Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2025

Suy ngẫm về Cách mạng Văn hóa và Cải cách Thể chế Chính trị

 Vương Hỗ Ninh, http://my.cnd.org/modules/wfsection/article.php?articleid=32844

Nguyễn Tuấn dịch

Thế hệ trẻ bây giờ may mắn hơn các thế hệ trước vì có công nghệ thông tin, AI, v.v. Ngày trước khi lãnh đạo nghĩ ra một ý tưởng chính trị nào, thí dụ như “làm chủ tập thể “ đều được đưa vào giáo trình cho học sinh học, rồi các câu chuyện “giá lương tiền”, tỉ giá “Tô”, khái niệm về “Hộp đen”, v.v., nhưng chưa có nhà lý luận nào của ta có bài viết tổng kết các “kinh nghiệm” đã kinh qua các trải nghiệm này hay các thực tiễn khác như “Cải cách ruộng đất”, “Nhân văn Giai phẩm”, “ Đánh tư sản mới”. Nhìn sang Trung Quốc, họ có nhiều thực tiễn “cách mạng” như “Phong trào phản hữu”, “Phong trào giương cao ba ngọn cờ đỏ”, “Cách mạng Văn hóa”, nhưng họ có Vương Hỗ Ninh một nhà lý luận tổng kết lại dưới nhan đề bài viết: “Văn cách phản tư dự chính trị thể chế cải cách” (Suy ngẫm về Cách mạng Văn hóa và Cải cách Thể chế Chính trị - 文革”反思与政治体制改革) được sửa đổi 5 lần phát hành ngày 27/3/2012.

Bài viết dài, tìm mãi mới thấy, mấy ngày hôm nay các báo chí mạng Trung Quốc có nhiều bình luận rầm rộ, trong đó nêu lên số người chết cụ thể từng giai đoạn và các khái niệm như: công trình chính trị, kỹ thuật chính trị, v.v.

Nguyễn Tuấn


Một hệ thống chính trị hoàn chỉnh và tốt phải có khả năng ngăn chặn được “Cách mạng Văn hóa” xảy ra, việc phát động, tổ chức và tiến hành Cách mạng Văn hóa đều vượt ra ngoài phạm vi của Hiến pháp và pháp luật, nhưng hệ thống này lúc đó lại không có khả năng ngăn chặn. Hệ thống chính trị được thiết lập bởi Hiến pháp năm 1954 đã ngay lập tức bị Cách mạng Văn hoá phá hủy, đây là điều đáng được nghiên cứu cẩn thận.


Vì vậy việc tuân thủ chế độ Hiến pháp là rất quan trọng. Nếu một công dân bị bắt thì quyền tự do cá nhân của người khác có thể bị xâm phạm, hoặc công dân khác có thể bị đe dọa bằng bạo lực, thậm chí các hoạt động học thuật đang hoạt động có thể bị phá vỡ mà không bị truy cứu trách nhiệm nếu không tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật và nguy cơ Cách mạng Văn hóa lại tái diễn. Hai mươi năm trước, "Cách mạng Văn hóa" đã diễn ra ở Trung Quốc, mang đến thảm họa nghiêm trọng cho người dân Trung Quốc. Chúng ta đã lật sang trang mới chỉ cách đây mười năm. Tuy nhiên, vẫn có lý do để suy ngẫm về tình trạng bất ổn dân sự này theo thời gian nhằm ngăn chặn những thảm họa như vậy xảy ra lần nữa.

Một quốc gia phải coi những bài học đau thương nhất của mình như một tấm gương, thường xuyên lau chùi và soi vào đó, để các thế hệ khác sau này không lặp lại những sai lầm lịch sử và toàn thể dân tộc có thể tiếp tục tiến bộ. Cách mạng Văn hóa xuất hiện không phải là ngẫu nhiên. Xét về mặt khái niệm, gốc rễ tư tưởng trực tiếp là việc không kịp thời chuyển trọng tâm đấu tranh sang phát triển kinh tế, vẫn tiếp tục bám chặt vào đường lối tư tưởng "lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt", "phá hoại là ưu tiên hàng đầu" khi giai cấp bóc lột đã cơ bản bị xóa bỏ. Tuy nhiên, nếu không có những điều kiện nhất định, “Cách mạng Văn hóa” sẽ khó có thể xảy ra. Ngoài những lý do về lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hóa và nhiều lý do khác, hệ thống chính trị không hoàn hảo và không lành mạnh là một lý do không thể xem nhẹ.

Việc suy ngẫm về “Cách mạng Văn hóa” từ góc độ hệ thống chính trị là một khía cạnh đặc biệt quan trọng trong việc tổng kết những bài học lịch sử của Cách mạng Văn hóa. Trong những năm gần đây, mọi người đã xem xét và phân tích Cách mạng Văn hóa từ nhiều góc độ khác nhau, bao gồm tư tưởng, ý thức hệ, văn hóa và kinh tế, nhưng vẫn chưa có đủ nghiên cứu để phản ánh về Cách mạng Văn hóa từ góc độ chính trị. Hệ thống chính trị thường trở nên lành mạnh hơn thông qua việc suy ngẫm về một số biến động chính trị. Một hệ thống chính trị không thể hoàn hảo ngay từ khi được thành lập. Phải thường xuyên nhận ra những khuyết điểm, hạn chế của nó trong hoạt động thực tiễn và trong sự hỗn loạn, từ đó cải tiến và hoàn thiện. Nếu không có quá trình kiên trì rút kinh nghiệm, hệ thống chính trị cuối cùng sẽ trở nên không thể đảo ngược.

Cách mạng Văn hóa chắc chắn là một thảm họa lớn, nhưng nó cũng cung cấp cho chúng ta cơ sở để xem xét hệ thống chính trị của đất nước (Trung Quốc). Khi nhìn lại quá khứ để học hỏi những điều mới mẻ, ngày nay, chúng ta bắt tay vào cải cách hệ thống chính trị, việc suy ngẫm sâu sắc về Cách mạng Văn hóa từ góc độ chính trị là điều vừa hữu ích vừa cần thiết.

Cần phải nói rằng, một chế độ chính trị hoàn hảo và tốt phải có khả năng ngăn chặn được “Cách mạng Văn hóa”, bởi vì việc phát động, tổ chức và tiến hành Cách mạng Văn hóa đều vượt ra ngoài phạm vi Hiến pháp và pháp luật, không phù hợp với trình tự chính trị khoa học và dân chủ. Tuy nhiên, hệ thống chính trị thời đó chưa có khả năng này. Hệ thống chính trị được thiết lập theo Hiến pháp năm 1954 đã bị phá hủy hoàn toàn bởi Cách mạng Văn hóa. Điều này đáng để chúng ta nghiên cứu cẩn thận. Bỏ qua những lý do khác, chúng ta hãy cùng suy ngẫm về Cách mạng Văn hóa từ góc nhìn của hệ thống chính trị. Theo góc độ kỹ thuật của hệ thống chính trị, chúng ta có thể thấy rằng cấu trúc và chức năng của các liên kết sau đây có liên quan đến việc không ngăn chặn được Cách mạng Văn hóa:

1. Đảng cầm quyền với tư cách là hạt nhân lãnh đạo đời sống chính trị đất nước chưa hình thành được hệ thống dân chủ hoàn chỉnh và lành mạnh. Đảng ta lãnh đạo nhân dân Trung Quốc trong những trận chiến đẫm máu và đấu tranh gian khổ để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, đã tạo dựng được uy tín chính trị cao cả của Đảng trong nhân dân, thực hiện sự lãnh đạo toàn diện đối với đời sống chính trị xã hội, phù hợp với con đường phát triển của đất nước. Tuy nhiên, cùng với những thay đổi của tình hình và sự phán đoán sai lầm về quan hệ giai cấp xã hội trong điều kiện xã hội chủ nghĩa, các khái niệm dân chủ của các nhà lãnh đạo đảng lúc bấy giờ dần suy yếu, và "chủ nghĩa chủ quan và chuyên quyền cá nhân ngày càng nghiêm trọng đã lấn át Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khiến nguyên tắc lãnh đạo tập thể và tập trung dân chủ trong đời sống chính trị của Đảng và đất nước liên tục bị suy yếu và thậm chí bị phá hủy". ("Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử của Đảng kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa"). Theo cách này, vào đêm trước khi phát động Cách mạng Văn hóa, một tình huống thực sự đã được hình thành trong đó Đảng có quyền lãnh đạo chính trị toàn diện đối với đời sống xã hội và các nhà lãnh đạo Đảng có quyền lãnh đạo tuyệt đối đối với Đảng [chắc chỉ Mao Trạch Đông – người dịch]. Vì vậy, khi các nhà lãnh đạo đảng đưa ra quyết định sai lầm khi phát động Cách mạng Văn hóa, nhiều cán bộ, đảng viên trong đảng không đồng tình với quyết định này đã bất lực không thể làm gì được. Chế độ dân chủ không hoàn hảo trong Đảng khiến Đảng ta không thể ngăn chặn hành động sai lầm là phát động “Cách mạng Văn hóa”, gây tổn hại đến đời sống chính trị của toàn đất nước.

2. Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc [Quốc hội Trung Quốc – người dịch] là cơ quan quyền lực nhà nước, không thực hiện hiệu quả quyền lực của mình. Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc phải có quyền long trọng lên tiếng và quyết định phát động một phong trào chính trị toàn quốc như Cách mạng Văn hóa. Nhưng trên thực tế, không lâu sau khi Cách mạng Văn hóa nổ ra, Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc và các đại hội nhân dân địa phương đã trở nên kém hiệu quả, các nhà lãnh đạo nhà nước như Chủ tịch nước đã bị gạt ra ngoài lề, thậm chí một số còn bị bức hại đến chết. Các cơ quan quyền lực nhà nước không có khả năng kiềm chế hoặc kiểm soát tình hình bất ổn chính trị liên quan đến tương lai và vận mệnh của Trung Quốc. Tất nhiên, điều này liên quan đến việc thiếu sự phân quyền chặt chẽ giữa Đảng và chính quyền. Do sự phân quyền giữa Đảng và chính quyền chưa hoàn thiện nên mối quan hệ kiểm tra, đối trọng trong hệ thống chính trị chưa được xác lập rõ ràng. Nếu không có cơ chế hạn chế quyền lực, khi sự thiên vị xảy ra theo một hướng, xã hội sẽ phải trả giá đắt.

3. Thiếu sự bảo đảm mạnh mẽ về mặt Hiến pháp trong đời sống chính trị. Sự diễn ra và tiến triển của Cách mạng Văn hóa thực chất hoàn toàn trái ngược với tinh thần và quy định của Hiến pháp nước ta. Nhiều biện pháp và phương pháp khác nhau được sử dụng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa cũng hoàn toàn vi hiến. Hiến pháp quy định địa vị và quyền hạn của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và các thủ tục cơ bản của đời sống chính trị đất nước. Tuy nhiên, việc “lật đổ tất cả”, “giành lấy chính quyền toàn diện” không theo bất kỳ trình tự nào của Cách mạng Văn hóa đã làm tê liệt các cơ quan nhà nước. Hiến pháp quy định các quyền và địa vị của Chủ tịch nước, đại biểu Quốc hội và công dân, nhưng các quyền và địa vị này hoàn toàn không được đảm bảo trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Việc thiếu một thể chế cụ thể để bảo vệ Hiến pháp cũng là một trong những điều kiện dẫn đến Cách mạng Văn hóa.

4. Thiếu hệ thống tư pháp độc lập trong đời sống xã hội. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, có rất nhiều hành vi phi pháp và thực tế không có tổ chức nào có thể kiềm chế được chúng. Điều này bao gồm hai khía cạnh. Một mặt, thiếu hệ thống tố tụng hành chính, không có nơi nào để kháng cáo về việc các tổ chức chính trị xâm phạm quyền công dân và quyền tự do cá nhân. Các tổ chức chính trị do "Bè lũ bốn tên" và tay sai của chúng kiểm soát có thể làm bất cứ điều gì chúng muốn, những người dân bình thường thì bất lực. Mặt khác, "Cách mạng Văn hóa" đã phá hủy chế độ tố tụng chung, người dân không có nơi nào để khiếu nại về những vi phạm quyền và lợi ích của mình, do đó, một số người đã đánh đập, đập phá, cướp bóc đã xảy ra những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền và phẩm giá con người. Không chỉ vậy, các cơ quan công an, kiểm sát và tư pháp thậm chí còn được sáp nhập thành một và được sử dụng để thực hiện "Cách mạng Văn hóa". Hoàn toàn không có vấn đề độc lập tư pháp nào cả. Theo cách này, “Cách mạng Văn hóa” ngày càng trở nên gay gắt.

5. Không có cơ chế phân cấp theo chiều dọc hoàn hảo trong hệ thống chính trị. Sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một mặt do lý do lịch sử và sự lạc hậu lâu dài của nền chính trị, kinh tế, văn hóa nước ta, mặt khác do bắt chước mô hình Liên Xô nên đã hình thành nên một hệ thống tập trung cao độ. Hệ thống này có hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội của một xã hội kém phát triển, nhưng nó cũng tạo ra những khả năng tiềm tàng trong đời sống chính trị: nếu xảy ra sai sót, toàn bộ xã hội sẽ bị liên lụy. Chính quyền địa phương không có thẩm quyền tương ứng và không có quyền tự chủ về mặt pháp lý đối với các quyết định do chính quyền cấp trên đưa ra. Nếu chính quyền địa phương được trao một số quyền hạn nhất định và những quyền hạn này được các cơ quan quyền lực nhà nước địa phương thực hiện theo quy định của Hiến pháp mà không bị can thiệp, thì khi xảy ra bất ổn dân sự như "Cách mạng Văn hóa", chính quyền địa phương không thể bị lôi kéo vào một cuộc hỗn loạn chính trị sai trái, các thể chế chung sẽ không thể buộc chính quyền địa phương hành động vi phạm Hiến pháp. Do trước đây không có cơ chế như vậy nên chính quyền địa phương không có quyền lực khi Cách mạng Văn hóa xảy ra.

6. Chưa xây dựng được hệ thống cán bộ quốc gia vững mạnh. Bất kỳ hoạt động nào của hệ thống chính trị, dù hợp hiến hay vi hiến, đều đòi hỏi một số người nhất định phải là chủ thể chính của hoạt động đó. Khi Cách mạng Văn hóa xảy ra, việc thiếu một hệ thống cán bộ nhà nước chặt chẽ và nghiêm ngặt đã tạo điều kiện cho "Bè lũ bốn tên" đàn áp những người trung thành và tử tế, cũng như sắp xếp và thăng chức cho các thành viên trong băng đảng. Cán bộ nhà nước, đặc biệt là những người đảm nhiệm một số trách nhiệm chính trị, phải được bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm thông qua một số thủ tục nhất định. Cán bộ không được bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm mà không có bất kỳ thủ tục nào như đã làm trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Tất cả viên chức nhà nước ở cấp tương ứng đều phải được bổ nhiệm hoặc sa thải thông qua cơ quan có thẩm quyền. Nếu hệ thống cán bộ có thể đảm bảo rằng những cán bộ được nhân dân tin tưởng sẽ đảm nhận trách nhiệm chính trị, họ có thể đã chống lại Cách mạng Văn hóa ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, hệ thống này chưa được thiết lập vững chắc khi Cách mạng Văn hóa xảy ra. Do đó, hệ thống cán bộ có hiệu quả trong thời kỳ ổn định sẽ hình thành một bất lợi lớn trong thời kỳ bất ổn dân sự.

7. Thiếu hệ thống chặt chẽ trong đời sống chính trị để bảo vệ quyền của công dân. Mặc dù Cách mạng Văn hóa là một cuộc hỗn loạn chính trị đe dọa toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng thực chất nó cũng là một thảm họa xảy ra giữa con người với nhau. Một trong những lý do xã hội khiến "Cách mạng Văn hóa" có thể xảy ra là vì xã hội nói chung thiếu truyền thống tôn trọng quyền dân chủ, tự do và nhân quyền của công dân. Bất ổn dân sự như Cách mạng Văn hóa xâm phạm quyền tự do dân chủ và nhân quyền của công dân sẽ khó có thể xảy ra trong một xã hội mà mọi công dân đều tin tưởng vững chắc vào nền dân chủ và bất kỳ hành vi nào xâm phạm quyền tự do dân chủ và nhân quyền của công dân sẽ phải chịu các lệnh trừng phạt của pháp luật và sự lên án của xã hội. Người dân thiếu khái niệm vững chắc về dân chủ và pháp quyền, hệ thống chính trị không có khả năng trừng phạt hiệu quả những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ và nhân quyền của công dân, tạo điều kiện xã hội nhất định cho sự phát động của "Cách mạng Văn hóa".

Phải thừa nhận rằng, ngay cả từ góc độ chính trị và kỹ thuật, các điều kiện dẫn đến "Cách mạng Văn hóa" không chỉ giới hạn ở những điều kiện đã nêu ở trên, mà chúng là những điều kiện cơ bản. Việc xây dựng và phát triển chính trị của một xã hội có thể được coi như một dự án, một công trình chính trị. Công trình chính trị cung cấp kỹ thuật chính trị và công cụ hiệu quả cho các hoạt động chính trị xã hội và quan hệ chính trị, đảm bảo đời sống chính trị xã hội diễn ra theo các nguyên tắc và phương pháp do nhân dân lựa chọn. Một số lý tưởng chính trị, khái niệm chính trị và nguyên tắc chính trị chỉ có thể được hiện thực hóa hiệu quả sau khi xây dựng kỹ thuật chính trị cẩn thận. Nếu không có kỹ thuật chính trị nhất định, các nguyên tắc chính trị sẽ khó đạt được. Công trình chính trị đòi hỏi kỹ thuật chính trị. Sau khi suy ngẫm về "Cách mạng Văn hóa", mọi người cảm thấy rằng chúng ta đã bỏ bê việc phát triển và ứng dụng công trình chính trị trong quá khứ. Thắng lợi của cách mạng dân chủ mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tạo điều kiện cơ bản cho việc thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân. Nhưng trong một thời gian dài, chúng ta đã bỏ bê cách xây dựng nền dân chủ và thể chế pháp luật từ góc độ chính trị và kỹ thuật. Kết quả là khi "Cách mạng Văn hóa" xảy ra, không có thể chế chính trị lành mạnh nào để kiểm soát và ngăn chặn nó, thay vào đó nó đã bị phá hủy bởi xung đột nội bộ trong chớp mắt. Bài học lịch sử sâu sắc này rất đáng để học hỏi.

Từ mười năm trước, chúng ta đã coi trọng vấn đề này và đã thực hiện hàng loạt biện pháp mang tính xây dựng để cải thiện và hoàn thiện thể chế chính trị. Trong những năm gần đây, trọng tâm đã được đặt vào cải cách thể chế chính trị. Qua phân tích trên, chúng ta thấy rằng một phương hướng quan trọng của cải cách thể chế chính trị Trung Quốc là bảo đảm từ góc độ kỹ thuật rằng mọi mặt của thể chế chính trị đều có thể phát huy vai trò hợp lý và hiệu quả, bao gồm mối quan hệ giữa Đảng và chính phủ, mối quan hệ giữa các quyền lực, chế độ bảo đảm Hiến pháp, chế độ tư pháp, mối quan hệ giữa tập trung và phân cấp, chế độ cán bộ và dân chủ hóa xã hội. Thông qua kỹ thuật chính trị có hệ thống, thể chế chính trị Trung Quốc sẽ trở thành thể chế chính trị dân chủ cao, hoàn chỉnh về mặt pháp lý và hiệu quả.

Qua việc suy ngẫm về tình hình bất ổn dân sự trong Cách mạng Văn hóa, mọi người cảm thấy sâu sắc rằng để hiện thực hóa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp quyền, cần phải tiến hành mạnh mẽ nghiên cứu công nghệ chính trị. Một mặt, thông qua quá trình điều tra, nghiên cứu và phân tích cẩn thận, khám phá và tạo ra các công nghệ chính trị phù hợp với điều kiện quốc gia của Trung Quốc. Mặt khác, chúng ta nên so sánh và học hỏi các kỹ thuật chính trị của các nước khác trên thế giới, đồng thời áp dụng những phần hợp lý và khoa học cho chính Trung Quốc, bao gồm cả những nước có thể chế chính trị xã hội tương tự và những nước có chế độ chính trị xã hội khác. Trong các hệ thống xã hội và chính trị khác nhau, có những nguyên tắc chính trị khác nhau, nhìn chung không thể thay thế cho nhau. Tuy nhiên, với tư cách là một thể chế chính trị, cộng đồng loài người đều phải đối mặt với một số vấn đề và nhu cầu xã hội tương tự nhau, cũng như sẽ gặp phải một số mâu thuẫn và vấn đề giống nhau. Một số kỹ thuật chính trị được áp dụng để đáp ứng các yêu cầu này và giải quyết các vấn đề này thường có mối liên hệ với nhau. Cũng giống như các kỹ thuật quản lý kinh tế trong các hệ thống kinh tế khác nhau có thể được giới thiệu, các kỹ thuật quản lý chính trị trong các thể chế chính trị khác nhau cũng có thể được giới thiệu hoặc sửa đổi một phần. Tất nhiên, mỗi xã hội đều có những đặc thù riêng trong những điều kiện lịch sử, xã hội và văn hóa khác nhau. Chỉ có nghiên cứu và áp dụng mọi công trình chính trị khoa học và hợp lý trên thế giới thì chúng ta mới có thể xây dựng được một thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa hoàn hảo. Trước Cách mạng Văn hóa, công việc này không được thực hiện vì nhiều lý do. Ngày nay, trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, chúng ta đã hiểu rõ: phải xây dựng thể chế chính trị ổn định, thực hiện đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở mức độ cao. Chỉ có như vậy, thảm kịch “Cách mạng Văn hóa” mới tránh được lặp lại, nền văn minh vật chất và tinh thần của đất nước mới đạt được sự phát triển chưa từng có.


Làm thế nào để đạt được dân chủ nội bộ đảng? Có phương hướng nào không? Tất nhiên là có một hướng đi. Cách tiếp cận cơ bản của Quốc tế thứ nhất và thứ hai do Marx và Engels sáng lập là: phân chia quyền lực, kiểm tra và cân bằng. Tuy nhiên, sau cái chết của Lenin, kể từ thời Stalin, toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế, bao gồm cả Đảng Cộng sản Nga, đã chuyển sang chủ nghĩa độc tài. Hậu quả của việc tập trung hóa là gì? Kết quả có thể tóm tắt trong một câu: Chủ nghĩa độc tài đã gây tai hại và tai hại thảm khốc cho Đảng Cộng sản!

Một người bạn nói rằng thật tuyệt vời nếu chúng ta có một nhà lãnh đạo như Tưởng Kinh Quốc để thúc đẩy dân chủ và chủ nghĩa lập hiến. Nhưng bất kể những điều kiện đó có tồn tại hay không, với tư cách là công dân, chúng ta nên cố gắng hết sức để thúc đẩy nó. Thực tế hiện nay là mọi vấn đề trong cả nước đều do cấp ủy đảng các cấp quyết định. Đây là việc mà tất cả mọi người nên tham gia. Một môi trường tốt chỉ có thể đạt được thông qua nỗ lực chung của các bên liên quan (cả trong và ngoài thể chế) trong cải cách thể chế; không thể đạt được bằng cách chờ đợi.

Có người nói cải cách chế độ chính trị ở cấp cao nhất rất khó, kỳ thực trên đời không có việc gì dễ dàng, cấp cao nhất cũng phải dựa vào nhân dân thúc đẩy.

1. Về dân chủ nội bộ Đảng

Tôi muốn hỏi một câu hỏi: Ai là người lãnh đạo Đảng ủy? Có người nói: là Bí thư Đảng ủy.

Trên thực tế, phải là “Đại hội Đảng” lãnh đạo Đảng bộ, ủy quyền cho Đảng bộ và kiểm điểm công tác của Đảng bộ. Một số người chỉ biết đến sự lãnh đạo thống nhất của Đảng bộ, nhưng thực chất dân chủ nội bộ đảng đòi hỏi sự phân tách của ba quyền lực.

Ba quyền lực của nền dân chủ nội bộ là gì?

Thứ nhất, Đại hội Đảng thực hiện quyền quyết định, thứ hai, Đảng ủy thực hiện quyền hành pháp, thứ ba, Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật thực hiện quyền giám sát. Ba quyền lực của nhà nước là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền lực của tổ chức đảng là: quyền quyết định, quyền hành pháp và quyền giám sát.

Vào thời đại Marx và Engels, ba quyền lực tách biệt, Đảng ủy không có tiếng nói quyết định cuối cùng. Tuy nhiên, sau Stalin, bao gồm cả Mao Trạch Đông, quyền quyết định, quyền hành pháp và quyền giám sát đều tập trung vào một người, độc chiếm quyền lực. Hoàn toàn không có dân chủ. Hậu quả của việc làm này là rất nghiêm trọng.

Một trong những nhiệm vụ tích cực nhất của Stalin trong việc phá hủy sự kiểm soát và cân bằng quyền lực và tập trung quyền lực sống còn vào tay mình là loại bỏ những người bất đồng chính kiến và giết những người vô tội. Theo thống kê, 14 trong số 24 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo chính trị cho Cách mạng Tháng Mười đã bị Stalin giết, 54 trong số 60 chiến sĩ lãnh đạo quân sự Cách mạng Tháng Mười đã bị Stalin giết, có 15 ủy viên trong Ủy ban Nhân dân đầu tiên và 9 trong số 13 ủy viên ngoài Lenin và Stalin đã bị xử tử nhân danh cách mạng, tổng cộng hơn 1,2 triệu đảng viên Cộng sản khác đã bị bắt, nhiều người trong số họ đã bị kết án tử hình hoặc bỏ tù.

Vấn đề tương tự là Trung Quốc trong thời đại Mao Trạch Đông không có sự phân tách giữa kiểm tra và cân bằng giữa ba đại quyền đó, thay vào đó lại có ba thảm họa lớn do con người gây ra: Phong trào phản hữu năm 1957, trong đó hơn ba triệu người cánh hữu bị đàn áp. Phong trào giương cao ba ngọn cờ đỏ từ năm 1958 đến năm 1960, trong đó hơn ba triệu người cho là thiên hữu bị đàn áp và hơn 40 triệu người chết đói. Cách mạng Văn hóa từ năm 1966 đến năm 1976, trong đó hơn 100 triệu người bị đàn áp, trong đó có hơn 20 triệu người chết.

Một sự thật rất quan trọng nhưng thường bị bỏ qua là những quyết định quan trọng này không phải do cơ quan ra quyết định cao nhất của đảng cầm quyền, Đại hội Đảng đưa ra, mà do Ủy ban Trung ương Đảng và cá nhân Mao Trạch Đông đưa ra. Trẫm chính là Ủy ban Trung ương, trẫm chính là Đảng [chú ý cách dùng từ của Vương Hỗ Ninh chỉ Mao Trạch Đông tự xưng – người dịch). Chúng ta hãy sử dụng trí tưởng tượng và tự hỏi, liệu có một hệ thống giám sát lẫn nhau giữa bốn nhà lãnh đạo Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ không? Thật không may là không có. Vì không có sự kiểm tra và cân bằng giữa các quyền lực, những sai lầm như Cách mạng Văn hóa do chính Mao Trạch Đông phát động và lãnh đạo đã không được Chu Ân Lai, Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ ngăn chặn. Lưu Thiếu Kỳ thậm chí còn bị tra tấn đến chết. Nếu Mao, Chu, Chu [chú ý hai họ Chu nhưng khác nhau Chu Ân Lai 周恩来、Chu Đức 朱德 – người dịch] và Lưu không tập trung trong Ban Chấp hành Trung ương do Mao đứng đầu, mà thay vào đó lần lượt đảm nhiệm chức Chủ tịch Đại hội Đảng, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, Chủ tịch Quân ủy Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, bốn cơ quan và bốn nhà lãnh đạo có thể giám sát lẫn nhau, liệu Mao Trạch Đông có còn có thể hành động thoải mái như vậy không và để vợ mình là Giang Thanh giữ một vị trí quan trọng trong Nhóm Cách mạng Văn hóa của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, hành động chuyên quyền đối với toàn đảng và nhân dân cả nước không? Cơ chế phân chia quyền lực và kiểm tra và cân bằng không những không cản trở hiệu quả của việc ra quyết định mà còn cải thiện bản chất khoa học của việc ra quyết định. Tóm lại, nếu có thể đạt được sự kiểm tra và cân bằng này, đây sẽ là một sự sắp xếp mang tính thể chế có lợi cho việc "tập trung nguồn lực để hoàn thành những điều lớn lao" trong khi ngăn chặn "tập trung nguồn lực để làm những điều xấu".

Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện có hơn 85 triệu đảng viên, nếu tất cả đảng viên đều có thể lên tiếng, Đại hội Đảng có thể phát huy hết tác dụng, sẽ mang lại sự cải thiện to lớn cho công tác toàn đảng và mọi địa phương. "Đảng nội vô phái, thiền kỳ bá quái" [trong Đảng không có phe phái nhưng có nhiều ý kiến và khuynh hướng khác nhau – người dịch] cho phép sự đa dạng trong đảng, cho phép tranh luận và cạnh tranh công bằng, có thể không phải là điều tồi.

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc nâng cao công tác xây dựng đảng kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, đặc biệt là kể từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XVII. Trước Đại hội XVIII sắp tới, để Đảng ít mắc sai lầm, hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách phân cấp, kiểm tra, đối trọng trong Đảng trên cơ sở tổng kết có hệ thống kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Để đạt được mục đích này, tôi đã đưa ra một bộ kế hoạch cải cách đảng để nghiên cứu và tham khảo.

Đề nghị thực hiện đại hội đảng các cấp là cơ quan quyền lực của tổ chức đảng, đại hội đảng từ cấp huyện trở lên (kể cả cấp huyện, sau đây gọi chung là cấp huyện) lần lượt bầu ra ba cơ quan cùng cấp: Ban Thường vụ Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Đảng và Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Đảng. Trách nhiệm của họ được mô tả ngắn gọn dưới đây:

(a). Quyền quyết định

Đại hội đảng cấp huyện trở lên thực hiện chế độ đại biểu đảng thường trực (mỗi nhiệm kỳ năm năm) và chế độ làm việc toàn thời gian, hưởng lương. Lương của đại biểu đảng do tổ chức đảng cấp tương ứng chi trả. Để nâng cao hiệu quả và giảm chi phí, số lượng đại biểu đảng phải giảm đáng kể. Có khoảng 500 đại biểu tham dự Đại hội Đảng toàn quốc, khoảng 50 đại biểu tham dự Đại hội đảng cấp huyện và số lượng tương tự ở các tỉnh, thành phố.

Đại hội đảng các cấp bầu ra Ban thường vụ đại hội đảng, là cơ quan thường trực của đại hội đảng (có nhiệm vụ chuẩn bị và triệu tập đại hội đảng), số lượng Ban thường vụ bằng 1/10 số đại biểu đại hội đảng, có 1 chủ tịch thường trực và 1 phó chủ tịch thường trực, phụ trách công tác thường trực của ban thường vụ và tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu. Nhiệm vụ của đại hội đảng các cấp về cơ bản giống với nhiệm vụ quy định trong điều lệ đảng hiện hành, nhưng cần bổ sung thêm một nội dung: mỗi năm tổ chức đại hội một lần để kiểm điểm công tác của ban chấp hành đảng cấp mình và đôn đốc thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của đại hội đảng. Trong trường hợp khẩn cấp, Ban Thường vụ Đại hội Đảng triệu tập đại hội Đảng bất thường.

Đại biểu Đại hội Đảng có quyền bầu và bãi nhiệm cán bộ lãnh đạo chủ chốt của cơ quan hành pháp và kiểm tra kỷ luật theo một số thủ tục nhất định, nhưng không có quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh cụ thể của họ. Đồng thời, họ cũng chịu sự ràng buộc của tất cả đảng viên bỏ phiếu. Những sự kiểm tra và cân bằng như vậy có lợi cho việc tăng cường sức sống của Đảng và ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân.

Chỉ cần chúng ta cùng hợp tác, viễn cảnh này sẽ trong tầm tay.

(b). Quyền thực thi

Đại hội đảng các cấp bầu ra 7 đến 9 ủy viên để thành lập ban chấp hành đảng cấp mình, gồm một bí thư và một phó bí thư. Số lượng và thẩm quyền của các cấp ủy Đảng từ huyện trở lên tương đương với các ban thường vụ hiện nay của các cấp ủy Đảng. Hiện nay, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thực chất do Thường vụ Đảng ủy nắm giữ, các đảng viên bình thường lâu lâu mới họp toàn thể một lần, đã trở thành bình hoa trong Đảng, không cần phải lợi dụng vô ích.

Các cấp ủy Đảng chịu trách nhiệm trước Đại hội Đảng, báo cáo công tác và tiếp thu ý kiến kiểm điểm. Công tác hằng ngày của Ban Chấp hành phải được báo cáo kịp thời đến Ban Thường vụ Đại hội Đảng cùng cấp để lưu trữ.

Cơ quan chấp hành của Đảng không đơn phương chấp nhận sự giám sát và ràng buộc của cơ quan quyết định. Nếu phát hiện quyết định sai hoặc không hoàn thiện trong quá trình thực hiện, có thể phản đối cơ quan quyết định và yêu cầu Đại hội Đảng tiếp theo xem xét lại. Điều này làm cho Đảng vẫn còn chỗ để sửa đổi và cải thiện các quyết định quan trọng.

(c). Quyền kiểm tra kỷ luật

Đại hội đảng các cấp bầu ra ủy ban kiểm tra kỷ luật cấp mình, gồm 5 đến 7 thành viên, trong đó có 1 trưởng ban và 1 phó trưởng ban.

Trách nhiệm chính của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật là tiến hành kiểm tra kỷ luật đối với cán bộ lãnh đạo của đảng cùng cấp (bao gồm đại biểu Đại hội Đảng, ủy viên Ban Chấp hành, v.v.), nhưng không có quyền can thiệp vào công việc thường ngày của họ. Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật các cấp cũng lãnh đạo công tác của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật của Đảng các cấp trực thuộc.

Hãy nghĩ xem: Ai nên là người đứng đầu Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật? Có phải là ủy ban chấp hành của đảng không? KHÔNG. Ủy ban kiểm tra kỷ luật các cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Đại hội Đảng cùng cấp. Những vấn đề lớn có thể báo cáo lên cấp cao hơn đến Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương. Không còn nghi ngờ gì nữa, Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương phải độc lập với Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm và báo cáo trước Đại hội Đảng toàn quốc.

Cuộc sống thực tế cho chúng ta biết rằng quyền hành pháp thường có sức mạnh lớn nhất, nhưng cũng có khả năng bị lạm dụng và gây hại lớn nhất. Do đó, mục tiêu chính của cải cách phải là giám sát và hạn chế quyền hành pháp trong công tác đảng. Trong kế hoạch cải cách, khi cơ quan quyết định của đảng chuyển từ ảo sang thực và cơ quan kiểm tra kỷ luật của đảng được nâng cấp thành độc lập thì sẽ có lợi cho việc hiện thực hóa các ưu tiên cải cách nêu trên.

Vì ba quyền lực này phải tách biệt và kiểm soát, cân bằng lẫn nhau nên không cần phải nói cũng biết rằng các thành viên của ba tổ chức này không được phép giữ chức vụ đồng thời. Đại biểu nào được bầu vào cơ quan chấp hành, kỷ luật của Đảng thì phải từ chức đại biểu trong nhiệm kỳ để tránh xung đột vai trò. Theo chế độ cũ, đại biểu chỉ là chức danh, họp năm năm một lần, nên có vẻ như không có gì mâu thuẫn khi làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, sau cải cách chế độ lãnh đạo trong Đảng, quyền quyết định, hành pháp và giám sát của Đảng đã được tách biệt và kiểm tra, cân bằng, đại biểu tham dự Đại hội Đảng là toàn thời gian và được trả lương. Họ không nên làm ủy viên chấp hành hoặc ủy viên Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật.

Hãy tưởng tượng, nếu có thể đạt được sự phân chia quyền lực và kiểm tra và cân bằng trong đảng, liệu một nhà lãnh đạo có dễ dàng "tập trung nỗ lực để làm điều xấu" không? Nếu chúng ta muốn tập trung nỗ lực vào việc làm điều tốt, sự phân chia quyền lực có thể giúp chúng ta xem xét điều tốt một cách chi tiết và toàn diện hơn, trong khi sự kiểm tra và cân bằng chặt chẽ có thể đảm bảo rằng mỗi quyền lực hành động theo đúng trình tự pháp lý, do đó ngăn chặn "việc tốt bị làm sai".

(2) Về Hiến pháp quốc gia

Nếu Trung Quốc muốn tiến hành cải cách chế độ chính trị, phải phù hợp với xu hướng Hiến pháp của thế giới và để làm rõ phương hướng của xu hướng Hiến pháp thế giới, phải tiến hành nghiên cứu so sánh Hiến pháp Trung Quốc với Hiến pháp các nước khác. Tôi [tác giả – người dịch] đã vinh dự được tiến hành nghiên cứu so sánh Hiến pháp Trung Quốc và 110 quốc gia khác dựa trên ấn bản năm 1997 của Bách khoa toàn thư Hiến pháp thế giới do Nhà xuất bản Thanh Đảo, Trung Quốc xuất bản và đã thu được rất nhiều. Tôi muốn chọn lọc một số kết quả và chia sẻ với những người quan tâm. Xu hướng Hiến pháp chính xác là gì? Mặc dù đây không phải là vật thể hữu hình có thể nhìn thấy hoặc chạm vào được nhưng đây lại là xu hướng phát triển có thể suy ra được. Tôi đã chọn mười tám câu hỏi để điều tra, lấy 110 quốc gia làm cơ sở, tính toán tỷ lệ (%) của các quốc gia có liên quan và có thể thấy rõ xu hướng chính ngay từ cái nhìn đầu tiên.

1. 56% quốc gia có quy định trong Hiến pháp về trưng cầu dân ý;

2. 66% các quốc gia có Hiến pháp quy định về sự độc lập của thẩm phán;

3. 67% quốc gia có cơ quan giám sát Hiến pháp;

4. 69% quốc gia công nhận hoặc không cấm quốc tịch kép;

5. 69% nguyên thủ quốc gia là tổng thống;

6. 71% nguyên thủ quốc gia cũng là chỉ huy quân sự;

7. 74% Hiến pháp quốc gia không có phần mở đầu;

8. 75% các quốc gia có chính quyền địa phương tự quản;

9. 76% quốc gia có quốc hội được bầu trực tiếp (hoặc cơ quan đại diện);

10. 85% các quốc gia không ghi tên cá nhân vào Hiến pháp của họ;

11. 87% các quốc gia không đưa bất kỳ hệ tư tưởng nào vào Hiến pháp của họ;

12. 91% công dân cả nước có quyền tự do tín ngưỡng, tự do hành nghề tôn giáo;

13. 91% Hiến pháp quốc gia có quy định bảo vệ quyền tự do báo chí và xuất bản;

14. 94% các quốc gia có sự phân chia quyền lực;

15. 95% các quốc gia thực hiện chính sách cởi mở;

16. 95% các quốc gia không công nhận đặc quyền chính trị của bất kỳ đảng phái chính trị nào;

17. 98% các quốc gia có Hiến pháp bảo vệ quyền con người;

18. Hiến pháp của 99% các quốc gia không quy định bất kỳ chế độ độc tài nào.

Nếu nói rằng định hướng Hiến pháp của hầu hết các nước về 18 vấn đề nêu trên phản ánh xu thế Hiến pháp thế giới thì có thể nói rằng sửa đổi Hiến pháp do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc thông qua vào tháng 3/2004, bổ sung điều khoản "Nhà nước tôn trọng và bảo vệ nhân quyền" vào Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bước đầu phù hợp với xu thế Hiến pháp thế giới; còn về các vấn đề khác, nó cho thấy khoảng cách giữa Hiến pháp Trung Quốc và xu thế Hiến pháp thế giới và phương hướng chung của cải cách Hiến pháp Trung Quốc.

Xu hướng Hiến pháp thế giới bắt nguồn từ nước Anh thế kỷ 17, phát triển ở châu Mỹ và châu Âu thế kỷ 18 và đã phổ biến trong hàng trăm năm. Bốn nguyên tắc cơ bản của xu hướng Hiến pháp là tam quyền phân lập, đa đảng cạnh tranh, phổ thông đầu phiếu và tự do báo chí, đã dần dần ăn sâu vào cộng đồng quốc tế và trở thành tấm gương để mọi người đánh giá ưu, nhược điểm và tiến bộ của các hệ thống chính trị. Phải không? Moscow đã thay đổi quốc kỳ hai lần trong thế kỷ qua, lá cờ đỏ được kéo lên vào năm 1917, và vào ngày 22/8/1991, Tổng thống Nga Yeltsin đã ban hành lệnh thay thế lá cờ đỏ có hình búa liềm bằng lá cờ Nga lịch sử (cờ ba màu trắng, xanh và đỏ) và sử dụng lại làm quốc kỳ của Nga. Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau có thể dẫn đến những phán đoán hoàn toàn trái ngược. Nhưng nếu chúng ta so sánh nó với bốn nguyên tắc cơ bản của xu hướng Hiến pháp thế giới, điều này sẽ trở nên rõ ràng.

1. Những người Bolshevik liên tiếp loại bỏ các "đảng anh em" của mình: Menshevik, Đảng Dân chủ Lập hiến, Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa và Đảng Cách mạng Xã hội chủ nghĩa cánh tả. Bắt đầu từ năm 1921, Nga đã chuyển từ chế độ đa đảng sang chế độ độc đảng không có đảng nào ngoài đảng, rõ ràng là một sự thoái trào lịch sử.

2. Chế độ Nga sau năm 1917 đã đi ngược lại nguyên tắc phân chia quyền lực và kiểm tra và cân bằng theo Hiến pháp. Nó đã trải qua một sự phát triển từ "tất cả quyền lực cho Xô viết", "tất cả quyền lực cho những người Bolshevik" đến "tất cả quyền lực cho tổng bí thư của đảng", hình thành nên một chế độ chuyên quyền tập trung cao độ với sự khủng bố đỏ bao trùm toàn bộ đất nước. Chỉ riêng trong sáu năm từ 1935 đến 1941, 20 triệu người đã phải chịu sự đàn áp chính trị, trong đó có 7 triệu người bị hành quyết, trung bình hơn 1 triệu người bị giết mỗi năm.

3. Mặc dù Hiến pháp Liên Xô cũ có hệ thống phổ thông đầu phiếu trực tiếp bình đẳng, nhưng trên thực tế, ứng cử viên được đảng cầm quyền chỉ định và sau đó được đưa cho cử tri bỏ phiếu với số lượng ngang nhau. Những người không có tên trong danh sách ứng cử viên không thể được bầu. Bầu cử đã trở thành trò hề lừa gạt người dân năm này qua năm khác và trong nhiều thập kỷ.

4. Cả thế giới đều biết rằng Liên Xô cũ không có tự do báo chí. Sau khi cựu lãnh đạo tối cao Liên Xô Khrushchev từ chức, ông chỉ có thể dựa vào việc nghe Đài Tiếng nói Hoa Kỳ để biết tin tức. Đây là một sự trớ trêu tuyệt vời của việc phủ nhận các nguyên tắc Hiến pháp.

Sau hơn 70 năm chống chủ nghĩa Hiến pháp ở nước Nga Xô Viết, cuối cùng nó đã rơi vào biển giận dữ và phẫn nộ của công chúng. Vào phút chót, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành đảo chính vào ngày 19/8/1991 thông qua cựu Phó Tổng thống Liên Xô Yanaev và các quan chức cấp cao khác nhằm cứu vãn tình hình. Nhưng dân chúng sợ phải quay lại cuộc sống đáng sợ khi một đảng phái hay phe phái độc chiếm quyền lực, coi thường mạng sống con người, kiểm soát bầu cử và bóp nghẹt tự do báo chí. Do đó, họ không ủng hộ đảo chính "ngày 19/8", và đảo chính đã thất bại trong vòng ba ngày. Phần lớn công dân và đại diện của họ khinh thường hệ thống chính trị với xu hướng vi hiến của nó, đến nỗi Xô Viết Tối cao Liên Xô, nơi các đảng viên Đảng Cộng sản chiếm tỷ lệ lớn nhất, đã thông qua một nghị quyết tại phiên họp khẩn cấp vào ngày 29/8/1991 với đa số áp đảo là 283 phiếu thuận, 29 phiếu chống và 52 phiếu trắng: chấm dứt hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô trên toàn Liên Xô. Lịch sử cuối cùng đã tuyên bố rằng việc tái kéo cờ ba màu ở Nga vào năm 1991 là một động thái tiến bộ phù hợp với xu hướng Hiến pháp thế giới. Theo cách suy nghĩ này, chúng ta không khó để đánh giá những thay đổi mạnh mẽ ở Đông Âu thời đó, những sự kiện ở Gruzia, Ukraine và Kyrgyzstan kể từ thế kỷ mới, và những sự kiện tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Do đó, việc sử dụng xu hướng Hiến pháp như một tấm gương phản chiếu có thể giúp chúng ta xác định những thay đổi lịch sử.

Dù ở Trung Quốc hay ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, nhận thức về sự cần thiết của cải cách hệ thống chính trị đã được nâng lên một tầm cao mới – "Nếu không cải cách, đảng và đất nước sẽ diệt vong". Tuy nhiên, làm thế nào để thay đổi, sử dụng hệ thống tham chiếu nào và làm thế nào để thiết kế và xây dựng hệ thống chính trị mới trong tương lai là những vấn đề lớn cần được nghiên cứu sâu rộng. Cụ thể, Trung Quốc nên thực hiện chế độ chính trị nào? Theo một số người, điều quan trọng là nó phải "bắt nguồn từ mảnh đất màu mỡ rộng lớn mà dân tộc Trung Hoa đã dựa vào để tồn tại và phát triển trong hàng ngàn năm". Mảnh đất chính trị màu mỡ ở Trung Quốc trong hàng ngàn năm qua là gì? Mọi người đều biết đó là chế độ quân chủ phong kiến! Trung Quốc là quốc gia có nền thần quyền phát triển nhất trong lịch sử toàn cầu. Bất kỳ ai muốn viết luận án tiến sĩ về chủ đề "hoàng đế" đều phải đến thăm Trung Quốc. Tuy nhiên, mảnh đất màu mỡ của chế độ chuyên chế phong kiến không phải là vinh quang của dân tộc Trung Hoa, mà là gốc rễ chính trị của sự lạc hậu lâu dài của Trung Quốc. Bất kỳ ai thích ở một mình thì hãy tự hài lòng với chính mình. Đây có thể là hàm ý ngầm của một số người khi nhấn mạnh vào "điều kiện quốc gia đặc biệt". Nhưng phần lớn người dân Trung Quốc không thích cái bóng của chế độ đế quốc. Nếu hệ thống chính trị của một quốc gia chỉ có thể bắt nguồn từ sự trì trệ lạc hậu của hàng ngàn năm qua thì làm sao quốc gia đó có thể đạt được thành công? Vậy thì nói về cách mạng dân tộc, thay đổi xã hội và "bắt kịp thời đại" có ý nghĩa gì? Chẳng phải có phần nào sự thật trong lời tuyên bố lên ngôi hoàng đế của Viên Thế Khải và sự phục vị của Trương Huân sao?

Rõ ràng, quá trình hiện đại hóa chính trị của các nước đang phát triển chỉ có thể tiếp thu được trí tuệ của nền văn minh chính trị nhân loại và đi theo con đường phi tập trung hóa và kiểm tra và cân bằng thay vì chế độ chuyên quyền tập trung như hơn 90% các quốc gia đang làm. Có thể dùng đá từ một ngọn núi khác để đánh bóng ngọc bích. Hiểu được xu hướng Hiến pháp của thế giới có thể mang lại cho chúng ta nhiều hiểu biết sâu sắc. Ví dụ, hơn 70% các quốc gia lớn trên thế giới hiện nay thực hiện chế độ liên bang, trong khi hơn 70% các quốc gia không theo chế độ liên bang thực hiện chế độ tự chủ địa phương, điều này cũng khá có ý nghĩa đối với việc thiết kế cơ cấu quốc gia của Trung Quốc. Cách giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương là một vấn đề tồn tại lâu đời ở Trung Quốc trong hàng ngàn năm. Hiện nay, nhiều người chưa biết đến khái niệm chung về quyền tự chủ địa phương ngoài quyền tự chủ ở những khu vực có người dân tộc thiểu số sinh sống. Việc rút kinh nghiệm phong phú của đại đa số các quốc gia về vấn đề này và nghiêm túc tìm hiểu cũng như giải quyết quyền tự chủ của địa phương cũng sẽ có lợi cho việc giải quyết các vấn đề sắc tộc. Do đó, chỉ khi lấy xu hướng Hiến pháp thế giới làm ngọn hải đăng, chúng ta mới có thể xua tan sương mù, nhìn rõ tương lai, hiểu được nhu cầu thực sự của cải cách chế độ chính trị đương đại, phân biệt được các ưu tiên và từng bước phấn đấu giành thắng lợi.

Một phần quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp của Trung Quốc là bảo vệ quyền được biết của công dân. Quyền được biết của công dân là một “quyền dân chủ trực tiếp” rất quan trọng trong các quyền của công dân, tương ứng với nghĩa vụ của nhà nước trong việc công khai thông tin và công khai các hoạt động của chính phủ. Điều 2, khoản 3 Hiến pháp hiện hành quy định: “Nhân dân quản lý sự nghiệp kinh tế, văn hóa, xã hội bằng nhiều kênh, nhiều hình thức theo pháp luật”. Không biết thì quản lý thế nào được? Nếu không biết sự thật thì làm sao đánh giá được thái độ làm việc và trình độ của những người quản lý được giao phó, tức là công chức các cơ quan nhà nước? Điều 3, khoản 2 Hiến pháp hiện hành quy định: "Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc và đại hội đại biểu nhân dân địa phương các cấp đều do dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân". Nếu không biết sự thật, làm sao bầu ra được đại biểu nhân dân mà nhân dân tin tưởng, hài lòng? Nếu không biết sự thật, làm sao bãi nhiệm được đại biểu nhân dân mà nhân dân không tin tưởng, hài lòng? Nếu không biết sự thật, làm sao giám sát được công tác đại biểu nhân dân?

Công dân là chủ nhân của đất nước, đây là nguyên tắc cơ bản không thể lay chuyển của nền dân chủ lập hiến hiện đại. Nếu công dân không được thông tin về các vấn đề nhà nước, bao gồm luật pháp, hành chính, tư pháp và "quyền dân chủ gián tiếp" xã hội, làm sao họ có thể làm chủ được công việc của mình?

Trái ngược với sự cởi mở là tính bảo mật và bí ẩn. Marx đã lên án bộ máy nhà nước thiếu sự công khai như một thể chế quan liêu. Ông nói: "Tinh thần phổ quát của bộ máy quan liêu là sự bí mật và bí ẩn. Bí mật này được giữ trong bộ máy quan liêu bởi một tổ chức phân cấp và với thế giới bên ngoài bởi bản chất xã hội khép kín của nó. Do đó, việc công khai tinh thần và ý định của nhà nước cũng giống như phản bội bí mật của bộ máy quan liêu." (Tập 1 của "Toàn tập Marx và Engels", trang 302, ấn bản đầu tiên do Nhà xuất bản Nhân dân xuất bản vào tháng 12/1956) Lenin cũng đã nói rất rõ ràng: "Thật nực cười khi nói về dân chủ mà không công khai." (Tập 6 "Tuyển tập Lenin", trang 131, ấn bản lần thứ hai do Nhà xuất bản Nhân dân phát hành tháng 10/1986). Hiện nay, khi chúng ta đang ở thập kỷ thứ hai của thế kỷ mới, Trung Quốc không có lý do gì để không thực hiện việc công khai thông tin của chính phủ càng sớm càng tốt và công khai mọi thông tin mà các cơ quan nhà nước nắm giữ (trừ rất ít trường hợp ngoại lệ theo luật định) cho công dân.

Do đó, nhà nước phải bảo đảm đầy đủ quyền được biết về công việc nhà nước và thông tin liên quan của công dân theo quan điểm “quyền dân chủ trực tiếp”. Đồng thời, cũng phải quy định rõ nghĩa vụ của nhà nước về công khai thông tin và minh bạch của chính phủ theo quan điểm “quyền dân chủ gián tiếp”, công khai là nguyên tắc, bảo mật là ngoại lệ. Phần lớn các quốc gia trên thế giới ngày nay đều đưa nguyên tắc công khai vào Hiến pháp của mình, điều này cho thấy tầm quan trọng của việc công khai thông tin và minh bạch của chính phủ đã được công nhận rộng rãi. Vào những năm 1980, tôi đã đề xuất đưa các nguyên tắc và biện pháp công khai vào Hiến pháp, trên cơ sở đó, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc nên xây dựng "Luật công khai thông tin của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa". Đáng tiếc là điều này vẫn chưa được thực hiện. “Luật Bí mật nhà nước của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” được ban hành vào năm 1988, nhưng chỉ có luật an ninh nhà nước mà không có luật công khai, nên chỉ hình thành một hệ thống tê liệt.

Chính vì đất nước chúng ta chưa hiểu đầy đủ về nguyên tắc công khai trên phương diện Hiến pháp và pháp lý nên đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch SARS vào nửa đầu năm 2003. Nếu chúng ta nghiêm túc rút ra bài học từ thảm họa SARS, chúng ta sẽ thấy rõ rằng khi nói đến dịch SARS, trách nhiệm công việc của cá nhân là thứ yếu. Mấu chốt nằm ở chỗ bản thân hệ thống công khai thông tin và minh bạch của chính phủ không vững chắc, dẫn đến tình trạng cản trở truyền tải thông tin trong giai đoạn đầu của dịch bệnh, các biện pháp phòng ngừa bị trì hoãn và virus lây lan nhanh chóng, dẫn đến quá nhiều sinh mạng bị mất. Nếu không có biện pháp khắc phục mang tính thể chế, người dân và đất nước chắc chắn sẽ phải trả giá đắt hơn trong tương lai.

Nguyên tắc công khai là cơ quan nhà nước, công chức có nghĩa vụ công khai công việc của chính quyền và thông tin liên quan theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp pháp luật quy định rõ phải giữ bí mật trong thời hạn nhất định. Việc không giữ bí mật thông tin cần được giữ bí mật là bất hợp pháp và việc không tiết lộ thông tin cần được tiết lộ kịp thời cũng là một tội ác. Sự cởi mở không thể chỉ giới hạn ở việc giải mật các hồ sơ mật lỗi thời của các cơ quan nhà nước. Đó chỉ là một trường hợp về việc tiết lộ thông tin và minh bạch của chính phủ. Công khai có nghĩa là mọi thông tin ngoài thông tin được pháp luật bảo mật phải được công bố cho công chúng kịp thời và đầy đủ, đặc biệt là những vấn đề quan trọng và những vấn đề lớn liên quan đến quyền, tự do và lợi ích của công chúng. Những vấn đề này phải được công bố trước, trong và sau sự kiện mà không được che giấu, để công chúng có thể hiểu đầy đủ và có những cuộc thảo luận rộng rãi.

Do đó, dù là cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp, đều phải thiết lập hệ thống công bố thông tin và phát hành tin tức, thông báo cho người dân và phát hành tin tức thường xuyên hoặc bất cứ lúc nào thông qua các thông báo đặc biệt và các phương tiện truyền thông khác nhau như báo chí, phát thanh, truyền hình và Internet, để giúp người dân hiểu được các vấn đề của chính phủ và các thông tin liên quan, đồng thời cung cấp cho người dân các điều kiện thuận lợi để tìm hiểu những thông tin này.

Hãy lấy Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc làm ví dụ. Theo nguyên tắc công khai, cần đưa ra các quy định cụ thể có liên quan trong quy chế hoạt động của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc như: Thứ nhất, Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc và Đại hội Đại biểu Nhân dân địa phương các cấp phải tổ chức công khai, nếu cần họp kín phải thông qua trình tự pháp lý. Thứ hai, biên bản ghi chép các bài phát biểu của đại biểu nhân dân tại các cuộc họp công khai phải được Ban thư ký in ấn và phát hành trong thời hạn ba ngày, công dân được xem hoặc yêu cầu tại địa điểm chỉ định. Ban thư ký có trách nhiệm thường xuyên biên soạn biên bản ghi chép các bài phát biểu của đại biểu nhân dân thành sách để phát hành công khai. Thứ ba, công khai tiếp nhận đơn xin tham dự Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc của công dân, đoàn thể, tổ chức xã hội. Thứ tư, trong những trường hợp bình thường, các cuộc họp báo của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc được tổ chức thường xuyên để thông báo cho người dân về công tác của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc trong những trường hợp đặc biệt, các thông báo được đưa ra bất cứ lúc nào. Thứ năm, hội nghị và các cuộc họp công cộng khác nhau cho phép các nhà báo phỏng vấn, các đài truyền hình và phát thanh được phép ghi âm, quay video và phát sóng trực tiếp hoặc ghi âm lại.

Mục tiêu chung của cải cách thể chế chính trị Trung Quốc là phù hợp với xu hướng Hiến pháp thế giới và thiết lập một thể chế dân chủ hiến định. Hệ thống đảng phái của nền dân chủ hiện đại là một trong những nội dung của thể chế dân chủ lập hiến. Bất kỳ đảng phái chính trị nào cũng phải tiến hành cải cách dân chủ và xây dựng mình thành một đảng dân chủ hiện đại. Là đảng cầm quyền ở Trung Quốc hiện nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc trước tiên phải hoàn thành nhiệm vụ cải cách của mình và trở thành hình mẫu của nền dân chủ hiện đại để nâng cao hiệu quả năng lực quản lý và thúc đẩy nền dân chủ lập hiến ở Trung Quốc.

Tóm lại, xây dựng Hiến pháp quốc gia có liên quan chặt chẽ với cải cách dân chủ trong nội bộ đảng cầm quyền và không thể tách rời. Do đó, con đường được lựa chọn cho cải cách thể chế chính trị của Trung Quốc phải là cách tiếp cận theo hai hướng là chủ nghĩa Hiến pháp quốc gia và cải cách dân chủ nội bộ đảng.