Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2025

Trương Vũ trong màu hoàng hôn (1)

 Thụy Khuê

Trương Vũ

Gần bốn mươi năm quen, chúng tôi chỉ gặp nhau mấy lần.

Biết anh vẽ tranh, nhưng tôi chưa được xem; người ở Mỹ, người ở Pháp, chân trời góc biển. Tiểu luận văn học của anh, tôi có đọc, xuân thu nhị kỳ, anh viết ít và đăng rải rác. Bốn bài: Lời bạt cho chủ đề yêu của tạp chí Hợp Lưu (2003), Giáo dục Việt Nam những vấn đề căn bản (2005),Tiếng sóng (2009), Vị trí của Sáng Tạo trong sự phát triển Văn học miền Nam sau 1954 (2014) là hình ảnh Trương Vũ như tôi đã biết: nhận định văn học tinh tế; nhà giáo tâm huyết; thiết tha trung thành trong tình bạn; có cái nhìn tổng thể về Sáng Tạo.

Khi anh bắt đầu vẽ, tôi không còn trở lại Mỹ như xưa. Rồi những năm sau này đắm chìm trong biên khảo, không có thì giờ đọc, xem, các sáng tác mới như trước.

Xin thành thật cảm ơn anh Phạm Cao Hoàng đã gửi cho sưu tập văn, vẽ của Trương Vũ, giúp tôi biết những điều bấy lâu nay chưa biết, được làm quen với một Trương Vũ khác, tôi giật mình: Con đường thiên lý đời anh tôi chưa hay, nhưng nhiệm mầu thay, những kỷ niệm chung của chúng tôi, dù sống xa nhau vạn dặm, đã được anh hòa tan trong chữ nghiã và màu sắc, thành những cánh hoa, những chiếc lá, những ngọn gió... tản mạn cả cuộc đời anh, trong có một chút chúng tôi, ẩn hiện đâu đó dưới màu thu huyền ảo, lung linh ánh sáng, chói lòa mâu thuẫn, rạng rỡ thương yêu, luận tranh hờn giận, của những cuộc đời xa xứ, của một dân tộc lạ lùng.

Nước Mỹ của người Việt di tản có hai cực: Miền Tây, Cali, là Quận Cam, thủ đô tỵ nạn, báo chí rầm rộ... Miền Đông, lãng mạn nên thơ, mang màu sắc lịch sử Hoa Kỳ, tập hợp nhiều trí thức, nghệ sĩ sống tản mát, như xa cách với một nhân quần... vội vã, bình dân.

Văn chương hải ngoại, sinh ở Quận Cam, nhưng được “chính thức” ra đời từ Washington D.C., trong buổi “Đại hội Văn bút Việt Nam Hải ngoại” tổ chức tháng Tư năm 1988. Anh Trần Thanh Hiệp, thành viên của Sáng Tạo từ 1954, người anh cả trong làng văn bút ngày xưa, là chủ tịch; tôi được anh dẫn từ Paris qua kinh đô ánh sáng, như một “mầm non có nhiều triển vọng”. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đọc diễn văn khai mạc, nhà văn Mai Thảo, từ Cali sang, trịnh trọng tiếp lời, họa sĩ Võ Đình từ Hyattsville xuống. Anh Võ Đình dồn cho tôi một trận vì bài phê bình vừa xuất hiện trên Văn Học, dám chê truyện ngắn Sứ sấm sét của anh. Rồi từ đó chúng tôi thân nhau, một tình bạn khăng khít, anh hay sang Paris, anh gọi tôi bằng o với giọng Huế đặc, cho tới khi qua đời. Năm đó tôi chưa gặp Trương Vũ.

Nhưng từ sau, mỗi lần đến Washington D.C. tôi đều gặp Trương Vũ, có khi chúng tôi ở nhà con gái anh chị. Lúc đó Trương Vũ-Võ Đình là hai “ngôi sao” ở Virginia: Võ Đình, họa sĩ kiêm nhà văn có cây cọ tài hoa, có chữ nghiã phù thuỷ. Mấy năm sau, Virginia có thêm Đinh Cường, một cây cổ thụ thơ họa từ Việt Nam sang và năm 2012, một ông thầy thuốc ở ẩn Nguyễn Tường Giang, con trai Thạch Lam, xuất bút, với Khói hồ bay lãng đãng trên dòng sông Potomac.

Trương Vũ, là Mạnh Thường Quân chính hiệu, lấy tiền lương của mình đóng góp cho “bọn nó” làm báo. Văn học hải ngoại tồn tại được, từ những ngày đầu, là nhờ thế. Nhà anh, văn nghệ sĩ phương xa đến ăn nhờ ở đậu, anh là ngân hàng thường trực chi tiền cho hai tờ báo Văn Học, Hợp Lưu, mà tôi cộng tác, chưa kể những tờ báo khác, các quỹ này, quỹ kia, tôi không biết tên.

Virginia cũng là nơi đầu tiên cho tôi yêu thu trên đất Mỹ. Bạn đến đúng lúc, thu sẽ vây quanh bạn trong vườn nhà Trương Vũ, vườn nhà Nguyễn Mạnh Hùng... Lúc đó bạn mới cảm thấy: Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông! của Bích Khê, người thơ chưa bao giờ nhìn thấy mùa thu, nhưng đã sống với thu trong tiền kiếp.

Ngồi quán thu trò truyện với Đinh Cường, Nguyễn Tường Giang... hay ngồi uống trà trong nhà giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, là bạn đã tiếp thu được nửa phần tinh hoa của kinh đô nước Mỹ. Nhưng đó là chuyện về sau.

Bây giờ trở lại những “ngày ấy”, tức là thời kỳ đầu: Nguyễn Mộng Giác ngày ngày lái xe ra chốn vắng viết Mùa Biển Động, ngàn trang, rung chuyển sự khâm phục trong tôi. Ngày ấy, Võ Đình tay viết, tay vẽ, tạo một vũ trụ chữ nghiã và hội họa giao thoa chưa từng thấy. Ngày ấy, có Đỗ Kh. vung Cây gậy làm mưa đi khắp nơi, giảng truyền thứ kinh thánh chống kỳ thị: phải biết yêu Liban, yêu người Ả Rập... như yêu chính mình; đã hơn ba mươi năm qua, Liban vẫn chờ một tình yêu đến muộn. Ngày ấy, Trần Vũ nổi lên như một khuôn mặt muốn đội đá vá trời, với giọng văn lạ lùng táo bạo, coi thường cả thượng đế. Ngày ấy, có Hồ Trường An, biệt hiệu “bà già trầu”, thường gọi điện thoại kể chuyện thâm cung bí sử trong hậu trường Văn học miền Nam, chuyện Võ Phiến và hộp thư tình Bách Khoa lãng mạn. Ngày ấy, Mai Thảo say sưa trong những bữa nhậu, có Vũ Huy Quang, đứa em thuỷ chung, hầu rượu, nghe chửi. Có Nhật Tiến nghiêm khắc phản đối lắc đầu. Có Đỗ Ngọc Yến, Phan Tấn Hải đánh xe đến cửa tiệm ăn, đón ông anh ngất ngưởng về nhà trọ. Còn biết bao nhiêu khuôn mặt nữa mà tôi không nhớ...

Tất cả chết hết rồi, chỉ còn lại Trần Vũ, Đỗ Khiêm, Phan Tấn Hải... và tôi, một bà già 80 tuổi mắt mờ chân chậm, ngày đêm lần mò viết những chương chót của một quyển sách, Alzheimer đuổi sát sau lưng, trí óc suy tàn, bắt đầu quên tiếng Pháp, rồi sẽ quên cả tiếng mẹ đẻ, tất sẽ phải dừng. Những dòng này, mượn chữ của Trương Vũ, là để đuổi bóng thời gian, vén tấm rèm che một tâm hồn khoan dung độ lượng ít thấy trong cuộc sống xô bồ nhiều căm thù và hờn oán. Là anh.

Trương Vũ, người bạn mà cho đến bây giờ, tôi vẫn tưởng chỉ có năm đức: nhà giáo, nhà khoa học, Mạnh Thường Quân, viết tuỳ bút tiểu luận. Giờ mới biết anh còn cầm cọ giải buồn, là đức thứ sáu. Qua tranh và văn anh, tôi thấy lại cả một dĩ vãng đầy ắp kỷ niệm vui buồn gần bốn mươi năm “cầm bút vui chơi”, bởi vì chúng tôi không ai là nhà nghề, tất cả đều tài tử, trừ Nguyễn Mộng Giác đã thành danh ở trong nước. Những đầu hoa, nhánh cỏ, trong tranh anh, chính là những tuổi trẻ của thời ấy phần lớn là những “nhà văn nữ” (ngày ấy âm thịnh dương suy) nổi lên trong căn vườn nhiều xuân sắc mà Trần Vũ, là kẻ làm vườn, nhổ cỏ, có khi còn tự tiện nhổ cả hoa trồng lại. Tôi không nhớ hết tên những đóa hoa đã nở rực rỡ như những mùa xuân sớm của một đất nước vừa đã tan tành.

Bây giờ nhẩm lại con đường cũ từ cuối thập niên 1980... Nguyễn Mộng Giác, là người tiên phong, thâm trầm, ít nói, nổi tiếng ở hải ngoại với những tập Mùa Biển Động, anh Giác điều hành tờ Văn Học từ số 1 (tháng 2-1986). Nhưng anh đã bắt tay vào việc trước đó: anh giúp đỡ nhà văn Võ Phiến làm tờ Văn Học Nghệ Thuật, số 1, ra tháng 5-1985. Ông Võ Phiến được tiếng thơm, nhưng thực ra công lao thuộc về Nguyễn Mộng Giác, vừa đi làm, vừa điều hành tất cả: lựa chọn bài vở và đánh máy (lúc đó chưa có máy tính, mọi người gửi bản thảo đến tòa soạn và anh Giác đánh máy, lên trang). Ông Võ Phiến làm chủ nhiệm, nhưng không phải làm gì cả. Nguyễn Mộng Giác gọi ông bằng “chú”. Hơn nửa năm sau (đầu năm 1986), Văn Học Nghệ Thuật ra được 6 số, Võ Phiến mệt mỏi, trao cho Nguyễn Mộng Giác thừa kế hoàn toàn tờ báo này. Anh Giác phải khó khăn lắm mới được phép ông cho đổi tên là Văn Học, và buộc phải viết lời cam kết, trong lá thư mở đầu của tờ Văn học số 1, sau lời của Võ Phiến tuyên bố rút ra vì vấn đề sức khoẻ, là lời của Nguyễn Mộng Giác cam kết sẽ theo đúng chỉ thị và con đường Võ Phiến đã đặt ra.

Tuy nhiên trên Văn Học những số đầu vẫn không thấy ghi tên Nguyễn Mộng Giác làm chủ bút, phải nửa năm sau mới thấy tên anh được hiện ra là người “Phụ trách bài vở và điều hành chung cùng với một “Ban biên tập” mới, gồm nhiều người, trên Văn Học số 7 (tháng 8-1986), mà phần lớn ở xa hoặc chẳng liên quan gì đến việc “biên tập” cả. Khi sang Paris, tháng 7-1989, anh tâm sự với người bạn ở xa, anh đã bị “chú” đì như thế nào. Đối với tôi, Võ Phiến như ông Địa trên bệ thờ, kính cẩn, mỗi lần sang Cali đều được anh Giác hay thầy Từ Mẫn lái xe từ Quận Cam lên Los Angeles cúng bái. Nguyễn Mộng Giác mới là người anh cả, khai sinh và dìu dắt cái mà sau này sẽ được gọi là Văn học hải ngoại.

Nguyễn Mộng Giác làm việc cật lực, có Cao Xuân Huy giúp sức đánh máy, có anh Nhật Tiến trợ lực trong ngoài. Hoàng Khởi Phong đứng tên trên giấy là Giám đốc cả hai tờ Văn Học Nghệ Thuật Văn Học.

Trong ba năm, Nguyễn Mộng Giác đã quy tụ được tất cả “nhân tài năm châu” thời ấy cho tờ Văn Học, nhờ cách cư xử chân tình và với nhã độ, anh viết thư riêng cho từng tác giả. Tới khi chị Diệu Chi qua, anh Giác nhất định thôi. Trương Vũ từ Washington D.C. qua, tôi từ Pháp sang, khuyên can không được. Anh Giác chịu nhận giữ tên làm vì: Văn Học số 39, tháng 4-1989, chính thức ghi: Chủ nhiệm Nguyễn Vinh Hiển; chủ bút Nguyễn Mộng Giác, Tổng thư ký toà soạn Hoàng Khởi Phong, là bút hiệu của Nguyễn Vinh Hiển. Cao Xuân Huy vẫn trung thành đứng sau anh Giác. Có Khánh Trường nhập cuộc. Trần Vũ, xuất hiện với truyện ngắn Ngôi nhà sau lưng văn miếu trên Văn Học số 42 (tháng 7-1989)... Nguyễn Mộng Giác đã chấm dứt vai trò khai trương và xây dựng văn học hải ngoại, từ nay, Văn Học nhường bước cho một tập san khác: Hợp Lưu.

Năm 1991, Khánh Trường đứng ra thành lập tờ Hợp Lưu với Phan Tấn Hải trợ lực, can đảm chủ trương “giao lưu” cùng các nhà văn trong nước, một lập trường còn rất kỵ, bị đánh tơi bời, nếu không có sự che chở của anh Mai Thảo. Mai Thảo vốn ghét cộng sản, nhưng anh bảo vệ những đứa chủ trương khác với anh, hồi đó tôi phụ trách chương trình Văn học nghệ thuật ở RFI, cũng bị coi là thân cộng. Hỏi anh, anh bảo: “Cô muốn làm gì thì làm. Anh là người đích thực tôn trọng tự do của người khác, người Việt chúng ta không có nhiều. Anh Phạm Duy chỉ vì về nước hơi sớm, đã bị tẩy chay cho đến chết.

Ở Cali, ngoài hai tờ Văn HọcHợp Lưu, còn có tờ Văn của Mai Thảo và tờ Khởi Hành của Viên Linh. Văn sống phong lưu nhờ những độc giả trung thành của Mai Thảo ở khắp năm châu, và Viên Linh là một kiện tướng trong nghề báo, đến Nguyễn Huy Thiệp ở trong nước ra, cầm tờ Khởi Hành, cũng phải khâm phục. Đó là những tờ báo cột trụ của Văn học hải ngoại.

Trương Vũ và Nguyễn Mộng Giác là hai người bạn tôi phục nhất. Nguyễn Mộng Giác là một nhà văn tên tuổi, ai cũng biết. Còn anh, Trương Vũ, những việc anh làm, ít người biết, nhưng quan trọng hơn nữa là tư tưởng về đất nước con người đã âm thầm len lỏi vào tác phẩm của anh, cũng không mấy ai hay.

Đối với tôi, anh và anh Giác là hai người bạn mà tôi khâm phục ngoài chuyện văn chương: cả hai di tản một mình, chờ vợ hơn mười năm, mang hình ảnh “vọng phụ” trái chiều, một sự thủy chung thần thoại trong thời đại chúng tôi. Từ khi chị An và các cháu sang Mỹ, anh chị Trương Vũ tổ chức họp bạn tưng bừng, mỗi khi có khách quá cảnh. Trong những bức vẽ chân dung bè bạn và người thân, Trương Vũ lột tả tài tình vẻ đẹp hiền hậu của người bạn đường, như để tạ ơn đời.

Bẵng đi bao năm, tôi đã quên hẳn cái “lịch sử” này, cho đến hôm nay, khi đọc Đuổi bóng hoàng hôn và xem tranh Trương Vũ, tôi nhặt ra từng kỷ niệm, tôi đếm ra từng khuôn mặt.

Ở Trương Vũ, là lòng vị tha ít thấy trong lòng người di tản, anh đã sớm bước qua những tương tàn đổ nát, phân liệt chia lìa để nhìn thấy tình thương. Từ lâu rồi anh không còn chia đôi chiến tuyến: chữ anh nhẹ nhàng như những sợi bông gòn mềm mại đắp lên vết thương cho mau lành. Anh bảo: “Thời gian qua, bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu biến cố dồn dập trên thế giới, và bao nhiêu sự thật phơi bày trên đất nước, tôi không còn nhìn về ngày 30 tháng 4 như xưa nữa”.

Những kỷ niệm của anh được che bằng màn sương mờ ảo của yêu thương và tha thứ. Những khuôn mặt xưa chói rạng hơn bao giờ qua những đóa hoa muôn màu mà anh vẽ trong những ngày tháng khác nhau, anh dùng cảnh nói người: những tội ác, phản bội, thù nghịch, căm hờn được hóa thân trong sắc thắm của hoa, thành nồng nàn, được đốt trong màu đỏ của lửa, thành những tàn tro vô hại. Còn quá ít những tác phẩm giải oan như thế, đất nước này cần nhiều ngòi bút như anh, cần nhiều bức vẽ như tranh anh.

Đuổi bóng hoàng hôn khởi hành bằng chuyến vượt biển, vào một đêm đại dương tháng 3 năm 1976, của một người và bốn bạn đồng hành, không kinh nghiệm hải hành, trên chiếc ghe đánh cá nhỏ, chèo từ Nha Trang đến Phi Luật Tân. Một đêm, đang chèo, người ấy nhớ câu thơ Victor Hugo ca tụng những người thủy thủ lao mình vào đại dương, bao người đi không trở lại. Người ấy và bốn bạn đồng hành đến nơi vô sự, con thuyền là một trong những chiếc di tản đầu tiên cập bến Manilla. Nhưng những chiếc sau, không may mắn thế... Từ đó, người ấy xé câu thơ Victor Hugo trong ký ức, bởi chữ không có nghiã gì trước một mạng người…

Ba mươi nhăm năm sau, người ấy nhớ tới Những cơn mưa ngày cũ, ở Nha Trang, ở Sài Gòn, không giống mưa trên đất Mỹ, hẳn rồi, bởi làm sao Mỹ có được một cậu học trò dám “dạy” thầy không nên bắt học trò xếp hàng đón một ông lớn tới thăm trường. Một cậu học trò khác, sau ba mươi tháng tư hỏi thầy: “Tại sao trước đây thầy như vậy mà bây giờ thầy lại như vậy?”. Thầy thần mặt ra. Những giọt mưa ngày cũ tưới lạnh tâm hồn, khiến thầy giật mình, tỉnh lại. Rồi trong những năm biệt xứ, học trò đến chăm sóc gia đình thầy, học trò dạy học con thầy.... Quê hương anh và tôi có những con người như thế...

Rồi anh chị trở về nước năm 2001, 2006... người học trò năm xưa đến xin lỗi đã “trót dạy” thầy. Trải những thăng trầm, biến đổi, với những kiên gan, bền chí, học trò anh đã vượt qua và trở thành những giáo sư đại học như anh ngày trước... Tôi đọc trong anh niềm tin tưởng ở tương lai. Tuy không chung quá khứ với anh, nhưng có những kinh nghiệm khác, khiến tôi cũng tin tưởng vô cùng vào tuổi trẻ nước tôi.

Nhưng đoạn gây xúc động hơn cả, là khi anh đọc bài thơ Độ Tang Càn (Qua sông Tang Càn) của Giả Đảo: Khách ở Hàm Dương đến trọ Tinh Châu đã được mười năm, ngày đêm tưởng nhớ Hàm Dương. Một ngày kia khách vượt sông Tang Càn, lại ngoảnh về Tinh Châu mà nhớ. Rồi anh thả một câu kết mơ hồ loang sóng như nói với chính mình: “... phải có những hình ảnh, những kỷ niệm, những giây phút bất chợt, những vết son hay những vết hằn, đã đi theo người khách từ Hàm Dương đến Tinh Châu. Rồi từ Tinh Châu, theo khách, vượt sông Tang Càn, đã làm cho khách lớn hơn, và ở với khách cho đến ngày trút hơi thở cuối cùng”.

Anh và tôi đều là những kẻ đi về Tang Càn nhiều bận và cũng đã nhiều bận hỏi lòng, nhưng dường như không ai trả lời được dứt khoát. Hơn sáu mươi năm sống ở Pháp, biết bao lần tôi tự hỏi quê hương là gì? Là món ăn, là giọng ca quan họ, là thể chế, là cảnh đẹp tuyệt vời, là thành quách lịch sử? Cuối cùng, tôi tự nhủ: quê hương chỉ đơn thuần là dân tộc và gia đình, nhưng dân tộc tôi ở bên này sông, gia đình con cháu tôi ở bên kia sông, làm sao tôi chọn?

Nói với chàng Siêu là câu chuyện của những người chinh phu hiện đại, bạn anh, trong một đêm liên hoan chào quân kỳ trên đất Mỹ:

Lúc đó, bạn tôi, cựu tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Thủy Quân Lục Chiến bước lên máy vi âm. Có vẻ như anh lấy hết sức bình sinh để hét lên một tiếng “nghi...ê...ê...m” rung động cả phòng tiệc. Tiếng hô của anh kéo dài hơn bình thường. Tiếng ồn ào giảm dần. Cuối cùng thì tắt hẳn. Tiếng hô của anh cũng ngừng lại ở đó. Nhờ vậy quốc kỳ và quân kỳ được tiễn đưa trong trang nghiêm.

Sau đó, nhạc dạ vũ trổi lên. Vui nhộn. Một số người tiến ra sàn nhảy, dẫn dầu là một trung tướng thuộc quân lực Việt Nam Cộng Hoà”.

Rồi anh liên kết tiếng hô của vị sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, bạn anh, với tiếng hô của một sĩ quan Nhật trong phim Những giấc mơ của Kurosawa.

Rồi anh kể: người sĩ quan vừa ra khỏi trại tù, lầm lũi đi vào đường hầm để trở về nhà, và anh viết tiếp:

Ra khỏi đường hầm, anh khẽ quay đầu nhìn lại và thấy bóng một người đang chạy ra. Một người lính trang bị súng ống đầy đủ như lúc lâm trận. Anh thốt lên: “Binh nhì Noguchi?” Người lính đứng nghiêm – một người lính rất trẻ – gập người xuống chào một cách kính cẩn rồi nói: “Thưa đại đội trưởng. Chính tôi.” Sau đó người lính hỏi dồn dập: “Đại đội trưởng, ông hãy nói thật với tôi đi. Có phải tôi đã tử trận rồi không?... Tôi nhớ là tôi đã đi về nhà và đã ăn những cái bánh mẹ tôi làm cho tôi...”

- “Noguchi... Em trúng đạn và ngất xỉu. Rồi em tỉnh dậy. Tôi đỡ em trên tay. Em nói với tôi là em đã đi về nhà và ăn những cái bánh đặc biệt do mẹ em làm... Khoảng năm, sáu phút sau em tắt thở. Em chết thật rồi mà”. Noguchi lảo đảo, rồi đứng nghiêm và gào lên:

- “Vâng... Nhưng... ba mẹ tôi vẫn tin là tôi còn sống.

[…]

Noguchi thất thểu đi trở lại rồi biến mất trong đường hầm.

Người sĩ quan sắp sửa cất bước. Bỗng anh lại nghe từ trong đường hầm tiếng đi rầm rập của một toán quân... tiến gần đến anh, người dẫn đầu hô to ra lệnh toán quân dừng lại, ra lệnh bồng súng chào, rồi dõng dạc nói:

- “Trình diện đại đội trưởng. Trung đội 3 đã trở về doanh trại... Hoàn toàn vô sự.”

Người sĩ quan nhìn chằm chặp vào toán quân. Nửa cười, nửa mếu. Một phút im lặng... anh lấy hết bình tĩnh, rồi nói:

- “Các anh em nghe đây... Trung đội 3 đã hoàn toàn bi tiêu diệt... anh em đều tử trận... Tôi đã tung Trung đội 3 vào trận chiến để rồi tất cả đều bị giết. Lỗi tại tôi... Tôi chỉ mong được chết như các anh em... Hãy về lại nơi nằm nghỉ của mình đi. Hãy yên giấc với ngàn thu đi.”

Gài lại nút áo cho nghiêm chỉnh, lấy hết sức bình sinh hô “nghiêm”, hét thật to cho Trung đội quay lại. Trung đội 3 làm theo lệnh anh, bước răm rắp trở lại đường hầm”.

Những dòng trên đây, Trương Vũ viết lại từ phim Những giấc mơ của Kurosawa, nhập vào đầu người đọc như một màn bi kịch lạ lùng xuyên âm dương.

Akina Kurosawa là một trong những tượng đài điện ảnh thế giới, ngự trị từ Rhashomon. 1950, ông đã sáng tạo ra cách nhìn đa chiều một sự kiện, trong điện ảnh. Các đạo diễn lừng danh Sergio Leone, George Lucas, Steven Spielberg... từng nhận ông là thầy. Những giấc mơ (Yme, Dreams, Rêves) là một trong ba tác phẩm cuối cùng (sau đó còn hai phim nữa). Năm 1990, phim Những giấc mơ được chiếu ở liên hoan Cannes, ban tổ chức trịnh trọng trao Cành cọ vàng cho cả sự nghiệp của Kurosawa, nhưng không chú ý đến giá trị của Những giấc mơ. Trong danh sách tác phẩm của Kurosawa, cũng không ghi phim này.

Nhờ Trương Vũ rút ra đoạn mơ trên đây, tôi mới biết rằng cuối đời Kurosawa đã “liên lạc” được với thế giới bên kia, ông đã mô tả cảnh đi về giữa hai cõi âm dương qua con đường hầm “có thật” mà người Âu không thể hiểu. Tả cảnh chiến tranh đến được như thế, thực ngang ngửa Guernica, tuy không có những nhát giáo gươm, đạn bom xé vụn như nét vẽ của Picasso, nhưng có độ kinh hồn, sâu lắng khác, bởi Kurosawa đã đi xuyên hết hai cõi. Tôi suy ra: không biết Kurosawa còn bao nhiêu đoạn phim kiệt tác như thế không được người Âu “công nhận”.

Sự cách biệt, không phải là Âm Dương mà là Á Âu, trường tồn và miên viễn. Năm 1968, Kurosawa được trân trọng mời làm đạo diễn phần Nhật của phim Tora! Tora! Tora! về trận Pearl Harbour: 20th Century Fox và Kurosawa Production hợp tác sản xuất. Ít lâu sau Kurosawa bị sa thải, người ta xì xào vì bệnh “tâm thần”, và ông đã phải khốn đốn trong 10 năm sau đó. Là người Việt, tôi để ý thấy điều này: trong phim Mỹ về chiến tranh Việt Nam, người ta thường xóa sổ quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Dù người di tản trên đất Mỹ có đến hàng triệu, nhưng họ lại mượn người Lào, người Miên, người Mã... đóng phim, nói một thứ tiếng lạ lùng nào đó, được gọi là tiếng Việt.

Karosawa hình như chưa nghĩ đến tại sao hai quả bom nguyên tử trên Hiroshima và Nagasaki có thể gợi nhớ đến một thứ được coi là tội ác chống nhân loại, mà cả thế giới hình như chưa ai dám nghĩ đến, dám gọi tên ra? Vậy thì làm sao ông có thể cộng tác với người Mỹ để làm một phim chủ đề Pearl Harbour, với tham vọng ngầm biện hộ cho Nhật Bản. Điên là phải. Ai cho phép Nhật Bản được độc quyền tội ác với Hoa Kỳ?

Nhưng Trương Vũ làm gì trong cái thế giới tắc nghẽn cảm thông này?

Trương Vũ đã đem tiếng hô nghiêm của vị sĩ quan Nhật gọi lính quay về nhà mồ, đặt cạnh tiếng hô “nghi...ê...ê...m” của vị sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, trước khi người chỉ huy tối cao ra sàn nhảy. Hai thái cực. Một sự sắp đặt tài tình, từ chủ ý lẫn dàn cảnh mà chỉ một người cựu quân nhân như Trương Vũ mới đủ thẩm quyền để viết như thế. Hiểu thế nào mặc lòng, và như thường lệ, đối với những tác phẩm có chiều rất sâu, bạn muốn nghĩ thế nào cũng được.

Truyện ngắn Nắng vàng trong rừng thu bắt đầu bằng một hình ảnh tầm thường mà chĩu nặng: Người đàn bà da trắng ngồi trước thềm nhà, ở Philadelphia, bà ngồi im lặng, bất động, mắt nhìn xa, đặm chiêu, trông như một pho tượng Rodin... mỗi khi tác giả đi qua để đến trường, anh đều thấy bà... Anh tra vấn, anh phân tích xem bà nghĩ gì, cái đầu ấy chứa bao nhiêu suy tư, bao nhiêu kỷ niệm, anh tưởng tượng mình sẽ đến gần trò chuyện, hỏi thăm cái dĩ vãng xa xăm ấy mà anh chưa dám, anh không biết làm cách nào. Rồi anh rời Philadelphia, khi trở lại, người đàn bà ấy không còn ngồi đấy nữa, nhưng những hình ảnh phụ nữ bất hạnh của dân tộc anh, tiếp nối luồn vào hồn anh, không ngừng trong suốt cuộc đời còn lại, dù không dự vào đời họ, anh chỉ nghe kể lại, nhưng vẫn bị họ chi phối, vẫn bị họ đánh thức... Đó là kiếp của những người cùng chung hai chữ đồng bào. Rồi anh vẽ bức tranh Nắng vàng (2010), để đắp lên những đớn đau của họ bằng màu sắc.

Trong tự truyện Về lại Sorriento, anh nhớ lại hình ảnh bà Hai điên, ở gần ngôi nhà cũ của anh trên đường Hàn Thuyên “…một người đàn bà thường ngồi vắt vẻo trên bức tường trước nhà, la hét, chỉ chỏ, cười nói, chửi rủa. Năm tôi khoảng mười tuổi, bà chưa điên. Một buổi chiều gần tối, khi đang chia phe đánh lộn với lũ bạn trong xóm thì có đứa bé khoảng năm tuổi đến nói với tôi là bà Hai gọi tôi. Tôi theo nó vào nhà, một căn nhà tăm tối, nhỏ như một cái am, ở sau những căn nhà cất cho nhân viên quan thuế. Bà Hai muốn tôi viết dùm một bức thư cho mạ và những bà con của bà ở Huế. Bà đọc cho tôi viết và hứa sau khi viết xong sẽ cho tôi hai đồng. Đang viết nửa chừng, tôi nhớ đến “trận đánh” ngoài kia nên nói với bà tôi phải chạy ra chơi sau đó sẽ trở lại viết tiếp. Tôi đã không trở lại viết tiếp. Rồi quên bẵng đi cho đến khi tôi đã trở thành người lớn, đã lập gia đình và có con, và bà Hai đã trở thành bà Hai điên...

Cách đây tám năm (tức là năm 2001) anh trở về Nha Trang, anh có đến thăm lại khu nhà cũ, bà Hai điên không còn nữa... Anh tự dằn vặt, nếu hồi đó anh không ham “trận đánh”, anh ở lại viết nốt lá thư cho bà, anh đã... anh đã... cuối cùng anh chỉ có một nguyện ước là làm sao đi ngược thời gian trở lại đúng ngày giờ hôm ấy, viết nốt lá thư cho bà Hai. Một nguyện vọng nhỏ nhoi, nhưng anh không làm được. Anh viết cho anh mà cho tất cả mọi người, chúng ta biết bao nhiêu lần thất hứa, biết bao lần quên, biết bao lần tưởng mình vô tội... Tôi nghĩ trí tưởng tượng phong phú của anh chừng như đã nghĩ đến khả năng: nếu anh giúp bà viết thư cho mạ ngày ấy, biết đâu bà sẽ không điên, biết đâu... biết đâu... Trong hội họa của anh, tôi thấy nhiều phiến buồn chồng chất lên nhau tương tự như những biết đâu, biết đâu... ngày ấy.

Hồi ức Mưa ướt Vị Thành tập hợp nhiều hồi đoạn của đời anh, từ lúc còn là giáo sư toán trẻ, bị động viên, ra trường sĩ quan, được gửi đến một nơi hẻo lánh. Một ngày mưa trên đỉnh đồi hải đảo, anh lính trẻ ngồi nhớ đến – không phải người yêu mà là – những câu thơ Vương Duy, cả bản chữ Hán lẫn bản dịch Ngô Tất Tố:

Trời mai mưa ướt Vị Thành

Xanh xanh trước quán mấy nhành liễu non

Khuyên chàng hãy cạn chén son

Dương Quan đến đó không còn ai quen

Ai viết như thế thì tôi không tin, nhưng Trương Vũ viết tôi tin. Bởi vì bốn câu thơ này chính là chân dung anh, là bức chân dung còn thiếu trong sưu tập tranh chân dung của họa sĩ Trương Vũ, vì anh bảo: nhìn gương thấy mặt mình nản quá. Ai lại viết như thế! Người ta thường thấy mặt mình đẹp quá, nhiều hoạ sĩ có đến cả chục bức chân dung tự họa kia mà. Nhưng thôi, xin trở lại với câu thơ Vương Duy:

“Dương Quan đến đó không còn ai quen”.

Ta chẳng cần biết Vị Thành ở đâu, Dương Quan ở đâu, bởi vì nhà thơ đã biến đổi nhiệm vụ định danh của những chữ này, cho chúng trở thành vô danh, bất định:

Trời mai mưa ướt Vị Thành hay Trời mai mưa ướt Long Thành cũng thế.

Dương Quan đến đó không còn ai quen hay Hàm Dương đến đó không còn ai quen, cũng thế.

Tức là nhà thơ đã làm cho tâm sự của riêng mình thành tâm sự của trăm mình, vạn mình...

Để mấy trăm năm sau, anh lính mới Trương Vũ, trên đỉnh đồi hải đảo, đọc thơ Vương Duy thấy đúng tâm trạng mình. Rồi thơ ám vào anh, nên lúc nào anh cũng thấy đúng, từ Nha Trang sang Manilla, từ Manilla đến Philadelphia, từ Philadelphia về Washington D.C., rồi từ Washington D.C. trở lại... cố quận: Anh đi đến đó, không còn ai quen... người đàn bà Rodin, bà Hai điên cũng không còn, chỉ mưa là còn. Nhưng ngược lại, anh mua được một mảnh trời: trời thơ mà anh yêu quý và anh đã ở với thơ suốt cuộc đời làm khoa học, anh khuyên mọi người: “Dù có làm thơ, viết văn hay không, hãy đến với cuộc đời bằng tâm hồn thi sĩ. Bạn sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn”. Mấy câu thơ Vương Duy theo anh trong hội họa hay anh theo Vương Duy không thể biết được nhưng chắc chắn đó là những câu thơ định nghĩa đời Trương Vũ.