Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2025

Vũ trụ thơ và Vũ trụ của Đặng Tiến

Lê Huỳnh Lâm

Còn nhớ mùa Phật đản cách đây chừng 20 năm, tôi tình cờ gặp được cô Thanh Thủy, một nghiên cứu sinh văn chương ở Pháp về thăm nhà ở Huế, cô nói đang làm về trường phái Đa Đa. Sau một hồi trò chuyện về các trường phái từ thơ đến hội họa, bất chợt cô nhắc đến ông Đặng Tiến. Tôi nói: có biết nhà phê bình Đặng Tiến qua tác phẩm Vũ trụ thơ xuất bản trước năm 1975. Vậy là hôm sau, cô tặng tôi một cuốn Vũ trụ thơ II của tác giả Đặng Tiến, xuất bản năm 2008 ở New York, do Thư Ấn Quán của thi sĩ Trần Hoài Thư ấn hành.

Theo tư liệu: Nhà văn, nhà phê bình Đặng Tiến có bút hiệu: Nam Chi (thỉnh thoảng dùng). Ông sinh ngày 30-3-1940 tại làng An Trạch, huyện Hòa Vang (nay thuộc thành phố Đà Nẵng). Nhân viên ngoại giao tại Thụy Sĩ từ năm 1966. Năm 1968 từ nhiệm và sang định cư tại Pháp. Dạy tiếng Việt và Văn chương Việt Nam tại Đại học Paris 7 Denis Diderot đến năm về hưu (2005). Khởi viết đầu thập niên 1960 trên các tạp chí Mai, Tin Sách, Văn, Bách Khoa, v.v. Ở hải ngoại, cộng tác với các tạp chí Văn, Hợp Lưu, Văn Học, Thư Quán Bản thảo, Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ), Diễn Đàn, Thông Luận, Đoàn Kết (Pháp) và một số trang mạng như: talawas.org, diendan.com, v.v. Từng cộng tác với đài BBC (Luân Đôn) một thời gian.

Tác phẩm chính: Vũ trụ thơ (Nxb Giao Điểm, Sài Gòn, 1972), Vũ trụ thơ II: Thơ miền Nam trong thời chiến (Nxb Thư Ấn Quán, N.J, 2008); Thơ – thi pháp và chân dung (Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2009). Ông là tác giả của nhiều bài tản văn, tùy bút, tiểu luận phê bình với cách viết tinh tế và chứa nhiều nội hàm văn hóa.

Sau này tôi có gặp nhà phê bình Đặng Tiến vài lần, mỗi khi ông ghé Huế để hội ngộ cùng nhà văn, dịch giả Bửu Ý,... và các anh em văn nghệ trẻ. Thật tình để viết một bài về một tập tiểu luận của nhà phê bình Đặng Tiến, khi ông nhận định về thơ của các tên tuổi đã vang danh, quả thật không dễ chút nào.

Chỉ với tập Vũ trụ thơ, xuất bản năm 1972 nhận định về năm tác giả: Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng đã đủ để tạo ra một chân dung Đặng Tiến trong lĩnh vực phê bình. Tôi gọi đó là một Vũ trụ của Đặng Tiến.

Tác giả Đặng Tiến khi nhận định về Truyện Kiều của Nguyễn Du đã vận dụng vốn sở học của mình về văn hóa, xã hội, triết lý, mỹ học, tôn giáo,… để phân tích đánh giá về Truyện Kiều. Vì vậy, Đặng Tiến đã lấy nhan đề cho bài viết này “Nguyễn Du, nghệ thuật như một chiến thắng”, thật ra, có lẽ ông Đặng Tiến muốn tránh cụm từ “phép thắng lợi của AQ”, qua đó tác giả Đặng Tiến còn phê bình các nhận định của các tác giả khác nhận xét về Truyện Kiều… Khi đọc bài nhận định của ông về Truyện Kiều, chúng ta sẽ hình dung được bối cảnh của văn chương Việt Nam cách đây gần cả 100 năm xoay quanh lăng kính nhận định về Truyện Kiều. Một tác phẩm như vậy, đã tự thân ảnh hưởng đến nhiều đối tượng độc giả và các nhà phê bình đương thời. Từ Truyện Kiều của Nguyễn Du nhà phê bình Đặng Tiến đã mô tả xã hội cách xa ông gần nửa thế kỷ. Sức mạnh của một tác phẩm văn chương chính là sức ảnh hưởng xuyên thời gian, không gian. Từ đây, Đặng Tiến gợi tưởng cho chúng ta hình dung về vũ trụ trong Truyện Kiều là một vũ trụ mở, không có giới hạn…

Tác giả thứ hai trong Vũ trụ thơ là Bà Huyện Thanh Quan, đọc bài “Nữ tính trong thơ Bà Huyện Thanh Quan” của Đặng Tiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên và biết thêm một quá khứ cô độc của tác giả, ông viết tiểu luận về thơ Bà Huyện Thanh Quan như viết về tâm trạng của chính mình. Chúng ta thử ngẫm một đoạn của Đặng Tiến: “Có những năm tháng đằng đẵng tôi phải sống hoàn toàn xa cách những người thân thuộc. Một phần vì nghề nghiệp, phần khác vì chính tôi muốn xa lánh mọi liên hệ tình cảm, xã hội, để suy tư. Đời sống như thế, có lúc nó trống trải quạnh hiu đến tàn nhẫn. Có những khi đi làm về, leo thang gác để lên phòng, tôi nghe những bước chân trên bục gỗ dội vào tim đau nhói. Tôi biết trước sự trống vắng của căn phòng, tôi biết trước là không có gì chờ đợi, không có gì thay đổi cả. Căn phòng vẫn như cũ, như lúc tôi đi. Tôi bắt đầu nghe thấy mùi ẩm mốc từ bên trong, và tiếng tích tắc của đồng hồ reo, mó vào chìa khoá cửa tôi rùng mình trước khi hơi giá buốt tuôn ra luồn vào cổ áo. Như thế, nhiều đêm tôi sợ quá không dám về phòng nữa. Có một điều lạ là những giờ hiu quạnh nhất tôi thường nhớ đến thơ Bà Huyện Thanh Quan. Những buổi chiều nghe tiếng chim ríu rít gọi nhau về dưới mái hiên, tôi nhớ đến Thanh Quan, những tối nghe mưa thánh thót ngoài cửa sổ, tôi nhớ đến Thanh Quan; thậm chí có những đêm choàng mình tỉnh giấc vì một tiếng thạch sùng chắc lưỡi tôi quờ quạng vào mền chiếu lạnh lẽo, rồi lại nhớ Thanh Quan. Dần dần trở thành một thói quen, thơ Thanh Quan như một lời an ủi, một lời cứu rỗi đối với tôi trong những giờ phút chán nản nhất. Cuối cùng tôi mới hiểu ra: trong sự trống trải của tâm hồn và thể xác, thơ Thanh Quan là hơi thở đàn bà ấm áp. Đúng, một hơi thở đàn bà; hay một giọng nói êm ái, hay chỉ là cái nhìn im lặng. Có thể của người mẹ, người chị, người vợ, người yêu hay chỉ là một người em gái. Nhưng là một người đàn bà ấm áp. Có những lúc lòng mình thèm khát một cách xa vắng. Những lúc ấy thơ Thanh Quan bỗng chuyển mình thành một cánh tay nõn nà quàng qua gáy tôi, ôm lấy cổ tôi. Tôi muốn cắn mạnh vào những âm thanh trắng muốt đó. Những lúc ấy có khi tôi rưng rưng nước mắt. Một vài đêm khó ngủ, tôi lại nhớ Thanh Quan. Tôi lẩm nhẩm đọc thơ bà; một mùi da thịt đàn bà không nồng nàn nhưng mát dịu lẩn khuất bên tôi và ôm lấy giấc ngủ của tôi; tôi có mơ thấy mình đi qua cảnh Đèo Ngang, thăm đống gạch vụn hoang tàn thành Thăng Long, thăm chùa Trấn Bắc; thỉnh thoảng đi với một người đàn bà, thường thường là với những người đàn bà ban ngày tôi hằng mơ ước. Ý thức được điều đó, lắm khi tôi có cảm giác phạm tội khi đọc thơ Thanh Quan: một thứ tội lỗi u ám, đen tối nhưng êm ái; nhiều buổi sáng tỉnh dậy tôi thở ra thơ Thanh Quan theo từng hơi thuốc lá. Tôi nhìn theo chút hương khói đượm mùi da thịt của thi ca tan dần, mờ dần trong bầu trời xanh buổi sáng. Tôi suy nghiệm, nhận thấy sở dĩ thơ Bà Huyện Thanh Quan gây được một ấn tượng sâu xa như thế, là nhờ một sự nhất trí, nhờ cái hồn chung cho cả mấy bài thơ bà để lại: đó là nữ tính chứa chất trong thơ bà.”

Đọc đến đoạn này tôi không thể đọc tiếp, phải dừng lại để tưởng tượng ra âm thanh mỗi bước chân của con người cô độc khi va đập vào nỗi cô đơn cùng tột và chợt hiểu ra một điều: sức mạnh thơ ca có thể cứu rỗi cho những con người đơn độc… Phải say mê thơ đến như Đặng Tiến mới có thể viết ra những cảm thức ẩn trong sâu xa cõi hồn của ông. Viết về thơ Bà Huyện Thanh Quan nhưng tác giả đã liên tưởng và dẫn thơ của rất nhiều tác giả khác. Điều này cho thấy tác giả Đặng Tiến rất yêu thơ, và đã đọc thơ nhiệt cuồng như thế nào!

Tác giả Đặng Tiến viết bài này vào năm 1964, tức ông chỉ mới 24 tuổi. Vậy mà, sự thấu cảm và uyên bác của ông như một người trải nghiệm văn chương phải vào độ ngũ tuần hay lục tuần của ngày hôm nay. Đúng là một tài năng bẩm sinh, thiên phú mới có được! Hoặc có thể do được hấp thụ từ một nền giáo dục nhân bản khai phóng của một môi trường tự do,… để làm nên một Đặng Tiến của tuổi hai mươi.

Với thi nhân Tản Đà, Đặng Tiến gọi danh xưng “Thi sĩ của phôi pha”. Phôi pha như là quy luật của trần gian này, để tâm hồn thi nhân phải nuối tiếc khi mọi sự cứ trôi xa về quá khứ, nhưng cũng nhờ các thi sĩ đã tình nguyện rơi vào thế giới phôi pha đó để nhận diện và từ đó bằng tài năng sử dụng ngôn ngữ của mình để níu giữ một chút gì để nhớ mà quy luật nghiệt ngã đó đã lấy mất đi hữu thể của loài người. Sau những dòng văn đầy súc tích và bác học để dẫn đưa người đọc bước vào thi giới của Tản Đà, Đặng Tiến đi đến khẳng định: “Nói tóm lại thơ Tản Đà là một thế giới trong đó tất cả đều biến thể kể cả vô thể. Giữa cảnh tàn phai của tạo vật, phải chăng nhà thơ - mỗi nhà thơ Đông phương là một triết nhân đã tạo ra đời sống một triết lý phôi pha…”

Hàn Mặc Tử xuất hiện trong bầu trời thi ca Việt Nam như một ngôi sao lấp lánh, tràn đầy phúc âm, và trở nên hoang dại nhiệt cuồng của một linh hồn cô độc. Đặng Tiến đã tuyên xưng “Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử”. Nói về đức tin của các tín hữu Thiên Chúa giáo, là đi vào cõi giới của siêu hình học mà các triết gia phương Tây đã suy nghiệm suốt cả cuộc đời mình, để rồi bất chợt họ làm dấu thánh và xướng lên bài “Kinh tin kính” trong niềm hy vọng bất tận… Đọc bài của Đặng Tiến viết về thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta phải một lần nữa xác tín nhà phê bình Đặng Tiến là một người uyên thâm nhiều lĩnh vực về xã hội nhân văn, triết lý, tôn giáo... Ông đã gợi tưởng về hình ảnh một thi nhân cũng là một tín hữu Thiên Chúa giáo rơi vào luyện ngục bởi căn bệnh hiểm nghèo, đau thương trong bối cảnh đó,… nhưng với đức tin mãnh liệt vào Thiên Chúa, Hàn thi sĩ đã nhảy vào cõi ánh sáng của tình yêu để cảm tác những bài thơ thật hơn cả sự thật về sự đau đớn thể xác, sự khát khao cuồng điên và sự thể nhập vào dòng sống vĩnh hằng để chịu ơn cứu chuộc của Thiên Chúa. Hàn Mặc Tử là trường hợp độc nhất của nền thi ca Việt Nam, một tín hữu Ki Tô giáo đã xóa nhòa lằn ranh sự phân biệt của một nhóm người vì mặc cảm hay ý đồ riêng để gây chia rẽ giữa những con người Việt Nam. Trên đất nước Việt Nam hay những người Việt xa xứ luôn hướng về quê hương cội nguồn, và trong giao tiếp hay trên các văn bản cũng như trong tiềm thức của các thế hệ luôn hiển hiện hai chữ Việt Nam. Chúng ta không thể gọi người theo Thiên Chúa giáo là người Công giáo, cũng như không thể gọi người theo đạo Phật là người Phật giáo, hay những người theo Marxist là người cộng sản, người dưới chế độ miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là người Cộng hòa,… hay người miền Bắc, người miền Nam hay Trung phần, hoặc là người Kinh, người Mường, người Ê đê, J’rai, Chăm, Khơ me,… bởi đức tin, văn hóa hay chủ thuyết chỉ là một phần nằm ẩn trong mỗi cá thể còn cái hiển lộ bên ngoài chính là con người Việt Nam. Bởi quê hương, đất nước luôn thường trực trong tiềm thức mỗi con người, con bất kỳ một lý thuyết nào đó rồi sẽ trôi vào dĩ vãng theo quy luật biến dịch. Chúng ta chỉ mong sao sự chia rẽ từ những bi kịch của lịch sử, sự mặc cảm từ trong quá khứ,… và sự phân biệt, phán xét ngày mỗi mờ nhạt dần để công cuộc hòa giải hòa hợp được hiện thực hóa một cách tự nhiên, nhằm tạo nên một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, một Việt Nam thanh bình.

Đọc bài Đặng Tiến viết về thơ Hàn Mặc Tử để thấy tài kiến trúc một ngôi đền thơ đồ sộ mà Đặng Tiến đã thử hệ thống lại theo cấu trúc mà riêng ông cho là hợp lý. Điều đó, minh chứng cho một điều rằng: Hàn Mặc Tử là một người Việt Nam vượt lên mọi lằn ranh phân biệt về chủ nghĩa, tôn giáo,… một cách mầu nhiệm để tạo nên nguồn sáng đầy hưng phấn chia sẻ cho nhiều thế hệ. Và ngôi sao thi ca đơn độc sáng lóa trên bầu trời Việt, đã đi vào văn học sử Việt Nam như đi vào lòng người đọc của nhiều thế hệ suốt hành trình tính mệnh của dân tộc, như nhà phê bình Đặng Tiến đã nhận định: “Dĩ nhiên, trong tác phẩm Hàn Mặc Tử còn nhiều vết tích của một nhân bản Việt Nam. Tín ngưỡng Thiên Chúa đã nảy mầm trên một nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì hồn thơ Hàn Mặc Tử không khỏi làm một lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng khác nhau, và hỗ tương lẫn nhau, như Giáo hoàng Paul VI đã tuyên bố trên đài phát thanh Véritas chủ nhật 29-11 vừa qua, nhân chuyến công du sang Á Đông: “Chúng ta đang ở một vùng đất mà những tư trào cổ kính của Đông phương và những trào lưu mới mẻ hơn Tây phương đã kết hợp lại và làm giàu cho nhau””.

Viết về thơ Đinh Hùng với nhan đề “Thi giới Đinh Hùng”, nhà phê bình Đặng Tiến càng khiến người đọc lạc vào “Mê hồn ca” của cả Đinh Hùng và của ông. Người đọc phải đọc liên tục và liên tưởng liên tục về các gợi tưởng của Đặng Tiến khi nhận định về thơ Đinh Hùng. Chỉ với hai tập Đường vào tình sửMê hồn ca mà thi sĩ Đinh Hùng đã tạo ra một vũ trụ thơ đặc sắc, trong đó chứa cả vô thể và sự biến dịch, chứa cả cái tôi toàn thể và sự tan biến của bản ngã nhỏ bé hòa vào trong một nhất thể là nước. Nhưng, nước vốn vô hình vô ảnh mà lại soi chiếu và tương dung tương nhiếp mọi sự. Nhà phê bình Đặng Tiến viết hơn 30 trang về “Thi giới Đinh Hùng” rồi tự cho là chưa đủ, tự gán là dài dòng, luộm thuộm,… rồi ông lại trích một câu “Thương Nước vô danh, người mộng ảo” của Đinh Hùng trong Mê hồn ca để tóm tắt đầy đủ những đặc tính trong thi giới Đinh Hùng: Kích thước một nhà thơ là kích thước thi giới do người ấy sáng tạo. Hư ảo, kỳ diệu, diễm tuyệt thi giới Đinh Hùng vĩ đại.

Nhà phê bình Đặng Tiến chỉ chọn năm tác giả trên để làm thành một Vũ trụ Thơ! Nếu không đọc các nhận định của Đặng Tiến có lẽ người đọc sẽ khó hình dung được tầm vóc của các nhân vật trong tập biên khảo của nhà phê bình Đặng Tiến. Thứ nhất, Nguyễn Du qua Truyện Kiều đã tạo ra một vũ trụ cho riêng ông và cho cả thời đại ông đã sống và những tiếp biến trong tương lai, ngày nay ai ai cũng biết đến Truyện Kiều, nhưng để tường tận và cảm thụ sâu sắc chúng ta không thể bỏ qua nhận định của tác giả Đặng Tiến. Với các tác phẩm của nữ thi sĩ Bà Huyện Thanh Quan, thi nhân Tản Đà, người thơ Hàn Mặc Tử, thi sĩ Đinh Hùng qua bút pháp của nhà phê bình Đặng Tiến đã mở ra những chân trời rộng lớn, cao xa để người đọc thấu cảm một cách sâu sắc nhất. Để làm được điều này, thiết nghĩ Đặng Tiến đã đọc và len lỏi vào hồn thơ của các tác giả trên như cùng song hành với các thi sĩ để tâm sự, trò chuyện, đối thoại trong mối tương duyên của cùng một tần số, thanh điệu cho dù xa cách thời đại.

Vũ trụ thơ ngoài những phân tích, nhận định của tác giả, nó còn là một tư liệu văn học sử của một thời kỳ mà việc sao lưu, in ấn, phổ biến còn hạn chế. Đây là tập sách rất cần cho mọi người đam mê văn chương, đặc biệt những nhà nghiên cứu, những nhà giáo dạy văn chương,…

Đọc Vũ trụ thơ của Đặng Tiến không chỉ để cảm nhận về một tác phẩm, mà còn giúp người đọc nhìn về bối cảnh xã hội của từng thời kỳ qua các nhận định của các tác giả khác trong giai đoạn đó. Có thể nhìn ra ở cách viết của Đặng Tiến, ông đưa cả văn học sử bị chi phối bởi sự chủ quan của một lý thuyết mà người viết thời đó được (bị) thôi thúc tự thân từ thế giới chủ quan hoặc bị dẫn dắt bởi một ý niệm vô hình đang chi phối.

Nhan đề Vũ trụ thơ gợi tưởng đến một biện giải khái quát hóa tác phẩm trong bối cảnh nó ra đời và dự báo ảnh hưởng của các tác phẩm đó trong tương lai. Để nhận định về một tập sách phê bình của tác giả Đặng Tiến ắt sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong được bổ sung thêm khi có điều kiện. Không thể đủ đầy trong lần viết này cho một Vũ trụ Đặng Tiến. Đó là lý do tôi đặt nhan đề cho bài viết này là: Vũ trụ thơ và Vũ trụ của Đặng Tiến.