Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2025

Khuất Đẩu: Đi tìm bóng mình trong cơn lũ cuồng nộ của lịch sử

 Trịnh Y Thư

1.

Tình cờ tôi được một người bạn cho mượn tập truyện nhan đề Người giữ nhà thờ họ và những truyện khác của nhà văn Khuất Đẩu. Tập truyện do nhà Ý Thức xuất bản năm 2009 gồm hai truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, Huyền Trân công chúa, và một số truyện ngắn. Đọc xong tập truyện, tuy muộn màng, nhưng tôi vẫn muốn viết ra đây vài ba cảm nhận chủ quan của mình bởi đây là cuốn sách đáng đọc và có nhiều điều đáng nói trong đó.

2. Ngôi nhà của những hồn ma

Hãy tưởng tượng một ngôi nhà bề thế tại ngôi làng xa xôi, xây mất ba năm mới xong với mười sáu cái cột kiền kiền vững chắc, mái “da cái”, cùng xà ngang trính dọc, bị một quả bom xăng của giặc đánh trúng, bốc cháy lam nham lở nhở, nhưng không hoàn toàn sụp đổ, và chủ nhân nó lấy những tấm lá tranh và bùn đất vá víu tạm bợ thành một cái chòi rồi chui rúc sống trong đó với người con dâu suốt chín năm kháng chiến chống Pháp.

Không, bạn không cần tưởng tượng nhiều bởi nhà văn Khuất Đẩu đã mô tả ngôi nhà đó rất kỹ trong thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ của ông in trong tập truyện này. Ngôi nhà là từ đường của dòng họ Phạm, trên bàn thờ trang nghiêm hương khói là 42 cái bài vị của 12 đời. Nó là ngôi nhà của những hồn ma, theo tác giả, và đến đời người thủ từ hiện tại, đời thứ 13, nó như chịu một lời nguyền rủa vô cùng ác độc nào đó, bởi liên tiếp hết người này đến người kia lần lượt qua đời, mà cái chết nào cũng oan khiên, đau đớn. Người em út, cô Chín, treo cổ tự tử trong nhà vì gã chồng cô ham mê cờ bạc; chú Sáu, người em trai đi đò chết chìm; và bà vợ ông một hôm trèo lên cây cau bắt tổ chim cho thằng cháu, cây cau đổ vì gốc nó mục nát, và bà ngã từ trên cao xuống, chết.

Với bối cảnh là không gian một ngôi làng tên An Định, thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi làng nằm trong vùng kiểm soát của phe kháng chiến, Khuất Đẩu đã dẫn dắt người đọc vào một thế giới truyện lạ lùng, bi thiết, xoay quanh cuộc sống tạm bợ, vất vưởng, đói kém của người thủ từ, nói lên thân phận con người trong một thực tại phi lý đến độ kinh hoàng.

Khuất Đẩu mở đầu câu chuyện với cảnh ngôi nhà bị trúng bom xăng của địch, bốc cháy. Tác giả nhân cách hóa ngôi nhà cháy: “Ngôi nhà phập phồng như một trái tim rướm máu. Nó hốt hoảng, kinh ngạc và nếu có thể kêu thét lên được thì nó đã rống lên rồi…” Nhưng nó không bị thiêu rụi sụp đổ thành đống tro tàn vì mười sáu cây cột vẫn đứng vững và cái mái “da cái” lợp bằng đất sét không suy suyển hư hao bao nhiêu. Thế là ông cùng người con dâu hì hụi chắp vá lại ngôi nhà ở tạm, riêng cái cửa ra vào bây giờ như lỗ chó, ra vào phải chui luồn qua y như chó. Cuộc sống dù thảm hại như thế nhưng ông không quên bổn phận người giữ nhà thờ họ, đêm đêm ông vẫn gõ đúng 42 tiếng chuông gọi 42 hồn người chết của 12 đời dòng họ trở về.

Chiến tranh hình như không bò về ngôi làng hẻo lánh đó của ông thủ từ, ngoại trừ lần bị máy bay địch thả bom làm cháy nhà ông, không thấy có một trận giao tranh hay càn quét nào xảy ra. Nhưng nó hiện về ở hình thức khác, tàn khốc không kém, khiến ông khốn đốn trăm bề: Cách mạng. Nói là cách mạng, nhưng trên thực tế, nó là một vụ trả thù, một vụ kích động lòng căm ghét của giai cấp này đối với giai cấp kia, mượn tay quần chúng để tiêu diệt kẻ thù của mình, một thủ đoạn vô cùng dã man thâm độc nhằm dọn lối đi cho con đường quyền lực. Những nhân vật ngày trước đầy quyền uy trong tay, thuộc thành phần cường hào ác bá như chánh tổng, lý trưởng, hương bộ, hương kiểm, ngày nay được thay thế bởi thành phần mới với tên gọi khác, chủ tịch này, chủ tịch nọ, nhưng bản chất hà hiếp, nhũng loạn người dân thì không thay đổi, thậm chí có phần tàn tệ hơn trước, như tác giả viết như sau:

Cuộc sống vốn dĩ khó khăn, ai cũng biết vậy nhất là sống trong thời giặc giã, nhưng không ngờ lại khó khăn như thế này. Mà đâu phải trời đất hay Tây đen Tây trắng gì cho cam, chỉ là những người cùng xóm với nhau. Mới đây thôi, khi chưa có phóng tay phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, thì dù có không ưa nhau mấy, lúc gặp nhau vẫn còn hỏi đi đâu đó, còn nói giả lả vài lời chứ đâu có nghiệt ngã như lúc này. Còn hơn cả quan phủ, quan huyện, y như cai ngục ở dưới chín tầng Diêm vương.”

Những kẻ làm cách mạng chỉ biết làm một việc duy nhất là khơi dậy, kích thích lòng căm thù từ những người dân xưa nay vốn sống hiền hòa bình dị. Họ là những nông dân, tá điền, người làm công, thuộc thành phần nghèo khổ nhất trong tầng lớp thôn làng, bởi thế không ít người mang sẵn máu căm ghét giai cấp có đất có ruộng, và khi lòng thù hận được khơi dậy, họ hò reo vui mừng để lộ ra bản chất thú tính trước cái chết tức tưởi của người hàng xóm:

Căm thù giống như một dịch bệnh xa lạ từ đâu lan tới. Hệt như bệnh sốt rét, ai cũng run lên vì căm thù mà không hiểu vì sao. Trước thì căm thù thực dân Pháp, phong kiến, tiểu tư sản, giờ căm thù can thiệp Mỹ, địa chủ ác ôn, phú nông ngoan cố. Căm thù đã trở thành thước đo của tiến bộ, của năng lực và dĩ nhiên là của lòng yêu nước. Yêu nước phải căm thù và căm thù là yêu nước! Bọn họ đã nói ra rả suốt ngày đêm như thế.”

Ông thủ từ ngày đêm lo sợ mình bị “nâng cấp” lên thành địa chủ, vì mang danh địa chủ có nghĩa là sẽ bị đấu tố, thậm chí bị xử bắn như chơi. Ở vào thời điểm đó, chẳng có luật pháp gì cả, hay đúng hơn, luật pháp là do đám chủ tịch tùy tiện đặt ra theo chỉ thị từ trên ban xuống hay theo cảm hứng bất chợt của họ. Ông thủ từ không bị đấu tố, có lẽ, vì người con trai ông đi bộ đội chiến đấu ở vùng xa, nhưng họ cho đám thiếu niên đêm đêm đến trước vườn nhà ông rồi đứa cầm thùng thiếc, đứa mõ tre, đứa phèng la thi nhau khủng bố tinh thần ông bằng những câu chửi rủa thô tục nặng nề.

Nhưng ông sống sót cho đến ngày kháng chiến thành công. Chiến tranh, cách mạng không giết được ông, nhưng ông chết vì chính hành vi của mình.

Trong cái ổ chó ông sống với người con dâu, một đêm ông hiếp cô. Nó không phải là cái bản năng thú tính của người đàn ông khiến lương tri mờ mịt trong phút giây hoảng loạn. Nó là cái gì đau đớn, chua xót hơn nhiều:

Ông ôm hai cái chân dựng ngược áp sát vào ngực. Rồi ông lắc như điên như dại với tất cả căm thù, tất cả tủi hận, tất cả xấu hổ trong suốt những ngày qua. Ông cũng kêu lên, rít lên như những con mụ tố khổ, như bọn trẻ hô đả đảo, có lúc gầm gầm gừ gừ như thằng Khứ hỏi cung…”

Làm sao ông có thể đối diện với lương tri mình bây giờ? Thêm thằng con trai từ mặt trận trở về, làm sao ông nhìn mặt nó được? Ông không thể đổ thừa cho ai hay cho bất kỳ điều gì được nữa, lại càng không nên xin lỗi, “cái lỗi to như hòn núi Đất thì xin sao được!” Và, trong một đêm tối thanh vắng có hai tiếng “bũm” vang lên từ dòng sông. Tiếng trước nhỏ hơn, đó là chai rượu chỉ còn cái vỏ; tiếng sau to hơn, nhưng nhờ tiếng chuông chùa “đang trôi trên sông đã làm cho cái tiếng ‘bũm’ mờ đi, bớt thô tục.”

Không giống dòng họ Buendía tại ngôi làng Macondo trong Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez, dòng họ Phạm của ông thủ từ ở làng An Định không bị tuyệt tự. Người con trai của ông sống sót trở về làng sau hai mươi năm tập kết ra Bắc. Nay đã là một người trung niên, anh về chỉ để chứng kiến cảnh tượng hoang tàn đổ nát của ngôi nhà thờ họ. “Chẳng còn gì cả ngoài một đống đất đầy cỏ dại và những cây tảo nhơn, cây thù đâu.” Anh được người làng báo tin rằng cha anh đã chết và vợ anh về ở bên nhà cha mẹ ruột. Anh tức tốc lội sông qua tìm vợ con. Chị vợ biết anh đến, cô lánh mặt, từ trong nhà nói vọng ra: “Nó là dòng dõi họ Phạm đấy. Nhưng tôi không còn là vợ anh!

Khuất Đẩu kết thúc truyện với câu nói bỏ lửng của người con dâu. Cái kết đột ngột để lại nỗi thắc mắc nhức nhối trong lòng người đọc: Đứa con thừa tự của dòng họ Phạm là con ông thủ từ, đời thứ 13, hay con của người con trai đi tập kết, đời thứ 14? Nó là câu hỏi không có câu trả lời, song nó như tô đậm thêm tính cách bi thảm tuyệt vọng của thân phận con người trong cơn lũ cuồng nộ, như thể tấn bi kịch đến đó chưa đủ, chưa là đoạn cuối, mà có thể còn kéo dài thêm nữa, kéo dài ra mãi.

3.

Với truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, nhà văn Khuất Đẩu sử dụng bút pháp phân mảnh, phi tuyến tính, phần tự sự đan xen với hồi ức. Nhà văn cố ý chia nhỏ, trình bày câu chuyện theo cách rời rạc, thường không có trình tự thời gian rõ ràng, để phản ánh thực tế phức tạp. Bút pháp này thường thấy ở các tác phẩm văn học Hiện đại và Hậu hiện đại, nó thách thức các cấu trúc kể chuyện truyền thống, buộc người đọc phải tự ghép lại ý nghĩa từ các yếu tố rời rạc. Với kỹ thuật viết đó, Khuất Đẩu đã vẽ lại toàn cảnh cơn lũ cuồng nộ càn quét qua đất nước Việt Nam trong một bối cảnh lịch sử khốc liệt.

Giữa tác phẩm văn học và lịch sử có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vì cả hai đều tìm cách thể hiện, diễn giải và cố gắng thấu hiểu trải nghiệm của con người nói chung. Tác phẩm văn học phản ánh bối cảnh lịch sử, xã hội, chính trị và văn hóa mà từ đó nó được viết ra. Nó có thể nắm bắt được thái độ, giá trị và hệ tư tưởng của thời đại, đóng vai trò là thấu kính để hiểu rõ hơn các quan điểm lịch sử, có thể đưa ra góc nhìn về lịch sử mà sử học truyền thống có thể bỏ qua. Trong khi các nhà sử học hướng đến sự thể hiện thực tế, nhà văn có thể sử dụng bối cảnh lịch sử để khám phá những sự thật phổ quát về bản chất con người hoặc tính đạo đức. Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và lịch sử là cộng sinh và phức tạp. Trong khi lịch sử cung cấp nguồn tài liệu phong phú cho tác phẩm văn học, thì tác phẩm văn học, ngược lại, tăng bổ sự hiểu biết của chúng ta về lịch sử qua phần tự sự có chiều sâu, qua sự cộng hưởng cảm xúc và trình bày một hay nhiều quan điểm khác với sử học truyền thống.

Những điều biên chép trong lịch sử không nhất thiết là sự thật, chưa chắc là chân lý. Chính văn hào người Anh thế kỷ XIX Samuel Butler đã thốt câu “Thượng đế không thể thay đổi quá khứ, nhưng sử gia thì có thể.” Napoléon Bonaparte, một người lính, một ông tướng, thì bộc trực hơn, sổ toẹt “Lịch sử là một tập hợp những điều nói láo!” Riêng đối với lịch sử Việt Nam thời cận và hiện đại thì lịch sử đôi khi chẳng qua chỉ là một văn bản tuyên truyền hay tài liệu học tập cho cán bộ đảng viên của đảng cầm quyền. Không tin tôi ư? Bạn hãy giở bộ sách nhan đề Đại cương lịch sử Việt Nam do các “sử gia” Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ biên soạn thì rõ. Bởi thế, tác phẩm văn học còn mang thêm trọng trách rất lớn. Nó tiếp nối lịch sử, vén lên cho thấy sự thật lịch sử bị che giấu dưới bức màn ý thức chính trị, thậm chí ý thức hệ. Nó khơi lại vết thương dân tộc đang dần dà chìm vào quên lãng.

Bạn có thể lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý: Tại sao phải nhắc lại một vết thương đã lành? Tại sao không quên đi quá khứ và hướng về tương lai để tìm nguồn sinh lực mới cho dân tộc?

Tôi hoàn toàn không chia sẻ luận điểm của bạn. Những điều nhà văn Khuất Đẩu miêu thuật trong thiên truyện Người giữ nhà thờ họ của ông là lịch sử, một lịch sử đau buồn của dân tộc, và lịch sử càng đau buồn thì càng nên nói đi nói lại về nó, càng nên ghi nhớ trong tâm trí để không bao giờ cho nó cơ hội tái diễn thêm một lần nữa. Trước Khuất Đẩu, đã có nhiều nhà văn, điển hình như Ngô Ngọc Bội, Võ Văn Trực, và ở chừng mực nào đó, Tô Hoài, nói về cuộc cách mạng đổ máu gây ra cái chết oan uổng cho hàng vạn con người. Lịch sử này bị chính sử cố ý bôi xóa, bóp méo. Chính sử thời quân chủ phong kiến cũng như thời cộng sản bây giờ được viết bởi kẻ thống trị; họ tô vẽ, sửa đổi lịch sử theo ý đồ, mục tiêu của họ, hiếm khi sự thực đen tối được tôn trọng một cách trung thực (ngoại trừ Tư Mã Thiên, và vì thế ông bị tội cung hình). Nhà văn là người dùng tài năng và quả tim mình điền vào chỗ trống, những lỗ hổng khiếm khuyết khổng lồ, do sử quan triều đình hay sử gia ăn lương Nhà nước để lại. Và như thường nghe nói, lịch sử sẽ tái diễn nếu ta lãng quên nó, ngòi bút của nhà văn giúp ta hiểu bài học lịch sử một cách thấu đáo, sâu sắc hơn. Hơn nữa, câu chuyện của nhà văn mang nặng chiều kích cảm xúc, vì đối tượng của văn học luôn là yếu tố con người, nên lịch sử được kể bởi nhà văn là một lịch sử sống, mà qua đó ta có thể hòa nhập vào các nhân vật và cảnh huống họ trải nghiệm.

Khuất Đẩu, qua thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, là một trong những nhà văn như thế.

4. Những truyện ngắn: Hiện thực hay phi thực?

Nếu truyện vừa Người giữ nhà thờ họ là chín phần hiện thực một phần phi thực thì những truyện ngắn khác của Khuất Đẩu gần như chìm đắm trong không gian phi thực, như muốn tháo gỡ mọi ràng buộc của hiện thực, dù là hiện thực văn chương, để bay bổng lên một hiện thực cao hơn, nơi có những điều mà chỉ có thể được truyền tải, giải mã bằng một giấc mơ.

Tính phi thực trong văn chương cho phép người viết phản ánh bản chất đa diện của trải nghiệm con người. Bằng cách xem cái phi thực là một phần của hiện thực, trộn lẫn phi thực vào hiện thực, tác giả gửi gắm được vào tác phẩm của mình những sự thật của cảm xúc sâu thẳm, đồng thời thách thức những nhận thức thông thường và tôn vinh sự phong phú của trí tưởng tượng cùng sự đa dạng văn hóa.

Khuất Đẩu đã làm được như vậy trong những truyện ngắn của ông, những truyện như: Những con đom đóm, Cha chung, Những hạt nút áo, Chiếc mặt nạ, Thư gửi người tình trăm tuổi, Tiểu công chúa, Bóng tháp, Vua Tango, Những con đom đóm, v.v., mỗi truyện đều có một mô-típ phi thực làm chủ đạo cho suy nghiệm, ý tưởng và hàm nghĩa, dẫn dắt người đọc truy tìm một ý nghĩa nào đó cho cuộc nhân sinh.

Truyện Vua Tango thuật chuyện một người đàn ông, trước cuộc đổi đời lịch sử, là một tay chơi khét tiếng, một “ông hoàng của các vũ trường”, nhưng khi thất trận và thất thế, anh xung phong đẫn vợ con lên vùng Kinh tế mới kiếm sống. Lên vùng đất hoang vu, anh không làm ruộng làm vườn kiếm kế sinh nhai mà chỉ trồng thuốc lá và pha chế cà phê, bởi anh nghiện nặng hai thứ đó. Anh có vẻ sống ung dung một mình trong căn chòi lụp sụp, vợ con ở nơi khác, dưới thị trấn làm ăn lẻ. Anh tiếp người bạn cũ (người kể chuyện) bằng một tách cà phê đậm đà nguyên vẹn hương vị thuở xa xưa.

Tuy lấy bối cảnh hiện thực làm phông cho câu chuyện, tác giả đã không cho phần tự sự dừng lại ở bên này đường biên mà đẩy nó vào vòng tròn huyễn mộng của phi thực khi cho Vua Tango chết đột ngột trong lúc đang làm cái việc mà anh yêu thích nhất: nhảy một đỉệu Tango, tại bữa tiệc trùng phùng hội ngộ với những người ngày xưa là học trò của anh.

Trong suy nghĩ của riêng tôi, đây là một truyện ngắn mang tính phi lý, nói cách khác, nó là sự xung đột giữa con người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống với một thế giới tàn bạo đến độ đóng băng. Nó là thân phận con người bị bánh xe lịch sử nghiền nát. Nhưng thay vì khuất phục và cam chịu, nhân vật của Khuất Đẩu đối mặt với sự phi lý bằng cách ngửng đầu lên thách thức nó. A, mày đày đọa thể xác và tâm hồn tao ư? Tao đếch sợ! Tao vẫn cứ làm những điều tao thích, mày làm gì được tao? Cuộc sống thiếu ý nghĩa khách quan không bắt buộc ta phải tuyệt vọng mà thay vào đó, nó mời gọi ta hãy sống trọn vẹn bất chấp chính sự phi lý đó. Cuộc sống vốn đầy dẫy mâu thuẫn và những điều phi lý, mà phi lý nhất là chiến tranh. Theo quan điểm của nhà văn kiêm triết gia Albert Camus thì phản ứng thích hợp đối với sự phi lý là hãy sống cho có mục đích và mãnh liệt, hầu tạo ra ý nghĩa của riêng ta trong một vũ trụ không có ý nghĩa nào.

Nhìn từ khía cạnh phi-triết, cái chết của “Vua Tango” là cái chết lãng mạn, chân phúc, thật đẹp. Một cái chết khác, đẹp và lãng mạn không kém, là cái chết của người đàn bà trong truyện Bóng tháp. Người đàn bà có chồng tử trận trong chiến tranh (vâng, chiến tranh là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong toàn bộ sáng tác của Khuất Đẩu), và một hôm, khi cuộc chiến đã tàn, cô đi bốc mộ xác người chồng, bỏ vào một chiếc thùng xốp và vác nó suốt ba chặng đường dài – một chuyến tàu hỏa, một chuyến xe hơi, và một đoạn đường đi bộ – để đem bộ hài cốt về giao tận tay người bên gia đình chồng trong một làng thôn hẻo lánh. Suốt mười năm cô sống trong mong đợi, đợi ngày hoàn tất nhiệm vụ vô cùng khó khăn đó. Trong thời gian đó, cô gặp người khác, một người từ nước ngoài về và anh ta tha thiết muốn cô chắp nối lại mối lương duyên với anh ta trong tháng ngày còn lại. Câu chuyện sẽ tầm thường biết mấy nếu tác giả cho người đàn bà ra về với một tâm trạng nhẹ nhõm, hân hoan, đầu óc vẽ ra hình ảnh và ước vọng tương lai sinh sống tại nước ngoài với người chồng mới. Không, rất may, nó không mắc phải nhược điểm ấu trĩ đó. Khuất Đẩu là một cây bút lão luyện, thẩm thấu rất rõ giá trị văn chương, và phần kết câu chuyện là đoạn văn tả cảnh người đàn bà tự trầm xuống dòng sông thật đẹp, đẹp đến não nùng:

Nàng tìm cách xuống sông. Những hòn đất rơi lõm bõm làm mặt sông nhăn nhúm run rẩy. Khi nước ngập đến cổ, nàng dừng lại. Đợi cho mặt nước lặng yên, nàng ngắm cái bóng tháp đựng đầy trong lòng sông. Ngọn tháp như được lau rửa, thắm đỏ đẹp lạ lùng. Nàng há miệng ra uống vào một ngụm. Cả bầu trời xanh trong vắt, cả ngọn đồi tròn trĩnh và cả ngọn tháp đỏ rực như mới xây, chui tuột vào bụng nàng. Một sức nặng không con số nào đo được kéo nàng xuống sát đáy. Trên cao, một con chim bói cá đâm bổ xuống như một mũi lao, rồi chỉ trong chợp mắt, mang lên một chú cá cuống quýt quẫy cái đuôi óng ánh bạc. Mặt trời lặn xuống thật nhanh như có ai đó thò tay đánh cắp.”

Thiên truyện chấm dứt ngay đó, và không ai hiểu nguyên do động lực nào khiến người đàn bà tìm cái chết tại dòng sông. Tại sao cô chết trong khi tương lai đời sống tốt đẹp hơn đang chờ đón cô ở chân trời phía trước mặt. Cô không thể sống vì chồng cô không còn tại thế với cô nữa ư? Không đâu. Cô đã sống được mười năm trời sau cái chết đau đớn của chồng mình. Hay là cô mang sẵn trong lòng ý nguyện chết theo chồng một khi đưa được hài cốt anh về nhà? Không thấy tác giả nói gì về điều đó, và tôi cũng chẳng muốn tin như vậy, bởi nó có vẻ “trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trau mình, quốc văn giáo khoa thư” lắm, nó không có chỗ đứng trong một thiên truyện có tính cách tân như truyện Khuất Đẩu.

Cũng như không ai hiểu nguyên do động lực nào khiến nàng Anna Karenina của Tolstoy gieo mình quyên sinh trước đầu máy chiếc tàu hỏa, người đàn bà của Khuất Đẩu nhìn thấy cái đẹp diễm ảo của cái bóng ngọn tháp khi nước sông ngập đến cổ cô. Cái chết đẹp như ngọn tháp, và có sự tương quan kỳ lạ, thậm chí ma mị, giữa hai sự vật tưởng chừng chẳng liên hệ gì đến nhau đó. Và đó là cái đẹp của văn chương khi được bao phủ bởi lớp sương mù của khí hậu phi thực đầy mộng ảo.

Ở một thiên truyện khác, Những con đóm đóm, người đàn bà lẽ ra phải đi tìm cái chết thì lại hồi tỉnh, hồi tâm và hồi sinh. Cô tìm ra con đường sống cho mình sau những trầm luân của kiếp người khi bị dìm xuống tận đáy bùn đen nhơ nhớp. Cô là gái điếm, một thứ đĩ rạc rài, tiếp khách làng chơi trong những ống bi bên vệ đường ngoài đồng ruộng. Cô có đứa con trai còn bé rất đĩnh ngộ, nhưng chẳng may nó xấu số chết sớm. Cô tin là linh hồn đứa bé biến thành con đom đóm và một đêm nọ trong lúc cô đang tiếp khách trong ống bi thì một con đom đóm bay vào khiến cô thốt nhiên tỉnh ngộ và cô vùng lên chạy như điên dại ra biển. Cô chạy ra biển không phải để tự trầm xuống mặt nước mà để gột rửa bùn nhơ trong tâm hồn cô.

Ta phải hiểu đó là giây phút khải thị. Con đom đóm, theo niềm tin của người đàn bà trong truyện, và hầu hết dân gian, là linh hồn người chết, chính là một biểu tượng ám chỉ ánh sáng hy vọng, một thứ ánh sáng tuy chập chờn yếu ớt nhưng đầy ân phúc bao dung. Nó là hy vọng được cứu chuộc và vẫn được sống như một con người, bởi sống như con người, cho trọn kiếp, là cái gì cực kỳ khó khăn.

Tương tự như thiên truyện vừa Người giữ nhà thờ họ, ở những truyện ngắn, tác giả không sử dụng thủ pháp Hiện thực Huyền ảo, không có những chi tiết miêu thuật thế giới hoang đường, siêu nhiên; nó cũng không phải là giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hoặc vô thức của trường phái Siêu thực, mà chỉ khéo léo trộn lẫn tự sự phi thực vào tự sự hiện thực như một cảnh ngộ tình cờ, khó có thể xảy ra trên đời, nhưng không phải tuyệt đối không thể xảy ra, như những truyện ngắn Tiểu công chúa, Cha chung…

Truyện Tiểu công chúa thuật câu chuyện một lão họa sĩ già vẽ những bức tranh tháp bay. Truyện ngắn này hàm chứa quan điểm của tác giả về nghệ thuật thị giác:

Chẳng phải là mơ sao mà đồng hồ báo thức lại mềm hẳn ra như sắp chảy, một con dê mà cũng biết kéo vĩ cầm… Đột nhiên tôi thấy mình ngộ ra: vẽ, không phải kỳ khu như một thợ thủ công mà phải biết chơi với sắc màu như đứa bé chơi đùa trên cát…”

Hiển nhiên, trong đoạn văn trên, Khuất Đẩu muốn nhắc tới hai nhà danh họa nửa đầu thế kỷ XX: Salvador Dalí và Marc Chagall, vốn là những họa sĩ tiên phong định hình cho luồng gió mới trong nghệ thuật hội họa Hiện đại Tây phương, và trong lúc đọc, tôi không thể không nhớ đến câu nói rất nổi tiếng của Pablo Picasso: “Tôi mất bốn năm để vẽ như Raphael, nhưng phải mất cả đời để vẽ như một đứa trẻ”.

Sự thú vị khi đọc truyện Khuất Đẩu là những chỗ tinh tế như thế.

5.

Lịch sử hình như đè nặng ngòi bút của nhà văn Khuất Đẩu. Với Huyền Trân Công chúa, truyện vừa thứ hai trong tập truyện, ông bơi ngược dòng lịch sử bảy trăm năm về thời Nhà Trần để dựng lại câu chuyện nàng công chúa nổi tiếng nhất lịch sử Việt Nam: Huyền Trân.

Hình như Khuất Đẩu không hài lòng với những điều biên chép trong chính sử: “Vì sao một vì vua anh minh và nhân hậu như Trần Nhân Tông lại đem con gái yêu của mình gả bán cho Chế Mân? Trần Khắc Chung là ai mà sau khi cứu được công chúa lại cùng nàng tư tình trên biển gần cả năm mới về?” Ông không ngần ngại đưa ra hai nghi vấn như thế, và đây chính là tiền đề cho câu chuyện ông muốn thuật lại.

Phải chăng chữ nghĩa do sử quan Nhà Trần viết, “Anh Tông được tin ấy sai Trần Khắc Chung giả mượn tiếng vào thăm để cứu công chúa. Nhân đó Khắc Chung cùng nàng tư thông trên biển” đã khiến Khuất Đẩu bất bình, và ông thấy cần phải viết thiên truyện này để cho thấy cái nhìn của ông sử quan nào đó chưa hẳn là đúng? Cái từ “tư thông”, nặng như búa tạ, sắc như lưỡi gươm đao phủ, là nỗi nhục oan uổng và oan khiên cho một nàng công chúa đã quên mình hy sinh vì lợi ích quốc gia. Nàng có tội tình gì, nếu không muốn nói là có công rất lớn đối với đất nước Đại Việt, mà phải chịu tiếng xấu nghìn thu như thế?

Khuất Đẩu nhất định không chịu tin lời vu oan giá họa hàm hồ của lão sử quan già nua khệnh khạng trọng nam khinh nữ cổ hủ triều Trần. Trong Lời phi lộ của thiên truyện, ông viết:

“Quê tôi gần thành Đồ Bàn. Cái kinh đô đã từng in dấu chân của Huyền Trân qua bao cuộc biển dâu giờ chỉ còn lại một bờ thành cũ bằng đất và tháp Cánh Tiên. Ngọn tháp đẹp nhất trong các ngọn tháp của xứ Chămpa, vẫn đứng sừng sững cùng với thời gian. Phải chăng vì có bóng dáng của Huyền Trân nên nó vẫn sáng long lanh như một khối ngọc khổng lồ. Ngọn tháp đẹp đến nỗi dù ở xa tận xứ Trầm Hương này, tôi vẫn thấy nó chiếu sáng từng đêm. Đó là cái Đẹp đã cứu rỗi cả một dân tộc.”

Trong mắt nhìn của Khuất Đẩu, công chúa Huyền Trân là biểu tượng cho cái Đẹp cao cả. Nàng là công chúa, cành vàng lá ngọc, nhưng lại thích cưỡi ngựa bắn cung và có lòng nhân hậu thương người, nhất là người dân nghèo khổ trong xã hội. Khi về xứ Chiêm làm vương hậu một quốc gia, tuy không lớn mạnh bằng Đại Việt nhưng hùng cứ một phương một cõi, nàng được thần dân xứ này yêu mến y như thuở còn ở quê nhà. Nàng yêu thương Chế Mân vì thấy ông vua này cũng là bậc anh hùng chứ không phải “thằng Mán thằng Mường” như những kẻ xấu mồm xấu miệng mỉa mai xách mé.

Khuất Đẩu tuyệt đối không có cái nhìn khinh bỉ đối với Chế Mân và dân tộc Chiêm Thành nói chung. Theo ông, đó là một dân tộc hiền hòa, hồn nhiên, chân thật, và có nền văn minh, văn hóa rực rỡ với hàng trăm ngọn tháp tuyệt đẹp được dựng lên khắp nơi trong xứ sở. Vẫn theo ngòi bút của Khuất Đẩu thì Huyền Trân về với Chế Mân được một năm, có thai trong bụng, nhưng chẳng may Chế Mân bất ngờ tử nạn trong một cuộc săn voi, và theo phong tục xứ Chiêm nàng phải chết theo chồng trên giàn hỏa thiêu. Nhưng vì đang có thai nên nàng được tạm hoãn, và nhân dịp đó, Trần Khắc Chung, theo lệnh của triều đình Nhà Trần, giả mượn tiếng viếng tang lễ Chế Mân, lập kế bắt công chúa đem đi.

Đây là đoạn Khuất Đẩu đi chệch ra khỏi chính sử. Trong truyện, công chúa Huyền Trân sau khi thoát khỏi thành Đồ Bàn được Trần Khắc Chung đưa đến một hòn đảo nhỏ ngoài biển Đông, tại đây nàng hạ sinh đứa bé, nhưng đứa bé chết lúc ra đời. Sau đó nàng bị Trần Khắc Chung cưỡng bức. Khuất Đẩu vẽ hình ảnh Trần Khắc Chung là một vị tướng hèn hạ, lỗ mãng, dung tục, tham sắc, và chẳng hề có mối tình lãng mạn nào giữa ông ta và công chúa, chẳng hề có chuyện “tư tình, tư thông, tư thiếc” như chính sử biên chép.

Bị Trần Khắc Chung cưỡng bức, tại sao Huyền Trân không tự kết liễu đời mình, chết theo chồng? Tại sao nàng vẫn về lại Thăng Long, lên núi Yên Tử thăm phụ hoàng Nhân Tông, lúc đó đã là một nhà tu, nhưng nàng không chịu đi tu, mà tiếp tục sống trong hoang lạnh cho đến cuối đời? Khuất Đẩu kết thúc thiên truyện ở đó mà không cho chúng ta câu trả lời.

Nhưng câu trả lời có quan trọng lắm không? Sự thật là không ai biết nàng sống như thế nào sau khi về lại đất Đại Việt. Theo dã sử và thần tích sau này thì nàng lên chùa tu ở núi Trâu Sơn theo di mệnh của vua Nhân Tông. Điều ấy chưa hẳn là chính xác, có thể do người đời sau thêu dệt. Liệu nàng có lấy một người chồng khác hay về phủ Thiên Trường sống ẩn dật ngày ngày quét dọn ngôi nhà tế tự của dòng tộc họ Trần?

Dù thế nào chăng nữa thì Khuất Đẩu vẫn nhìn thấy một Huyền Trân “đẹp long lanh như tháp Cánh Tiên giữa phế tích Đồ Bàn” như trong lời Kết của thiên truyện.

Trở lại với quyết định của vua Nhân Tông gả Huyền Trân cho vua Chiêm, Khuất Đẩu có ý chê trách vua Nhân Tông, một vì vua “anh minh và nhân hậu, mà lại đem con gái yêu của mình gả bán cho vua nước Chiêm” như ông viết trong Lời phi lộ. Tôi thì nghĩ ngược lại. Theo tôi, vua Nhân Tông đã rất sáng suốt, khôn ngoan và nhân hậu khi đem con gái yêu của mình gả cho Chế Mân!

Sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt với quân Nguyên và mặc dù đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, đất nước Đại Việt lúc đó đã kiệt quệ lắm rồi, dân tình thống khổ vì chiến tranh, và sách lược đối ngoại tốt nhất là tìm cách hòa hiếu với quốc gia ở phương Nam hầu tránh nạn đao binh không cần thiết. Trong thời gian chín tháng viếng thăm Chiêm Thành, Nhân Tông nhìn thấy tiềm lực của vương quốc này, họ không hèn yếu như nhiều người ở Thăng Long, do mặc cảm tự tôn, từng lạc quan đánh giá một cách sai lạc. Và quả nhiên như thế, sau Nhân Tông, Đại Việt đã khốn đốn nhiều phen với Chế Bồng Nga, một hậu duệ của Chế Mân. Chính vua Duệ Tông bị tử trận tại thành Đồ Bàn, và thành Thăng Long bị Chế Bồng Nga đem quân ra công phá ba lần.

Hôn nhân, dù là dị chủng, giữa các vương triều thời quân chủ phong kiến vốn là phương sách ngoại giao hữu hiệu, vua Nhân Tông đã không bỏ lỡ cơ hội để bảo đảm hòa bình cho Đại Việt, ít nhất trong một thời gian vài ba mươi năm, hầu dành thời gian tái thiết quốc gia, lấy lại sinh lực dân tộc. Và thêm mối lợi to, nghìn dặm đất hai châu Ô-Rí (một dải đất bao gồm hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị ngày nay) từ nay thuộc về Đại Việt mà không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu. Vua Nhân Tông quả là một nhà lãnh đạo tài giỏi và ngài đã đặt quyền lợi quốc gia lên trên tình cảm gia đình, dòng tộc.

Khuất Đẩu khi viết thiên truyện này không có ý đồ viết lại lịch sử. Ông chỉ muốn làm công việc duy nhất là cố tẩy xóa cái từ “tư thông” tai ác ghi trong chính sử, cho chính ông mà thôi, bởi ông nhìn thấy cái Đẹp của Huyền Trân công chúa. Và cũng bởi thế, truyện hiền lành, cận nhân tình, hướng thiện. Với thiên truyện này, Khuất Đẩu không có những ẩn dụ tinh sắc và tinh tế của Nguyễn Huy Thiệp (do sống cả đời dưới bóng đen che phủ của cái-gọi-là Hiện thực Xã hội chủ nghĩa nên không thoát được cái vòng kim cô mà Czeslaw Milosz gọi là tâm thức ngục tù); nó cũng thiếu cái tàn nhẫn phi lý đặc trưng của Trần Vũ (do căm ghét giai cấp thống trị nên không ngần ngại giải thiêng, dung tục hóa các thần vị anh hùng). Nhưng Khuất Đẩu có cái nhìn nhân bản, và đó chính là điểm mạnh làm nền tảng cho ngòi bút của ông.

6.

Truyện Khuất Đẩu, dù là truyện ngắn hay truyện vừa, mở ra trong tâm tư người đọc nhiều liên tưởng bát ngát; bên dưới lớp vỏ thô nhám, sần sùi, đôi khi tàn bạo, khốc liệt, là những chua xót, ngậm ngùi cho thân phận con người, những thân phận bị chôn vùi dưới con trốt xoáy của lịch sử và dòng đời. Đọc Khuất Đẩu không phải để tìm kiếm câu trả lời cho những vấn nạn nhân sinh, nhà văn không đưa ra đáp án, lại càng không rao giảng đạo đức, thậm chí một lời an ủi cũng không.

Tác phẩm văn học, khác với một cuốn sách sử học, chính trị học, tâm lý học, xã hội học, v.v. ở chỗ nó khám phá những tình huống, bình thường và phi thường, để có thể đào sâu vào những trải nghiệm phổ quát của con người như tình yêu, sự mất mát, cái chết, ý nghĩa cuộc sống, các mối quan hệ, tính đạo đức cũng như phi đạo đức, những xung đột, niềm vui, nỗi đau khổ và sự phức tạp của cảm xúc. Nó chiêm nghiệm cách thế mỗi cá nhân điều hướng những chủ đề này trong bối cảnh cuộc sống và xã hội của họ, đưa ra những nhân vật và tình huống dễ đồng cảm, và gây được tiếng vang sâu thẳm trong lòng người đọc. Nó va chạm và trăn trở những vấn đề của muôn kiếp trước, của nghìn kiếp sau chứ không phải nhất thời, vì vậy, nó không bao giờ trở nên cũ kỹ, lỗi thời. Trang sách có thể úa vàng rách nát nhưng những con chữ trên mặt sách vẫn nóng hôi hổi như vừa được viết ra với dòng máu sục sôi.

Tôi tin là Khuất Đẩu đã làm được điều đó qua tập truyện Người giữ nhà thờ họ và những truyện khác của ông.

(1/2025)