nguyên vẹn. [6]

Cái dỗi đó, xa hơn, còn dẫn đến những đấu đá quyền lực phe phái gay gắt, tiền tuyến và hậu phương; cái giềng mối xung đột mà, ngay từ đầu, nhà lãnh đạo tối cao Lê Duẩn đã lo xa, khi cố nhấn mạnh với giới lãnh đạo miền Nam rằng chiến công là chung “của cả nước”. [7] Mà cả ông, người ở hậu phương, cũng có cái dỗi của mình, như khi không chịu ngồi vào bàn tiệc mà các cán bộ phụ nữ tại Sài Gòn bày sẵn. Huy Đức, trong Bên thắng cuộc, kể:

‘Sáng mùng Một Tết Bính Thìn (1976) bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.

Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.’ [8]

“Vả vào mặt”, vậy thì đâu là chỗ đứng của “pháp chế xã hội chủ nghĩa”? Khó mà tin rằng những lời đôi co như thế này lại bật ra từ miệng một nhà lãnh đạo, bật cả với những phụ nữ nên, ở đây, ông Duẩn đã “tức” một cách rất… bình thường:

‘Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn”. Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lãnh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: “Các đồng chí ra thăm miền Bắc thấy gì?”. Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: “Các đồng chí không hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc.”’ [9]

Không cần viện đến tâm lý học, chỉ theo nghĩa lý thông thường thôi, có thể thấy ngay rằng đó là căn cớ cho cái sự “tức lắm” của ông ta. Miền Bắc do ông lãnh đạo “nghèo quá”. Người miền Bắc, trong ghi nhận của Công an Sài Gòn năm 1976, có vào Nam thì, chủ yếu, là để “vơ vét”. Đề cập đến điều này là chạm đến điểm nhạy cảm nhất của ông, như là mặc cảm về sự bất tài. Ông “tức” nhưng chỉ biết im lặng bởi đó là sự thật, rành rành. Nhưng càng im lặng thì cảm xúc càng dồn nén và, trước cái mâm cỗ “la liệt” như gián tiếp nói lên sự phồn thịnh của miền Nam lúc ấy, nó có bục ra thành cơn dỗi, khiến ông chịu ngồi vào bàn tiệc cũng là điều dễ hiểu.

Nhưng có dỗi thì, bất quá, ông chỉ khiến những phụ nữ Nam Bộ “khóc như mưa”, cũng chẳng chết ai. Đáng nói là những cái dỗi cực kỳ nguy hiểm, có thể nướng sạch cả một sư đoàn, chưa kể những dân lành bị vạ lây bởi tên bay, đạn lạc.

Đó là Đà Nẵng trong cuộc “Tổng tấn công và nổi dậy” Tết Mậu Thân mà, trận mở màn vào đêm trừ tịch, đã bị thảm bại khi một tiểu đoàn tinh nhuệ của tỉnh Quảng Đà, gom lại, chỉ hơn hơn một trung đội. Nhưng Chính ủy Mặt trận, ông Trương Chí Cương – bí danh Tư Thuận, Phó Bí thư Khu ủy Khu 5, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng – chỉ nhìn vấn đề qua lăng kính chính trị. Thời cơ lịch sử đã đến, phải nắm lấy ngay. Sài Gòn và Huế đã vùng lên, Đà Nẵng phải chia lửa và đơn vị chủ công, Sư đoàn 2, phải đánh thẳng vào mặt quân thù. Nhưng chỉ huy sư đoàn, ông Giáp Văn Cương, sau là Tư lệnh Hải quân, lại nhìn bằng con mắt quân sự. Đã mồng Năm Tết rồi, yếu tố bất ngờ không còn nữa. Đà Nẵng lại có lực lượng phòng thủ hải lục rất mạnh, đánh thẳng vào đó là tự sát. Nhưng một sư đoàn trưởng sao có thể cãi lệnh một “trung ương dự khuyết ủy viên” nên, ở đây, ông chỉ có thể… dỗi: nếu bị buộc phải đánh thì, được thôi, sẽ chơi luôn, chơi láng, chơi tới “người lính cuối cùng.”

Người ta dỗi là do tự ái và, ở đây, theo nhân chứng Nguyên Ngọc, thuộc tổ phái viên quân khu có nhiệm vụ theo dõi chiến trường và liên lạc: “Tự ái của hai người có thể giết sạch cả một sư đoàn.” Thảm họa không diễn ra nhờ vào sự dũng cảm và sáng suốt của một thuộc cấp rất bé, tổ trưởng phái viên với sự hậu thuẫn của toàn tổ, dám đối mặt với án tử hình tại mặt trận khi thủ tiêu lệnh “dứt khoát phải đánh ngay” của nhà chỉ huy chính trị. [10]

Mâu thuẫn nảy sinh là do sự khác nhau trong cách vận hành cuộc chiến và, đến đây, tôi lại nghĩ đến sự ra đi có thể vì lý do tương tự của ông Nguyễn Chí Thanh. Sự ra đi này, vào năm 1967, đã mở ra một chương đời bi thảm cho người vợ, bà Nguyễn Thị Cúc. [11] Từ khi chồng mất cho đến cuối đời góa phụ này không bao giờ nở được một nụ cười. Ngày 30/4/1975, theo người con trai, bà “ngồi ở một góc tối trong bếp, lặng lẽ khóc một mình” và phản ứng này, trong hoàn cảnh ấy, là chuyện thường tình. Nhưng đáng nói là phản ứng sau đó khi ông Văn Tiến Dũng mời cả nhà vào Sài Gòn dự lễ mừng chiến thắng vào ngày 15/5/1975 nhưng bà dỗi. Bà không chịu đi, chỉ để ba đứa con nhỏ mở mang tầm mắt và cái dỗi của cá nhân này, hẳn nhiên, chất chứa sức đè của những giềng mối chính trị phức tạp với tầm vóc quốc gia.

Tướng Thanh, trong lời lẽ của bà, là người “chưa hề bị bệnh tim” nhưng đã chết “tức tối” vì “lên cơn đau tim”, giữa những phân hóa nội bộ. Đầu tiên là sự phân hóa Xô -Trung mà phần thắng nghiêng về phái khuynh Trung chủ chiến, trong đó có ông Thanh. Nhưng đến lượt mình thì phái chủ chiến cũng phân hóa bởi cách thực hiện cuộc chiến; hoặc là “tổng công kích – tổng nổi dậy” tại các thành phố lớn theo chiến lược của Lê Duẩn; hoặc chỉ chờ thời, né tránh những thành phố có hệ thống phòng thủ kiên cố, chỉ công kích những vị trí lỏng lẻo như Tây Nguyên, theo Võ Nguyên Giáp? [12]

Là người trực tiếp điều hành cuộc chiến ở miền Nam nhưng ngả về đường lối quân sự của Võ Nguyên Giáp, ông Thanh, người chưa hề đau tim, đã bất ngờ “lên cơn đau tim” ngay trước khi trở lại miền Nam và, thế là, chỉ năm tháng sau đó, “học thuyết quân sự” của Lê Duẫn biến thành hiện thực với cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” nói trên. Không biết bà vợ góa của ông Thanh có nhìn ra cơn cớ này hay không nhưng, rõ ràng, bà tin chắc rằng chồng mình đã chết một cách “tức tối” và “vô lý”.

Người được góa phụ này tỏ bày gan ruột là Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Toản, lúc ấy là Bác sĩ tại Quân y viện 108, là người được chính ông Thanh “giác ngộ” khi còn trẻ, lại là người tham gia chữa trị, chứng kiến cảnh ông Thanh trút hơi thở cuối cùng và cũng người ngờ vực “chưa nghe anh bị tim mạch bao giờ”. [13]

Lần theo dấu chân nhân chứng đặc biệt này sẽ khám phá những cái dỗi tương tự, khi từng cá nhân phải lặn hụp trong vòng xoáy đầy bất trắc của thiết chế . Bà là vợ tướng Cao Văn Khánh, người mà, bất kể những chiến công lẫy lừng, lẹt đẹt mãi với lon đại tá từ năm 1947 đến năm 1971 vì thành phần gia đình và, sau đó dẫu có lên tướng, vẫn luôn là cấp phó mà, thậm chí, còn phải sống e dè vì bị đưa vào “danh sách đen” trong cuộc phân hóa Xô - Trung. [14] Những oan trái như thế, phải chăng, là lý do để bà dỗi, từ chối mộ phần “tiêu chuẩn” mà thiết chế dành cho chồng, tại Nghĩa trang Mai Dịch? [15]

Và cả người con trai, một sĩ quan không quân tốt nghiệp ở Liên Xô nhưng từ bỏ tương lai hứa hẹn “xin ra khỏi quân đội làm một công dân bình thường, làm những gì mình tin tưởng và tôn trọng”. Sĩ quan này đã dỗi như thế sau khi tướng Lê Trọng Tấn, được anh xem như là người cha thứ hai, qua đời một cách tức tưởi vào cuối năm 1986 giữa lúc sắp sửa thay ông Văn Tiến Dũng ở vị trí Bộ trưởng Quốc phòng. [16] Có dỗi thì người con này, qua chính lời anh ta, đã dỗi vì niềm tin của mình đã bị chà đạp, phản bội. Những cái dỗi như thế không hề là lối hành xử của trẻ con hay của những người già quá “hóa trẻ con” mà chúng ta thường cho là không nên. Dỗi, trong những trường hợp như thế, chính là biểu hiện của lòng tự trọng, của một niềm tin sắt đá. Dửng dưng, không biết dỗi trước những điều như thế, mới là điều không nên.

Và tôi, chợt, nghĩ ngay đến sự thản nhiên không nên có của những thực khách lịch lãm nhưng phải gằm mặt xuống sì sụp miếng ngon giữa trong tiếng mắng chửi xối xả của những hàng quán ‘bún mắng, cháo chửi”. [17]

Chuyện như thế, nếu chỉ nghe suông, thì thấy khó tin bởi làm sao con người có thể vì miếng ăn mà tự hạ thấp phẩm giá của mình đến thế? Khó tin nhưng lại rất thực trên một xứ sở có quá nhiều chuyện khó tin. Với quyền lực trong tay, kẻ có quyền thản nhiên thao túng sinh kế của người bất đồng với mình, giẫm đạp không thương tiếc cả gia đình họ được thì, với quyền lực từ một bí quyết nấu nướng nào đó, tại sao bọn này không thể cửa quyền, không thể giẫm lên nhân phẩm của kẻ đang cầu cạnh miếng ăn ngon?

Khó tin nhưng có thực, vấn đề càng đáng báo động khi nó được xem như một thứ “văn hóa đặc thù” bởi, nếu thế, điều đó đã trở thành là thói quen của tập thể, cộng đồng. [18] Như một cộng đồng, khi đã dưng dưng để cho người khác chà đạp phẩm giá của mình chỉ vì miếng ngon thôi thì, vì những lợi lộc cao hơn, cũng sẽ dễ dàng cho phép kẻ khác cướp đoạt phẩm giá của dân tộc mình.

Mà, từ chỗ dửng dưng trước cảnh phẩm giá của quốc gia bị chà đạp đến sự dửng dưng, vô cảm khi chủ quyền tổ quốc bị tước đoạt hay phát mại, chỉ là một chặng đường rất ngắn.

Tham khảo:

1. Nguyễn Khải (2012) Thượng đế thì cười, NXB Trẻ, trang 163-164.

2. Nguyễn Khải, sđd, trang 164.

3. Tô Hoài (2013), Cát bụi chân ai, Hội Nhà văn – Công ty sách Phương Nam, chương 7, trang 78.

4. https://www.vinadia.org/hoi-ky-nguyen-dang-manh/hoi-ky-nguyen-dang-manh-nguyen-hong/

5. Nguyễn Khải, sđd, (173-174)

6. https://vanviet.info/van/nguyen-trong-onh/

7. Huy Đức (2012), Bên Thắng Cuộc I – Giải phóng, Osinbook, trang 252

Sau năm 1975, việc bố trí cán bộ tại miền Nam hình thành theo nguyên tắc bất thành văn “Nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết”. Ưu tiên một là cán bộ đã “bám trụ” tại chiến trường; thứ hai là cán bộ làm việc ở Trung ương cục (R) hay các khu ủy, tỉnh ủy; ba là cán bộ đã đi tù. Cán bộ tập kết là hạng bét.

8. Huy Đức, sđd, trang 253.

9. Huy Đức, sđd, trang 252.

10. Tổ phái viên đồng ý với quan điểm của ông Giáp Văn Cương và ông Lê Viết Thanh, tổ trưởng, đã xé bỏ lệnh đánh, tuyên bố sẽ nhận trách nhiệm (có thể sẽ bị xử bắn), và cả tổ đồng ý sẽ nhận trách nhiệm tập thể. Thay vào đó, họ truyền lệnh miệng là chỉ dùng hai đại đội đánh thăm dò ven sông Hàn. Sau này ông Thanh đã thú nhận trong hội nghị tổng kết chiến dịch, tuyên bố sẵn sàng nhận mức kỷ luật cao nhất và vấn đề được bỏ qua.

https://vanviet.info/van/dong-bang-ky-5/

11. https://dantri.com.vn/xa-hoi/loi-hua-nuoi-nguyen-chi-vinh-nen-nguoi-cua-cac-uy-vien-bo-chinh-tri-20220426015734706.htm

12. Cao Bảo Vân (2021), Tướng Cao Văn Khánh, NXB Tri thức, trang 467-468.

13. Cao Bảo Vân, sđd, trang 465.

14. Cao Bảo Vân, sđd, trang 465.

15. Cao Bảo Vân (sđd), trang 33.

Lời bà Nguyễn Thị Cúc, ngay sau khi Nguyễn Chí Thanh chết: “Sao mà vô lý thế Toản ơi, anh có khi mô bị tim. Chiều nay là chuẩn bị đi vào B. răng lại chết tức tối thế.”

16. Cao Bảo Vân (sđd), trang 775.

17. https://vnexpress.net/https-vnexpress-net-chap-nhan-nghe-chu-quan-chui-de-duoc-an-ngon-4447237-html-4447237.html

https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/bun-mang-chao-chui-tren-duong-pho-ha-noi-678489.html

18. https://spiderum.com/bai-dang/Bun-mang-chao-chui-net-van-hoa-doc-la-giua-long-thu-do-k3z