Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (kỳ 27)

Tác giả: Lê Oa Đằng

Việt dịch: Phan Văn Song

This image has an empty alt attribute; its file name is image-61.png

VI.10. Tranh chấp vùng nhận dạng phòng không và đường 9 đoạn

Đồng ý xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông”

Sau khủng hoảng bãi Cỏ Mây, quan hệ Trung Quốc – ASEAN hết sức căng thẳng. Để làm dịu quan hệ này và mâu thuẫn đảo Điếu Ngư (Senkaku) giữa Trung Quốc với Nhật Bản, đồng thời hy vọng chuyến thăm Mĩ của Tập Cận Bình có thể đạt được sự đồng thuận về “quan hệ nước lớn kiểu mới”,[1180] trong nửa cuối năm 2013, thái độ Trung Quốc đối với vấn đề biển Đông dịu xuống.

Tại Diễn đàn Shangri – La đầu tháng 6/2013, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Thích Kiến Quốc nhắc lại thái độ của Trung Quốc đối với vấn đề đảo Điếu Ngư là “gác tranh chấp”. Ngụ ý sâu xa là cuộc khủng hoảng đảo Điếu Ngư nghiêm trọng hơn nhiều so với vấn đề biển Đông, nếu có thể gác tranh chấp về vấn đề đảo Điếu Ngư thì không lí do gì lại không thể làm như vậy đối với biển Đông.

Ngày 16/5/2013, Trung Quốc đơn phương vạch ra khu vực cấm đánh bắt cá tại biển Đông, giới hạn khu vực này chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và vùng đánh bắt cá truyền thống theo tuyên bố của Việt Nam, khiến phía Việt Nam phản đối. Ngày 20/5, tàu cá Việt Nam QNg 90917 TS bị tàu hải cảnh Trung Quốc đâm hỏng. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc bồi thường và cam kết không để xảy ra những vụ việc tương tự. Quan hệ Trung – Việt trở nên căng thẳng. Nhưng, từ ngày 19-21/6, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang thăm Bắc Kinh, hai nước đạt được một loạt hiệp định hợp tác và ra “Tuyên bố chung Trung – Việt”. Phần liên quan đến biển Đông trong tuyên bố này như sau:

Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về các vấn đề trên biển, nhất trí việc lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển xuất phát từ tầm cao chiến lược và đại cục quan hệ hai nước. Hai bên sẽ nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, sử dụng tốt các cơ chế như đàm phán biên giới lãnh thổ cấp Chính phủ..., kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển.

... Trước khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai bên nhất trí giữ bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng giữa Bộ Ngoại giao hai nước để quản lí, kiểm soát khủng hoảng trên biển, xử lí thỏa đáng các vấn đề nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại cục quan hệ Việt - Trung cũng như hòa bình, ổn định tại biển Đông. Hai bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” (DOC), cùng nhau duy trì hòa bình và ổn định ở biển Đông”.[1181]

Ngoài ra, hai bên còn kí “Hiệp định thiết lập đường dây nóng giữa Bộ Nông nghiệp Trung Quốc và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam về những sự việc đột xuất trong hoạt động nghề cá”. Theo giải thích của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Cao Đức Phát, Hiệp định này “đảm bảo chắc chắn cho an toàn và lợi ích chính đáng của ngư dân (Việt Nam) tiến hành hoạt động đánh bắt cá hợp pháp trên biển, tránh xảy ra sự cố, ảnh hưởng đến đời sống của ngư dân hai nước.”[1182]

Bên cạnh đó, hành động quan trọng nhất của Trung Quốc là điều chỉnh quan hệ với ASEAN, nhượng bộ trước các vấn đề lớn. Ngày 30/6, trong một loạt Tuyên bố chung Trung Quốc – ASEAN được thông qua tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Brunei có phần liên quan đến biển Đông như sau:

Các bên hoan nghênh các trao đổi tích cực giữa Trung Quốc và các nước ASEAN để duy trì hòa bình và ổn định ở biển Đông, tái khẳng định tầm quan trọng của sự hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ASEAN trong lĩnh vực này, đồng thời nhấn mạnh rằng Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở biển Đông cần được thực thi đầy đủ và hiệu quả, tiến bộ vững chắc trên cơ sở đồng thuận, thúc đẩy việc đạt được “Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông”.

Các bên hoan nghênh việc tổ chức Hội nghị cấp cao nhân 6 năm thực hiện “Tuyên bố” và cuộc họp Nhóm công tác chung lần thứ 9 tại Trung Quốc vào tháng 9 năm nay. Tại Hội nghị, các bên sẽ trao đổi ý kiến sâu về việc thực hiện toàn diện, hiệu quả “Tuyên bố” và tăng cường hợp tác trên biển, đồng thời bàn thảo về “Bộ Quy tắc (ứng xử)” trong khuôn khổ “Tuyên bố”. Các bên còn nhất trí các bước thành lập “Nhóm chuyên gia có tiếng”, trợ giúp cho việc bàn thảo nói trên. Các bên cho rằng Trung Quốc và các nước ASEAN hoàn toàn có quyết tâm và khả năng xây dựng biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác.[1183]

Điểm quan trọng nhất trong Tuyên bố chung này là, lần đầu tiên Trung Quốc đồng ý cùng các nước ASEAN xây dựng “Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông” và ấn định thời điểm bắt bàn thảo về bộ quy tắc này vào tháng 9. Các nước ASEAN luôn hy vọng tiến tới kí kết thỏa thuận “Bộ quy tắc ứng xử” ở trên cơ sở “Tuyên bố” vốn không mang tính ràng buộc pháp lí. Tuy nhiên, Trung Quốc luôn bác bỏ với lí do trước hết phải thực hiện Tuyên bố. Tháng 11/2012, ASEAN có ý định xúc tiến lần nữa “Bộ Quy tắc ứng xử ở biển Đông”, Trung Quốc vẫn từ chối đưa ra thời gian biểu cho việc xây dựng “Bộ Quy tắc ứng xử”. Trong Tuyên bố chung Trung – Việt nêu ở phần trên cũng chỉ đề cập đến việc thực hiện “Tuyên bố”. Vì vậy, lần chuyển biến này của Trung Quốc (6/2013) được coi là một thắng lợi lớn của các nước ASEAN trong vấn đề biển Đông, dù cho bước đi tiếp sau rất chậm trễ.

Điểm gai góc nhất trong vấn đề biển Đông là Trung Quốc và các nước ASEAN có thống nhất được phương thức hiệp thương đa phương hay không. Theo truyền thống, Trung Quốc nhấn mạnh việc giải quyết vấn đề song phương giữa các nước có tranh chấp, còn các nước ASEAN ủng hộ phương thức cả khối ASEAN đàm phán với Trung Quốc. Về mặt này, Trung Quốc có vẻ có nhượng bộ, vì rằng Tuyên bố chung Trung – Việt có nhắc lại “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam” kí ngày 11/10/2011, trong đó có nêu: “Đối với những vấn đề tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, hai bên sẽ giải quyết bằng đàm phán và thương thảo hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác thì sẽ tiến hành đàm phán với các bên tranh chấp đó.”[1184] Ở đây không viết rõ chủ ngữ của “ tiến hành đàm phán với các bên tranh chấp đó”, là một trong hai bên Trung Quốc và Việt Nam hay cả hai bên Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng từ văn bản có thể thấy, chủ ngữ của vế trước là “hai bên” nên chủ ngữ của phần này là “hai bên” thì thích hợp hơn. Nếu đúng như vậy thì điều đó tương đương với Trung Quốc chấp nhận phương án đàm phán đa phương.

Có thể thấy, trong nửa cuối năm 2013, ngoại giao Trung Quốc về biển Đông (và biển Hoa Đông) bỗng trở nên lí tính hơn. Nhưng, ngay trong lúc quan hệ Trung Quốc – ASEAN dịu đi thì tranh chấp về vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) do cuộc khủng hoảng quần đảo Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản dẫn tới, đột ngột kéo ASEAN khỏi Trung Quốc.

Khủng hoảng đảo Điếu Ngư (Senkaku) và tranh chấp về vùng nhận dạng phòng không (ADIZ)

Năm 2013, giữa Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra cuộc khủng hoảng đảo Điếu Ngư. Nói một cách đơn giản, dãy đảo Điếu Ngư (gọi tắt là đảo Điếu Ngư) là quần đảo nhỏ nằm giữa khu vực Đông Bắc đảo Đài Loan và phía Tây đảo Ryukyu (Lưu Cầu) Nhật Bản, bao gồm đảo chính là Điếu Ngư; hai đảo nhỏ phía Bắc và phía Nam gần đó; đá Hoàng Vỹ phía đông bắc đảo Điếu Ngư, và đá Xích Vĩ ở xa hơn về phía Đông, tổng diện tích không quá 7 km². Sau Thế chiến II, đảo Điếu Ngư do chính quyền Ryukyu thuộc Mĩ quản lí, năm 1972 được trả lại cho Nhật Bản quản lí cùng với đảo Ryukyu, theo “Hiệp ước trao trả Okinawa”. Trước lúc Mĩ và Nhật Bản đạt được Hiệp ước thì Đài Loan và Trung Quốc đột nhiên tuyên bố Điếu Ngư xưa nay thuộc về Trung Quốc, tranh chấp đảo mở ra. Năm 1970, khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc và Nhật Bản đã ngầm thỏa thuận không để Điếu Ngư ảnh hưởng đến quan hệ hai bên, giữ nguyên hiện trạng quản lí của Nhật Bản. Ngày 12/9/2012, phớt lờ sự phản đối của Chính phủ Trung Quốc, Chính phủ Nhật Bản đã “quốc hữu hóa” đảo Điếu Ngư, nghĩa là chuyển quyền tài sản từ tay tư nhân sang tay Chính phủ. Việc này gây sự phản đối mạnh mẽ từ chính phủ Trung Quốc cũng như các cuộc biểu tình chống Nhật quy mô lớn trong dân chúng. Từ đó, quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản kết thúc thời kì “nồng ấm”, bước vào tình trạng đối kháng gay gắt.[1185]

Tranh chấp đảo Điếu Ngư đem đến sự thay đổi chấn động đối với Đông Á và Đông Nam Á. Trước hết, nó làm gia tăng tình thế đối kháng và xáo trộn ở Đông Á và Đông Nam Á. Thứ hai, Chính phủ của Đảng Dân chủ Nhật Bản bị công kích kịch liệt, trong cuộc tổng tuyển cử tháng 12, Noda Yoshihiko bị thất cử, Abe Shinzo thuộc phái cứng rắn kế nhiệm Thủ tướng. Để đối phó với Trung Quốc, Abe đề xuất: (1) Vòng cung dân chủ, chủ trương liên kết Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Ấn Độ là các quốc gia có chung quan điểm giá trị về dân chủ để chống lại Trung Quốc; (2) dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể của Nhật Bản, trở ngại lớn nhất đối với đề xuất này là phái tự do trong nước Nhật (chủ nghĩa hòa bình), nhưng trước sự đe dọa từ thái độ cứng rắn của Trung Quốc, đặc biệt là việc Trung Quốc nhanh chóng mở rộng quân đội, kích động lòng căm thù Nhật Bản, tàu công vụ không ngừng tiến vào vùng biển Điếu Ngư, không muốn giải quyết tranh chấp bằng luật quốc tế, thiết lập ADIZ trái luật quốc tế và mưu đồ chia cắt Ryukyu, nên Abe và liên minh hai đảng Tự do và Dân chủ có thể điều khiển được Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, thông qua việc sửa đổi luật an ninh một cách thuận lợi vào năm 2015, dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể;[1186] (3) để giảm nhẹ áp lực trên biển Hoa Đông, Nhật Bản gia tăng sức mạnh ngoại giao tại khu vực biển Đông, tìm kiếm đồng minh để đẩy Trung Quốc khỏi tiêu điểm biển Hoa Đông; (4) biển Đông cũng là tuyến đường sống còn đối với Nhật Bản. Nhật Bản trở thành một lực lượng trọng yếu khác trong vấn đề biển Đông.

Từ 9-12/11/2013, Trung Quốc triệu tập Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII. Hội nghị thông qua quyết nghị thành lập “Uỷ ban An ninh quốc gia”, do Chủ tịch nước, Tổng bí thư đảng, Chủ tịch Quân Uỷ Trung ương Tập Cận Bình làm Chủ tịch. Nó “không phải là cơ quan nhà nước”, cũng “không phải là ban ngành chính phủ”, mà là cơ quan lãnh đạo có quyền lực của Đảng Cộng sản, kết hợp an ninh đối ngoại với an ninh đối nội để thống nhất lãnh đạo chính trị, phối hợp giữa công an, cảnh sát vũ trang, tư pháp, Bộ an ninh quốc gia, Cục 2 và Cục 3 Bộ Tổng tham mưu quân giải phóng, Ban liên lạc Tổng cục Chính trị, Bộ Ngoại giao, Văn phòng tuyên truyền đối ngoại,...; lãnh đạo các lĩnh vực liên quan đến quân đội, công an, ngoại giao, tình báo. Ngày 23/11, Uỷ ban An ninh quốc gia châm ngọn lửa đầu tiên – Trung Quốc đột nhiên đơn phương đề xuất việc thiết lập “vùng nhận dạng phòng không” (ADIZ) trên biển Hoa Đông.[1187] Hành động đó đã đẩy mâu thuẫn biển Hoa Đông lên một nấc mới.

ADIZ do Trung Quốc thiết lập có 4 đặc trưng quan trọng.

Thứ nhất, thiết lập khá đột ngột, trước đó không hề trao đổi với bất kì quốc gia nào.

Thứ hai, ADIZ của Trung Quốc chồng lấn với ADIZ của các nước và khu vực lân cận: chồng lấn với ADIZ của Nhật Bản trên diện tích lớn, chỗ gần Nhật Bản nhất chỉ có 130 km, đồng thời trùm hết đảo Điếu Ngư; chồng lấn với ADIZ của Hàn Quốc, trùm lên bãi đá Suyan (Tô Nham); cũng chồng lấn với ADIZ của Đài Loan.

Thứ ba, cũng là điểm quan trọng hơn, đó là nó khác với ADIZ mang tính giám sát của Mĩ và các nước, các khu vực lân cận. ADIZ của Trung Quốc mang tính kiểm soát, yêu cầu tất cả máy bay bay qua vùng này phải nộp kế hoạch bay cho Trung Quốc và chịu sự quản lí của lực lượng vũ trang Trung Quốc.

Thứ tư, khi mới tuyên bố, quan chức Trung Quốc đã rất cao giọng nhấn mạnh rằng việc thiết lập ADIZ có ý nghĩa to lớn và đột phá chuỗi đảo thứ nhất; phía quân đội còn tuyên bố Trung Quốc có quyền bắn rơi máy bay nước ngoài xâm nhập ADIZ mà không tuân theo sự quản lí của Trung Quốc.[1188]

Cách làm này đồng nghĩa với việc coi ADIZ là vùng cấm bay, làm chấn động thế giới và lập tức vấp phải hàng loạt phản đối. Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc, thậm chí Đài Loan đều phản ứng mạnh mẽ. Mĩ tuyên bố không thừa nhận ADIZ do Trung Quốc đơn phương thiết lập, đồng thời cho máy bay ném bom B52 bay trên vùng biển Hoa Đông. Quân đội Mĩ đưa ra chính sách “ba không” cứng rắn: không nộp kế hoạch bay, không thông báo trước qua vô tuyến, không cung cấp băng tần. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cũng cứng rắn tương tự, bay vào ADIZ của Trung Quốc nhưng không thông báo trước. Australia, Anh quốc và Philippines liên tiếp biểu thị thái độ rõ ràng không thừa nhận ADIZ của Trung Quốc. Dư luận các nước lớn khác như Nga, Ấn Độ và Châu Âu đều thể hiện thái độ lo lắng. Ban đầu, Nhật Bản và Hàn Quốc cấm máy bay dân dụng trong nước nộp kế hoạch bay khi không đi vào không phận Trung Quốc nhưng bay qua ADIZ của nước này. Tuy nhiên, sau khi máy bay dân dụng Mĩ muốn nộp kế hoạch bay vì sự an toàn (của chuyến bay) nên Nhật Bản và Hàn Quốc có chút thay đổi, cho phép máy bay dân dụng tự quyết định có nộp kế hoạch hay không. Các nước lập tức tính đến biện pháp chống đối. Sau khi yêu cầu Trung Quốc xoá bỏ ADIZ chồng lấn với mình không thành, Hàn Quốc tuyên bố mở rộng ADIZ, bao gồm cả đảo Suyan (Tô nham / Ieodo), có phạm vi đồng nhất với vùng thông tin bay (Flight Information Region) của Hàn Quốc. Hàn Quốc còn chuẩn bị nâng cấp ADIZ vốn không cần nộp kế hoạch bay thành vùng nhận dạng phải báo cáo trước như kiểu Trung Quốc. Tình hình biển Hoa Đông đột nhiên nóng lên.

Sau khi bị các nước liên tục phản dối và phớt lờ, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đành tuyên bố lại: ADIZ không phải là không phận, không phải vùng cấm bay, không ảnh hưởng tới quyền tự do hàng không của các nước, v.v... Tuy nhiên, cách nói này rõ ràng ngược lại với quy định luật pháp của Trung Quốc và sự cao giọng ban đầu của Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Do Trung Quốc cứng đầu không chịu sửa đổi, còn các hãng hàng không dân dụng các nước vì lo ngại đến an toàn của hành khách nên cũng đành phải chịu theo quy định của Trung Quốc, nhưng điều đó càng làm tăng hình ảnh “bá đạo” của Trung Quốc trên trường quốc tế. Mặt khác, quân đội Mĩ, Nhật Bản và Hàn Quốc đều phủ nhận quyền kiểm soát ADIZ của Trung Quốc bằng thái độ cứng rắn và hành động thực tế.

Vì vậy, việc Trung Quốc đột ngột và đơn phương thiết lập ADIZ có tính kiểm soát vi phạm luật pháp quốc tế là một sai lầm lớn. Về đối ngoại, hành động này đã đẩy các nước đi ngược chiều với Trung Quốc; về đối nội, nó làm cho dân chúng đang cực kì hưng phấn bỗng trở nên thất vọng, quay sang chế nhạo và không tin tưởng Chính phủ. Ngay đến một số học giả ủng hộ lập trường Trung Quốc cũng phải thừa nhận: đây là hành động “nông cạn”.[1189] Tình thế biển Đông và biển Hoa Đông vốn đã có dấu hiệu dịu lại, nhưng ngay khi hành động này vừa đưa ra, cả khu vực lại rơi vào căng thẳng.

Luật quốc tế về vùng nhận dạng phòng không

Ý định thiết lập ADIZ được Trung Quốc ấp ủ từ lâu. Các nước lân cận như Hàn Quốc (1950), Nhật Bản (1969) và Đài Loan đã sớm thiết lập ADIZ. Do đó, việc Trung Quốc muốn thiết lập vùng nhận dạng phòng không của riêng mình cũng không có gì sai trái. Vấn đề ở chỗ, ADIZ có tính kiểm soát do Trung Quốc thiết lập mâu thuẫn nghiêm trọng với luật quốc tế, đây cũng là nguyên nhân khiến các nước trên thế giới phản đối.

Nhìn từ góc độ luật quốc tế, ADIZ của Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan theo kiểu giám sát. Trước hết, họ phân biệt rõ máy bay quân sự và máy bay dân dụng. Máy bay dân dụng nước ngoài khi bay vào ADIZ thì phải thông báo đầy đủ và chịu sự quản lí; nhưng máy bay quân sự nước ngoài, trừ phi muốn bay vào không phận (nước sở tại) thì phải báo cáo còn nếu chỉ bay qua ADIZ mà không bay vào không phận thì không cần thông báo và không chịu sự quản lí. Đương nhiên, trong tình huống cần thiết, máy bay quân sự nước sở tại sẽ căn cứ vào chỉ dẫn nội bộ về ADIZ để tiến hành giám sát, bay cùng hoặc ngăn chặn máy bay quân sự nước ngoài bay vào ADIZ. Nhưng về mặt pháp lí, đây chỉ là hành động chỉ dẫn đối với máy bay quân sự nước sở tại chứ không phải nghĩa vụ áp đặt lên máy bay quân sự nước ngoài.

Ví dụ, về định nghĩa pháp lí, đối tượng áp dung của ADIZ Mĩ chỉ là máy bay dân dụng. Trong “Bộ quy tắc liên bang” (Code of Federal Regulations) Phần 99 Kiểm soát an toàn không lưu (PART 99 - SECURITY CONTROL OF AIR TRAFFIC) có định nghĩa: “Vì lợi ích an ninh quốc gia, máy bay dân dụng phải sẵn sàng khai báo lai lịch, báo cáo vị trí và và chấp nhận vùng trời có sự quản lí” (Air defence identification zone means an area of airspace over land or water in which the ready identification, location, and control of civil aircraft is required in the interest of national security: vùng nhận dạng phòng không là phạm vi vùng trời trên đất liền hoặc trên biển, đòi hỏi máy bay dân dụng đi vào vùng này phải được nhận dạng, xác định vị trí và chịu sự kiểm soát vì lợi ích an ninh quốc gia).[1190] Có thể thấy, đây là vùng trời cho đối tượng máy bay dân dụng. Tương tự, các chi tiết cụ thể trong quy định đều nhằm vào máy bay dân dụng chứ không phải máy bay quân sự. Đồng thời, đơn vị quản lí là Cục quản lí bay Liên bang (Federal Aviation Administration) thuộc Bộ giao thông. Vì thế, quy định về chế độ quản lí ADIZ đối với máy bay nước ngoài của Mĩ đều nhằm vào máy bay dân dụng, không có yêu cầu pháp lí như vậy đối với máy bay quân sự nước ngoài.

Đối với máy bay quân sự, Mĩ tuyên bố: “Mĩ không thừa nhận quyền của các quốc gia ven biển áp dụng thủ tục ADIZ đối với thiết bị bay nước ngoài không có dự định bay vào không phận của nước sở tại, cũng không áp dụng thủ tục này của Mĩ đối với thiết bị bay nước ngoài không có dự định bay vào không phận nước Mĩ. Cũng như vậy, các thiết bị bay của Mĩ nếu không có dự định bay vào không phận nước khác, cũng không cần khai báo lai lịch của mình hay tuân thủ thủ tục ADIZ do nước khác quy định, trừ khi Mĩ đồng ý làm như vậy.”[1191] Cũng có nghĩa là, nếu máy bay quân sự nước ngoài muốn bay vào không phận nước Mĩ thì phải báo cáo và chịu sự quản lí của cơ quan quản lí Mĩ; nhưng nếu máy bay quân sự nước ngoài chỉ bay qua ADIZ mà không bay vào không phận Mĩ thì không phải chịu sự quản lí của Mĩ. Điều đó phù hợp với luật quốc tế về tự do hàng không trong vùng trời quốc tế.

Nhật Bản không có bất kì yêu cầu nào đối với máy bay quân sự nước ngoài khi bay vào ADIZ, nhưng có giám sát hoặc điều máy bay bay kèm. Máy bay quân sự Trung Quốc đã nhiều lần bay vào ADIZ Nhật Bản và đều không có thông báo trước, càng không chịu sự chỉ huy của quân đội Nhật Bản, và Nhật Bản cũng không cho rằng máy bay quân sự Trung Quốc vi phạm luật pháp.

Ngược lại, tuy Trung Quốc dùng đầy đủ danh từ “vùng nhận dạng phòng không” để đặt tên cho ADIZ do mình thiết lập, nhưng đã mở rất rộng đáng kể ý nghĩa pháp lí của nó. Mĩ thiết lập ADIZ là để điều chỉnh hành vi máy bay quân sự của nước mình, chẳng hạn khi có máy bay quân sự nước ngoài bay qua ADIZ thì máy bay quân sự họ cần ứng phó ra sao, thực chất là giám sát khu vực này. Nhưng ADIZ của Trung Quốc lại là để điều chỉnh hành vi của máy bay quân sự nước ngoài, cũng tức là muốn kiểm soát khu vực này.

Điều 2 trong “Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc thiết lập ADIZ trên Biển Hoa Đông” quy định:[1192]

1. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (dưới đây gọi tắt là vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông) phải tuân thủ quy tắc này.

2. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải cung cấp các phương thức nhận dạng dưới đây:

(i) Nhận dạng kế hoạch bay trong ngày. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải thông báo kế hoạch bay với Bộ Ngoại giao hoặc Cục hàng không dân dụng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

(ii) Nhận dạng vô tuyến điện. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải mở và duy trì thông tin liên lạc vô tuyến hai chiều , trả lời kịp thời, chuẩn xác câu hỏi nhận dạng của cơ quan quản lí hoặc đơn vị được Uỷ quyền của vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông.

(iii) Nhận dạng máy hỏi đáp. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải mở thiết bị ra đa hỏi đáp thứ cấp trong suốt hành trình bay.

(iv) Nhận dạng nhãn hiệu (logo). Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải hiển thị rõ quốc tịch và logo đăng kí nhận dạng, theo quy định liên quan của Công ước quốc tế,

3. Thiết bị bay bay trong vùng nhận dạng phòng không biển Hoa Đông phải phục tùng mệnh lệnh chỉ huy của cơ quan quản lí hoặc đơn vị được Uỷ quyền của vùng nhận dạng phòng không. Lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ lựa chọn các biện pháp phòng thủ để xử lí khẩn cấp đối với những thiết bị bay không hợp tác với việc nhận dạng hoặc không phục tùng mệnh lệnh chỉ huy của vùng nhận dạng phòng không.

Theo quy định này, tất cả máy bay, dù là nước ngoài hay trong nước, dù có dự định bay vào không phận Trung Quốc hay chỉ bay qua ADIZ đều phải tuân thủ quy định do Trung Quốc đơn phương đề ra: nộp trước kế hoạch bay, mở máy điện đàm trả lời, “đăng kí” logo nhận dạng, hơn thế phải phục tùng sự quản lí và mệnh lệnh chỉ huy của lực lượng vũ trang Trung Quốc.

Các nước khác không thể chấp nhận những quy định này của Trung Quốc, vì vùng trời ở đó là vùng trời chung, Trung Quốc không có bất cứ quyền hạn nào để quy định phạm vi bay của máy bay quân sự nước ngoài không bay vào không phận Trung Quốc ở đó. Mĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc tiến hành nhiều cuộc diễn tập quân sự, tuần tra và các hoạt động khác tại khu vực chung này, chẳng lẽ đều phải nộp kế hoạch trước cho Trung Quốc và chịu sự quản lí của quân đội Trung Quốc sao?

Trước sự phê phán của các nước, Trung Quốc buộc phải thừa nhận cách làm theo kiểu “phương thức kiểm soát” này thực sự đã vượt qua quy định của vùng nhận dạng Mĩ, Nhật Bản, nhưng vẫn biện hộ rằng chưa có thỏa thuận quốc tế nào về ADIZ nên cách làm của Trung Quốc cũng không đi ngược quy định quốc tế. Cách giải thích này rõ ràng là sai lầm.

Mặc dù không có sự thống nhất về khái niệm ADIZ trong luật pháp quốc tế, nhưng có thể thông qua quy định về vùng đặc quyền kinh tế nêu trong “Công ước luật biển Liên Hiệp quốc” để lượng định. Điều 58 trong Công ước quy định, máy bay nước ngoài có quyền bay tự do trên vùng trời của vùng đặc quyền kinh tế.[1193] Nếu như máy bay nào cũng phải nộp trước kế hoạch bay và phục tùng sự quản lí cùng mệnh lệnh chỉ huy của cơ quan quân sự nước ven biển thì tức là đã đi ngược với quy định về quyền tự do hàng không. Vì ADIZ do Trung Quốc vạch ra bao trùm lên vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc nên quy định liên quan rõ ràng đã vi phạm Công ước. Vì vậy, việc Trung Quốc thiết lập ADIZ theo cách này là không đếm xỉa đến luật và quy chuẩn quốc tế, đơn phương mở rộng phạm vi kiểm soát trên không, biến vùng trời chung rộng lớn thành vùng trời do Trung Quốc quản lí, biến vùng trời quốc tế thành gần như không phận (chuẩn lãnh không).

Ngay đối với máy bay dân dụng, quy định của Trung Quốc cũng có vấn đề. Vì lí do an toàn của hành khách, luật quốc tế có cách xử lí khác đối với máy bay dân dụng. Rất nhiều nước (kể cả Mĩ) đều quy định rõ khi máy bay dân dụng bay vào ADIZ phải nộp báo cáo chuyến bay và nhận dạng của nó. Quy định của Trung Quốc bề ngoài cũng tương tự như vậy, nhưng phân tích kĩ thì không khó nhận ra Trung Quốc thực ra đã vi phạm luật quốc tế.

Tổ chức Hàng không dân dụng (International Civil Aviation Organization) thuộc Liên Hiệp quốc đã phân định tất cả vùng trời trên thế giới, mỗi vùng trời được gọi là vùng thông tin bay (Flight Information Region, FIR). Phạm vi của những FIR này được hình thành qua quá trình hiệp thương quốc tế rộng rãi (Trung Quốc cũng tham gia), được quốc tế công nhận, có hiệu lực quốc tế. Khi bay vào mỗi FIR, máy bay dân dụng phải báo cáo kế hoạch bay với nước có vùng thông tin bay theo quy định, duy trì liên lạc và thông báo với đơn vị quản lí. Các biện pháp này đều nhằm bảo vệ an toàn cho máy bay dân dụng.

Hiện tại, các quốc gia đã thiết lập ADIZ, chẳng hạn như Hoa Kì, Nhật Bản và Hàn Quốc, về cơ bản có ADIZ của họ trong FIR do Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế phân định. Phạm vi FIR của Mĩ hầu như bao trùm toàn bộ vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, nhưng ADIZ chỉ là một phần nhỏ trong đó. Ranh giới FIR của Nhật Bản ở Biển Hoa Đông về cơ bản trùng với ADIZ của nước này, nhưng nó nhỏ hơn nhiều so với FIR của Nhật Bản ở khu vực Thái Bình Dương. ADIZ của Hàn Quốc trước khi mở rộng cũng nhỏ hơn FIR. Nghĩa là, giả sử các nước này không thiết lập ADIZ thì khi máy bay dân dụng bay qua khu vực này cũng đã phải có nghĩa vụ báo cáo kế hoạch bay và chịu sự quản lí. Vì vậy, yêu cầu máy bay dân dụng báo cáo kế hoạch bay và chịu sự quản lí khi bay vào ADIZ không trái với luật quốc tế.

Tuy nhiên, phạm vi ADIZ được Trung Quốc thiết lập trên biển Hoa Đông rõ ràng vượt quá ranh giới FIR do Tổ chức quốc tế phân định, chồng lấn với FIR của Hàn Quốc và Nhật Bản trên diện rộng. Tại các vùng vượt quá giới hạn đó, máy bay dân dụng vốn chỉ phải báo cáo kế hoạch và chịu sự quản lí của Hàn Quốc hoặc Nhật Bản thì nay lại chịu thêm sự quản lí của Trung Quốc. Vì thế, cách làm của Trung Quốc vi phạm quy hoạch thống nhất của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế, đơn phương mở rộng vùng kiểm soát của mình đối với máy bay dân dụng, vừa không thông qua quá trình hiệp thương với Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế theo trình tự thông thường để điều chỉnh vùng (nhận dạng), vừa không tiến hành thương thảo với bất kì quốc gia nào. Đây cũng là lí do tại sao ban đầu Nhật Bản và Hàn Quốc không cho phép máy bay dân dụng báo cáo với Trung Quốc, cũng là lí do Nhật Bản dọa kiện Trung Quốc với Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.

Trung Quốc khi đáp trả một mặt nhấn mạnh rằng máy bay dân dụng không bị ảnh hưởng, mặt khác lại nhấn mạnh nếu không tuân thủ quy định của Trung Quốc thì có thể nảy sinh phán đoán sai.[1194] Sự thật, đây là một kiểu uy hiếp an ninh máy bay dân dụng. Trước sự uy hiếp đó, xuất phát từ lo lắng về an ninh bay dân dụng, Mĩ và Hàn Quốc mới lần lượt cho phép công ty hàng không dân dụng báo cáo kế hoạch bay cho Trung Quốc.

Vì vậy, về mặt luật pháp quốc tế, ADIZ của Trung Quốc rõ ràng vi phạm luật quốc tế. Trung Quốc không phân biệt máy bay quân sự với máy bay dân dụng. Trung Quốc quy định máy bay quân sự nước ngoài phải gửi kế hoạch bay trước và chịu sự quản lí, chỉ huy của quân đội Trung Quốc, biến vùng trời chung thành gần như không phận, vi phạm quy định về tự do hàng không trong luật quốc tế. Đối với máy bay dân dụng quốc tế, thực chất Trung Quốc đã mở rộng FIR của mình vào trong FIR đã có sẵn của nước khác, vi phạm quy định và thủ tục của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.

Vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông và tranh chấp đường 9 đoạn

Sau khi Trung Quốc thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông, điều mà các nước Đông Nam Á thêm phần lo ngại là liệu Trung Quốc có thiết lập ADIZ ở biển Đông hay không. Mặc dù người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố chưa có kế hoạch thiết lập ADIZ trên biển Đông nhưng phía quân đội Trung Quốc lại cố ý thể hiện rằng sau này sẽ thiết lập vùng nhận dạng ở biển Đông. “Đây là nhu cầu lợi ích lâu dài của Trung Quốc”.[1195] Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Dương Vũ Quân nói: “Sau khi hoàn thành công tác chuẩn bị liên quan, nước chúng tôi sẽ chọn thời điểm thích hợp để thiết lập vùng nhận diện phòng không khác.”[1196]

Ngày 30/12/2013, 10 nước ASEAN tập trung đông đủ tại Nhật Bản để tổ chức Hội nghị cấp cao đặc biệt Nhật Bản – ASEAN, ra tuyên bố chung: “Hai bên sẽ tăng cường hợp tác và đảm bảo quyền tự do bay và an toàn hàng không dân dụng phù hợp với các nguyên tắc được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và các tiêu chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế”.[1197] Mặc dù Hội nghị không phê phán rõ ADIZ của Trung Quốc, nhưng sự tham gia Hội nghị của các nước ASEAN đã biểu thị rõ thái độ. Mĩ cũng nhanh chóng thể hiện thái độ, ngày 17/12, ngoại trưởng Kerry đã cảnh báo Trung Quốc không nên thiết lập ADIZ ở biển Đông tương tự như trên biển Hoa Đông.[1198]

Tuy nhiên, báo “Asahi Shimbun” Nhật Bản ngày 17/12 dẫn nguồn tin giấu tên cho biết các sĩ quan Không quân Trung Quốc đã soạn thảo kế hoạch thiết lập một ADIZ mới ở biển Đông. ADIZ mới sẽ lấy quần đảo Hoàng Sa làm trung tâm và mở rộng đến các vùng biển rộng lớn xung quanh, phạm vi lớn nhất có thể bao phủ trên một nửa biển Đông.[1199] Bộ Ngoại Giao Mĩ lập tức ra tuyên bố, gọi việc vạch ra ADIZ ở biển Đông “là hành vi khiêu khích đơn phương”. Về việc này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi bày tỏ, “Là quốc gia có chủ quyền, Trung Quốc hoàn toàn có quyền căn cứ vào tình hình an ninh trên không phải đối diện để lựa chọn mọi biện pháp, bao gồm cả việc thiết lập ADIZ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, không ai có quyền xuyên tạc”[1200] Người phát ngôn Bộ Quốc phòng – Thượng tá Dương Vũ Quân chỉ trích đây là hành động “cố tình cường điệu hóa” của thế lực cánh hữu Nhật Bản, cho rằng “mục đích của họ là phân tán sự chú ý của quốc tế”, và có “động cơ đen tối”; ông ta còn nói “Trung Quốc có thiết lập ADIZ ở biển Đông hay không chủ yếu còn xem xét tình hình khu vực có căng thẳng hay không và mối đe dọa đối với an ninh quốc gia Trung Quốc có tăng cao hay không.” Điều đó có vẻ ngầm muốn nói rằng Trung Quốc tạm thời chưa thiết lập vùng nhận diện phòng không biển Đông. Học giả quan hệ quốc tế Đài Loan Trần Nhất Tân cho rằng: trong ngắn hạn thì chưa nhưng không có nghĩa là cũng sẽ không làm trong dài hạn; hơn thế, một ý ngầm khác là, nếu Mĩ không chọc ngoáy vào khu vực hoặc không làm gia tăng căng thẳng trong khu vực, Trung Quốc có thể sẽ không thiết lập ADIZ.[1201]

Thiết lập ADIZ ở biển Đông còn phức tạp hơn ở biển Hoa Đông, vì: (1) liên quan tới nhiều nước hơn, ngoài Việt Nam và Philippines có quan hệ biển căng thẳng với Trung Quốc, vẫn còn có hai nước có quan hệ tốt với Trung Quốc như Malaysia và Indonesia. Một khi ADIZ được thiết lập, không thể tránh khỏi việc đẩy hai nước này rời xa Trung Quốc; (2) Khi đó, Trung Quốc còn chưa có điểm trú chân ở phía Nam biển Đông nên việc thiết lập ADIZ là điều khó khăn. Nhưng, khó khăn đó đã không còn nữa sau khi Trung Quốc xây đắp đảo với quy mô lớn; (3) Khó có thể nói chắc ADIZ có phủ kín đường 9 đoạn hay không.

Mặc dù từ cuối thế kỉ 20 đến nay, thế giới luôn yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường 9 đoạn, nhưng Mĩ lại không thể hiện rõ thái độ. Thậm chí, khi đến thăm Singapore ngày 3/8/2013, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị còn cho rằng: “Yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường 9 đoạn chỉ là kiểu xuyên tạc của một số nước.”[1202] Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc lộ rõ ý đồ thiết lập ADIZ biển Đông, Mĩ đã không thể im lặng trước vấn đề đường 9 đoạn.

Tháng 1/2014, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Trợ lí Ngoại trưởng phụ trách vấn đề Đông Á Daniel Russell bày tỏ với Trung Quốc những quan tâm của Mĩ về vấn đề biển Hoa Đông và biển Đông, bao gồm: (1) Trung Quốc hạn chế người Philippines tiếp cận bãi Scarborough; (2) gia tăng áp lực đối với Philippines về vấn đề bãi Cỏ Mây; (3) ngăn chặn các nước khác khai thác dầu tại biển Đông (thậm chí tại những khu vực cách xa các đảo mà Trung Quốc nhận là của mình); (4) tuyên bố kiểm soát những khu vực đang tranh chấp chủ quyền, thậm chí đưa chúng vào khu vực quân sự; (5) thực hiện các hành động nguy hiểm chưa từng có trong vùng biển phụ cận đảo Điếu Ngư; (6) đột nhiên đơn phương thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông; (7) thay đổi quy định quản lí nghề cá trong khu vực đang tranh chấp tại biển Đông.

Ngày 5/2, Russell đã giải thích quan điểm của chính phủ Hoa Kì về các vấn đề biển Hoa Đông và biển Đông tại một phiên điều trần trước quốc hội.[1203] Ông cho biết: Mĩ không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ, nhưng sẽ nỗ lực ủng hộ việc xử lí tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải thông qua phương thức hòa bình, ngoại giao và dựa theo luật quốc tế. Điều đó không những không châm ngòi nổ, mà còn đảm bảo những tranh chấp đó được khống chế bằng phương thức không đe dọa, không uy hiếp và không dùng vũ lực. Hơn thế, Mĩ đã nhiều lần nhấn mạnh tự do hàng hải tại biển Đông sẽ được bảo vệ bằng luật quốc tế chứ không phải bằng sự cho phép của bất cứ quốc gia nào.

Daniel Russell nghi ngờ rằng, “Trung Quốc đang cố tuyên bố với quốc tế rằng họ kiểm soát đường 9 đoạn ở biển Đông, mặc dù bị các nước láng giềng phản đối, bản thân họ không có lời giải thích nào hay làm rõ cơ sở luật pháp quốc tế của nó.” “Chủ trương đó gây ra sự không chắc chắn, mất an ninh và bất ổn trong khu vực.” Trung Quốc dựa vào “đường 9 đoạn” để tuyên bố quyền lợi biển là không phù hợp với nguyên tắc luật quốc tế.

Daniel Russell hối thúc Trung Quốc nói rõ hoặc điều chỉnh lập trường trong vấn đề này cho phù hợp với quy định luật biển quốc tế. Ông cũng chỉ ra rằng Trung Quốc và ASEAN đã đạt được quá ít tiến bộ trong việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Ông khuyến nghị các nước không được đơn phương làm thay đổi hiện trạng ở biển Đông, đồng thời tất cả các nước, không chỉ riêng Trung Quốc, làm rõ yêu sách của nước mình ở biển Đông theo luật pháp quốc tế. Đây là lần đầu tiên Mĩ thể hiện rõ thái độ chính thức về đường 9 đoạn, yêu cầu Trung Quốc giải thích lập trường về đường 9 đoạn ở biển Đông.

Về vấn đề này, ngày 8/2, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi đã bày tỏ: “Quyền lợi của Trung Quốc ở biển Đông được hình thành trong lịch sử và được bảo vệ bằng luật quốc tế. Về tranh chấp biển với các nước liên quan, Trung Quốc luôn cam kết giải quyết thông qua đàm phán và thương lượng với các nước liên quan trực tiếp. Đồng thời, Trung Quốc coi trọng việc cùng các nước ASEAN gìn giữ hòa bình, ổn định biển Đông, thông qua việc thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”. Ông nhấn mạnh, “Lập trường nói trên của Trung Quốc là rõ ràng, nhất quán. Bịa đặt, phóng đại làm căng thẳng tình hình không giúp được gì cho hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á. Ý kiến có liên quan do một số quan chức phát biểu Mĩ tại phiên điều trần trước Quốc hội không phải là hành vi mang tính xây dựng. Chúng tôi thúc giục phía Mĩ có thái độ hợp lí, công bằng, và đóng góp vai trò có tính xây dựng vì hòa bình, ổn định và sự phát triển phồn vinh của khu vực chứ không phải ngược lại.”[1204] Phát ngôn trên vẫn né tránh nói rõ lập trường Trung Quốc về đường 9 đoạn.

Sau đó vài tháng, yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường 9 đoạn ngày càng mạnh mẽ hơn. Tháng 6, tại Đối thoại Shangri La, Phó Tổng tham mưu trưởng Vương Quán Trung nêu rõ: “Yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán ở biển Đông của Trung Quốc được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử lâu dài, từ thời nhà Hán cách đây hơn 2000 năm đã bắt đầu phát hiện và từng bước hoàn thiện việc quản lí đối với Nam Hải, đặc biệt là các đảo ở Nam Sa và các vùng biển xung quanh.” Tuyên bố này rõ ràng phù hợp thực tế, ngay lập tức làm dư luận náo động.

Ngày 5/2/2014, Bộ Ngoại giao Mĩ công bố văn bản: “Giới hạn biển: Yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông”, trọng tâm là luận chứng đường 9 đoạn, dựa trên việc so sánh bản đồ (Hình 75, Hình 76) và phân tích luật quốc tế, nhận thấy rằng yêu sách biển của Trung Quốc ở biển Đông vừa không rõ ràng, vừa không nhất quán.[1205] Đây là tuyên bố chính thức về lập trường của Mĩ đối với đường 9 đoạn. Đường 9 đoạn không phù hợp luật quốc tế, Mĩ không thừa nhận đường 9 đoạn.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-135.png

Hình 75: So sánh đường 11 đoạn năm 1947 và đường 9 đoạn năm 2009

This image has an empty alt attribute; its file name is image-138.png

Hình 76: Khoảng cách giữa đường 9 đoạn với các nước ven biển.

Đối với việc này, Chính phủ Trung Quốc không xem xét nó một cách nghiêm túc mà còn củng cố thêm đường 9 đoạn. Trước năm 2014, đường 9 đoạn được vẽ trong khung nhỏ trên bản đồ Trung Quốc. Năm 2014, Trung Quốc xuất bản tấm bản đồ Trung Quốc mới dạng đứng (Hình 77), nó được vẽ theo tỷ lệ như bản đồ chính. Điều này làm nổi rõ ý đồ thể hiện khu vực trong phạm vi đường 9 đoạn thuộc Trung Quốc, hơn nữa đường 9 đoạn có thêm một đoạn nữa ở biển Hoa Đông , biến nó thành đường 10 đoạn, và đảo Điếu Ngư được vẽ nằm vào trong biên giới của Trung Quốc.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-139.png

 

Hình 77 : Bản đồ Trung Quốc dạng đứng

VI.11. Sự kiện Giàn khoan HD 981

Cũng như các nước ven biển khác, Trung Quốc thường khai thác dầu tại khu vực nước nông ven bờ biển Đông, tập trung ở Vịnh Bắc Bộ và vành đai cửa sông Châu Giang. Trước năm 2012, Trung Quốc thiếu công nghệ khoan thăm dò dầu mỏ trong vùng nước sâu. Năm 2008, Tổng Công ty Dầu mỏ Trung Quốc (CNOOC) bắt đầu chế tạo giàn khoan “Hải dương thạch du 981” (HD 981), tháng 2/2012 chính thức đưa vào sử dụng tại biển Đông. Đây là giàn khoan đầu tiên do Trung Quốc thiết kế và chế tạo, thuộc thế hệ thứ 6, có khả năng chìm sâu nửa thân giàn tới 3 000 m, đạt trình độ công nghệ cao nhất trong các loại giàn khoan dầu trên thế giới. Nó có khả năng khoan thăm dò tại các vùng nước sâu 3 000 m, độ khoan sâu đạt tới 12 000 m. Sau khi có thiết bị này, Trung Quốc đã có thể tác nghiệp tại vùng nước sâu ở biển Đông.

Ngày 1/5/2014, HD 981 tác nghiệp tại vùng biển cách đảo Tri Tôn (Trung Kiến) thuộc quần đảo Hoàng Sa 17 hải lí về phía Tây Nam (Hình 78). Ngày 4/5, Việt Nam gửi công hàm phản đối Trung Quốc, tuyên bố địa điểm đó thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nhưng Trung Quốc đã phản bác cho rằng: giàn khoan này đặt trong vùng biển Trung Quốc, ngày 3/5, Cục Hải sự Trung Quốc đã đưa thông tin cảnh báo hàng hải về hoạt động tác nghiệp của Giàn khoan hải dương 981, mọi công việc liên quan hoàn toàn nằm trong khu vực quần đảo Tây Sa của Trung Quốc. Trung Quốc còn biện giải rằng công trình liên quan đã tiến hành 10 năm, không hiểu sao cho đến nay phía Việt Nam mới nêu lên tranh chấp. Trung Quốc không nói rõ “công trình liên quan đã tiến hành 10 năm” là công trình nào, nhưng việc khoan thăm dò tại vùng biển Hoàng Sa chắc chắn là hoạt động đầu tiên.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-140.png

Hình 78: Sự kiện giàn khoan 981

Ngày 6/5, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mĩ Jen Psaki tuyên bố, “Việc Trung Quốc lần đầu tiên đặt giàn khoan trong vùng biển tranh chấp với Việt Nam là một hành động khiêu khích (provocative) và cũng làm tình hình căng thẳng trầm trọng thêm. Hành động đơn phương này của Trung Quốc có vẻ là biểu hiện cụ thể của mô hình thúc đẩy yêu sách của mình trong lãnh thổ tranh chấp với việc làm xáo động hòa bình và ổn định (khu vực).” Mĩ bày tỏ thái độ hết sức quan tâm đến sự việc này và kêu gọi các bên xử lí ổn thỏa.[1206] Trung Quốc nhấn mạnh một lần nữa: “Phía Việt Nam quấy nhiễu hoạt động tác nghiệp bình thường của doanh nghiệp Trung Quốc là hành động vi phạm luật pháp quốc tế và các quy tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc. Quần đảo Tây Sa từ xa xưa đã là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, hoạt động tác nghiệp của doanh nghiệp Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa được tiến hành trong khu vực chủ quyền của Trung Quốc, không liên quan đến Việt Nam, cũng không liên quan đến Mĩ, Mĩ không có quyền đưa ra những nhận xét vô trách nhiệm về những các vấn đề thuộc phạm vi chủ quyền của Trung Quốc.”[1207]

Bắt đầu từ ngày 6/5, Việt Nam đưa tàu thuyền ra ngăn cản, đồng thời phái đội quân người nhái đặt rất nhiều chướng ngại vật như lưới đánh cá, vật nổi để gây tắc nghẽn đường đi. Phía Việt Nam nói phía Trung Quốc cho tàu chạy đâm vào và phun vòi rồng vào tàu Việt Nam; vài ngày sau, phía Việt Nam cũng đáp trả tàu Trung Quốc bằng vòi rồng. Tàu thuyền hai bên đối đầu trong khu vực biển này, tàu hải cảnh Trung Quốc và tàu chấp pháp Việt Nam nhiều lần truy đuổi và đâm vào nhau. Việt Nam ra tuyên bố, yêu cầu Trung Quốc rút Giàn khoan 981 khỏi vùng biển Hoàng Sa,[1208] nhưng Trung Quốc thẳng thừng bác bỏ. Đến cuối tháng 5 có khoảng 100 tàu thuyền Trung Quốc tiến vào khu vực này, tàu thuyền Việt Nam cũng tăng lên vài chục chiếc. Ngày 26/5, một tàu cá Việt Nam bị tàu cá Trung Quốc đâm lật, hơn 10 thuyền viên rơi xuống biển được cứu sống. Trung Quốc cho rằng nguyên nhân là do tàu cá Việt Nam bị mất lái khi đâm vào tàu Trung Quốc.

Ngày 27/5, Trung Quốc tuyên bố Giàn khoan 981 hoàn thành nhiệm vụ đã định và “di chuyển” đến nơi khác.[1209] Nhưng thực ra chỉ là di chuyển hơn 10 hải lí về phía Đông và vẫn nằm trên vùng biển Hoàng Sa. Việt Nam tiếp tục ngăn cản, Trung Quốc đưa tàu đến “bảo vệ” ở nơi vừa chuyển đến. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho đến ngày 5/6 “cộng chung 2 giai đoạn, Việt Nam đã đâm hơn 1 200 lần vào tàu công vụ Trung Quốc đang thị hành nhiệm vụ bảo vệ an toàn hàng hải trên hiện trường.”[1210] Tính đến 17h ngày 7/6, số tàu Việt Nam xuất hiện trên hiện trường là 63 chiếc, lao vào khu vực Trung Quốc canh giữ và đâm vào tàu công vụ Trung Quốc tổng cộng 1 416 lần.[1211]

Ngoài đối đầu trên biển, Việt Nam còn huy động sức mạnh từ ASEAN. Ngày 10/5, hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Nay Pyi Taw, thủ đô của Myanmar, hiếm khi trong văn kiện chính thức bàn luận về tình hình biển Đông, lại bày tỏ “quan ngại sâu sắc” về xung đột trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, đồng thời thúc giục Trung Quốc tăng cường nỗ lực thúc đẩy đối thoại an ninh trên biển.

Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị tương đối ôn hòa, không chỉ đích danh Trung Quốc nhưng nhấn mạnh cần giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và tuân thủ luật quốc tế đã được công nhận rộng rãi. Trả lời phỏng vấn “The Wall Street Journal ”, Tổng Thư kí ASEAN Lê Lương Minh cho rằng, Trung Quốc cần rút khỏi vùng biển đang có tranh chấp.[1212] Lê Minh Lương là người Việt Nam nhưng ông bày tỏ thái độ này dưới danh nghĩa Tổng thư kí ASEAN, rõ ràng không chỉ đại diện cho riêng Việt Nam.

So với Philippines, chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam lúc “gian nan” rõ ràng thể hiện mạnh hơn. Bắt đầu từ ngày 11/5, tại Việt Nam nổ ra các cuộc biểu tình rầm rộ chống Trung Quốc. Các cuộc biểu tình tại thành phố Hồ Chí Minh thậm chí đã vượt khỏi tầm kiểm soát và biến thành bạo loạn, đám đông tấn công và cướp phá các doanh nghiệp Trung Quốc. Ngày 13, biểu tình chống Trung Quốc lại nổ ra tại thành phố Hồ Chí Minh, dân chúng xông vào khu vực tập trung doanh nghiệp nước ngoài ở tỉnh Bình Dương gần đó, đập phá và cướp lấy trang thiết bị. Mặc dù mục tiêu chống đối vốn là Trung Quốc Đại lục, nhưng do người Việt Nam không phân biệt được đâu là xí nghiệp có nguồn vốn từ Trung Quốc nên các xí nghiệp Đài Loan, Hongkong, Singapore cũng bị tấn công, kết quả là xí nghiệp Trung Quốc lại ít bị tấn công. Trong số đó, xí nghiệp Đài Loan bị thiệt hại nặng nề nhất, một số lượng lớn doanh nhân Đài Loan phải tháo chạy trong đêm. Công trường, nhà xưởng do Tập đoàn Trung Trị Đại lục nhận thầu xây dựng cho Đài Loan bị tấn công, tạo thành thảm kịch với 4 người tử vong và nhiều người bị thương nặng. Bạo động cũng xảy ra ở các tỉnh Hà Tĩnh, Đồng Nai, Bắc Ninh… nhưng có quy mô tương đối nhỏ hơn. Ban đầu, Chính phủ Trung Quốc không chuẩn bị chu đáo đối với việc chống Trung Quốc của phía Việt Nam nên lúng túng trong ứng phó. Ngày 13, (Trung Quốc) mới ra thông cáo khẩn, nhắc nhở các xí nghiệp Trung Quốc ở Việt Nam làm tốt công tác an toàn, giảm tối đa việc ra ngoài không cần thiết, vài ngày sau mới bắt đầu rút người Trung Quốc về nước với quy mô lớn. Trong khi Đài Loan gấp gáp đưa người ra khỏi (Việt Nam), Công ty hàng không Trung Quốc đột nhiên tăng giá vé máy bay gấp 3 lần. Xí nghiệp có vốn Trung Quốc buộc phải treo cờ Nhật Bản để tránh bị tấn công. Biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam bỗng chốc trở thành điểm nóng chính trị ở Đông Á.

Trong cuộc bạo động này, Chính phủ Việt Nam đã bắt và khởi tố hàng trăm người. Ngày 15, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra thông báo khẩn, ra lệnh cho Bộ Công an và các bộ ngành liên quan sử dụng biện pháp kiên quyết để phòng chống và trừng phạt những người gây rối trật tự. Thông báo nói rõ, “Mấy ngày gần đây, nhân dân cả nước phản đối hoạt động phi pháp của Giàn khoan Hải Dương 981 Trung Quốc trong vùng biển Việt Nam. Đây là hoạt động yêu nước chính đáng.” “Tuy nhiên, một số hành động mang tính tự phát, phá hoại cơ sở sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài là hành động phi pháp”, “Điều đó dẫn đến sự hỗn loạn trong xã hội, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, cuộc sống bình thường của người dân và môi trường đầu tư cũng như chính sách đối ngoại của Đảng và Chính phủ”. Ngày 15 và 16, Nguyễn Tấn Dũng đích thân kêu gọi người dân không nên xuống đường biểu tình. Sau đó, quy mô biểu tình chống Trung Quốc đã bị kiểm soát chặt chẽ, bạo động mới lắng xuống. Việt Nam chấp nhận bồi thường thiệt hại cho đầu tư nước ngoài bằng nhiều hình thức. Trưởng Đại diện Việt Nam tại Đài Loan xin lỗi Đài Loan, tha thiết đề nghị thương gia Đài Loan không nên rút đầu tư khỏi Việt Nam.

Biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam không khỏi khiến người ta liên tưởng tới cuộc biểu tình chống Nhật của Trung Quốc năm 2012. Là một trong số ít các nước cộng sản toàn trị còn sót lại, sự giống nhau giữa hai chế độ này thật đáng kinh ngạc. Trong dư luận quốc tế năm đó, Trung Quốc cũng hết sức mất mặt. Cuộc chống đối Trung Quốc của Việt Nam hiện nay chính là phiên bản chống Nhật của Trung Quốc năm đó. Việt Nam chống Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa cũng gần giống như việc Trung Quốc chống Nhật về vấn đề đảo Điếu Ngư hai năm trước đó. Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc gặp chủ nghĩa dân tộc Việt Nam khiến người ta không thể không có những cảm xúc lẫn lộn.

Nhìn chung, các học giả đều công nhận, các cuộc biểu tình kiểu này nếu không được Chính phủ cổ súy hoặc ít ra là khuyến khích thì không thể nổ ra được. Nhưng khi nổ ra, do môi trường chính trị phức tạp trong nước, sự kiểm soát của Đảng Cộng sản đối với xã hội không còn tốt như lúc đầu. Dưới tác động của nhiều nhân tố, hiệu ứng phấn khích của chủ nghĩa dân tộc làm người dân phẫn nộ sẽ khó kiểm soát. tạo nên sự hỗn loạn, thậm chí bạo động, ảnh hưởng cực lớn đến hình ảnh quốc tế, đồng thời gây áp lực khó chống đỡ nổi cho Chính phủ. Đối với Việt Nam, còn có những khác biệt nội bộ giữa phe cải cách phía Nam (đại diện là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) và “phe xã hội chủ nghĩa” phía Bắc (đại diện là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng). Nếu tình thế chống Trung Quốc tiếp tục lan rộng sẽ làm cho các thế lực gốc miền Nam (đặc biệt là người Việt hải ngoại) đặt câu hỏi về tính chính danh của chế độ hiện tại.

Ngày 31/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Mĩ tích cực làm trung gian điều đình. Trong tình thế xung đột không ngừng tăng lên, ngày 8/6, Trung Quốc đưa ra bản thông điệp: “Hoạt động của Giàn khoan 981: hành động khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc” để đánh trả Việt Nam, đồng thời yêu cầu Tổng thư kí Liên Hiệp quốc đưa vào văn kiện Đại hội đồng Liên Hiệp quốc và phân phát cho các nước thành viên.[1213] Việt Nam cũng đáp trả, gửi tư liệu tương ứng tuyên bố quần Hoàng Sa thuộc Việt Nam.

Ngày 10/7, Thượng Nghị viện Liên bang Mĩ thông qua Quyết nghị số 412 về tranh chấp chủ quyền ở Châu Á – Thái Bình Dương, yêu cầu Trung Quốc rút Giàn khoan 981 và tàu bảo vệ khỏi biển Đông, khôi phục hiện trạng biển trước ngày 1/5, thúc giục Trung Quốc kiềm chế không thực hiện Tuyên bố ADIZ ở biển Hoa Đông.[1214]

Ngày 15/5, tập đoàn CNOOC Trung Quốc tuyên bố rằng Giàn khoan 981 hoàn thành các hạng mục khoan thăm dò trong vùng biển gần đảo Tri Tôn, thu thập thuận lợi số liệu hoàn chỉnh về địa chất theo đúng kế hoạch.[1215] Sự kiện HD-981 kết thúc ở đó.

Sự kiện Giàn khoan HD 981 là cuộc đối đầu trên biển nghiêm trọng nhất ở biển Đông trong những năm gần đây, với một số ý nghĩa:

Thứ nhất, sự kiện chống Trung Quốc của Việt Nam về cơ bản khẳng định rằng việc tuyên truyền và tấn công ngoại giao của Trung Quốc về xây dựng “cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – ASEAN” đã thất bại. Sách lược trước đây của Trung Quốc là tách Philippines vốn không biết vâng lời ra khỏi ASEAN để dạy cho một bài học và tập hợp lại phần lớn ASEAN. Nhưng, Việt Nam “xã hội chủ nghĩa” vừa là đồng chí vừa là anh em trước kia, nay đã quay lưng lại với Trung Quốc, thậm chí trở thành tuyến đầu đối kháng.

Trung Quốc gần như có xung đột với cả hai nước có tranh chấp chủ quyền tại biển Đông cùng một lúc, ảnh hưởng rất bất lợi đến ngoại giao biển Đông của Trung Quốc. Việt Nam và Philippines cũng có tranh chấp lãnh thổ, nhưng do thái độ hung hăng của Trung Quốc nên hai nước cùng đứng chung chiến tuyến. Xu hướng này được thể hiện qua việc giao lưu hữu nghị giữa quân đội hai nước đóng ở biển Đông vào ngày 8/6.[1216] Những lợi thế tương ứng của Việt Nam và Philippines gần như bổ sung cho nhau: Philippines tuy yếu về thực lực nhưng được liên minh Mĩ-Philippines bảo vệ, phương thức ngoại giao của Aquino III khá tinh vi, ông cực kì giỏi ngoại giao dư luận và luật pháp, sức mạnh mềm không dễ xem thường; Việt Nam tuy không có ảnh hưởng lớn trong dư luận quốc tế nhưng lại là quốc gia có thực lực quân sự mạnh nhất Đông Nam Á, có lịch sử bất khuất đánh bại nước lớn, có truyền thống chống Trung Quốc trong lịch sử, đằng sau có sự hậu thuẫn của Nga, những năm gần đây lại được Ấn Độ ủng hộ, sức mạnh cứng không dễ xem thường.

Thứ hai, sự kiện Giàn khoan 981 lại làm dấy lên sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề chủ quyền Hoàng Sa. Mặc dù hầu hết người Trung Quốc có xu hướng quên đi sự thật rằng Hoàng Sa là vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền, nhưng thật khó hiểu tại sao Việt Nam lại phản ứng dữ dội như vậy trong vụ việc này. Tuy nhiên, việc Hoàng Sa là vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền là sự thật, không vì Trung Quốc phủ nhận và kiểm soát thực tế trong thời gian dài mà có thể thay đổi.

Việt Nam có hai luận cứ để lí giải:

Một là, Hoàng Sa là lãnh thổ “vốn có” “từ xưa tới nay” của Việt Nam. Với Việt Nam, HD 981 khai thác dầu trong vùng biển gần “lãnh thổ Việt Nam”, đương nhiên không thể nhẫn nhịn.

Hai là, ngay cả không tính đến vấn đề quy thuộc chủ quyền của Hoàng Sa thì địa điểm đó (nơi đặt HD 981) cũng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc cho rằng địa điểm khoan cách Việt Nam 170 hải lí, nhưng chỉ cách đảo Tri Tôn 17 hải lí nên thuộc vùng biển Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Việt Nam cho rằng đảo Tri Tôn chỉ là bãi đá, không được quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế. Thậm chí bản thân quần đảo Hoàng Sa cũng không có cách nào duy trì tự nhiên được cuộc sống của con người (vì thế xưa kia nó là đảo hoang không có người sinh sống), vì vậy cũng không có quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế. Khoảng cách gần nhất từ địa điểm khai thác của HD 981 tới đảo Hải Nam Trung Quốc là 180 hải lí, xa hơn khoảng cách đến Việt Nam. Vì vậy, theo nguyên tắc trung tuyến, địa điểm này thuộc Việt Nam chứ không phải Trung Quốc.

Trong hai luận cứ này, trước vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa chưa được ngã ngũ thì luận cứ thứ nhất của Việt Nam là hợp lí. Nhưng luận cứ thứ hai lại rất khó nhận được sự ủng hộ hoàn toàn. Rất có thể đảo Tri Tôn không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế, nhưng đảo chính của Hoàng Sa có thể có quyền đó. Thực ra, Việt Nam nên nhấn mạnh rằng đất liền và các đảo nhỏ (như Hoàng Sa) có quyền không giống nhau trong phân giới biển. Quyền phân giới nghiêng về lục địa chứ không phải là phân chia đều nhau.


[1180] Trên thực tế, Mĩ không chấp nhận mối quan hệ này, trong cuộc gặp, Obama yêu cầu Trung Quốc quan tâm đến lợi ích của đồng minh Mĩ ở Đông Á.

[1181] http://www.gov.cn/jrzg/2013-06/21/content_2431071.html

[1182] http;//www.qdnd.vn/webcn/zh-cn/120/365/381/248838.html ~ truy cập cuối cùng vào tháng 4/2014.

[1183] http://news.gmw.cn/newspaper.2013-07/01/content_1687173.html

[1184] http://news.xinhuanet.com/politics/2011-10/12/c_122144683.html

[1185] Thông tin chi tiết xin tham khảo “Đảo Điếu Ngư là của ai”, tr.488-496.

[1186] “Đảo Điếu Ngư là của ai”, tr.488-496.

[1187] http://news.xinhuanet.com/mil/2013-11/23/c_118262792.html

[1188] (Thiếu tướng không quân: đối phương không nghe cảnh báo xâm nhập ADIZ có thể bắn rơi), Kinh Hoa thời báo, http://politics.people.com.cn/n/2013/1127/c1001-23665731.html

[1189] Vương Giang Vũ: Vấn đề thực lực và sách lược thiết lập vùng nhận diện phòng không, http://www.nanzao.com/sc/opinion/17978/shi-li-fang-kong-shi-bie-qu-de-shi-li-yu-celue-wen-ti, truy cập tháng 8/2016

[1190] Code of Federal Regulation, title14, Part 99, 99.3. http://www.gpo.gov/fdsys/pkg/CFR-2003-title14-vol2/pdf/CE-2003-title14-vol2-chapIsubchapF.pdf

[1191] Trích từ U.S. Navy’s Commander’s Handbook on the Law of Naval Operation.

[1192] http://www.gov.cn/jrzg/2013-11/23/content_2533101.html

[1193] http://www.un.org/zh/law/sea/los/article5.shtml

[1194] http://news.xinhuanet.com/mil/2013-12/03/c_125802301.html

[1195] http://military.people.com.cn/BIG5/n/2014/1129/c1011-26116926.html

[1196] http://news.sina.com.cn/c/2013-11-29/024928840904.shtml

[1197] http://www.bbc.co.uk/zhongwen/trad/world/2013/12/121314_japan_china_asean.shtml

[1198] http://www.bbc.co.uk/zhongwen/trad/world/2013/12/131217_us_kerry_china_adiz

[1199] http://dw.com/zh%E4%B8%AD%E5%9B%BD%E6%AC%B2%E8%AE%BE%E5%8D%97%E6%B5%B7%E9%98%B2%E7%A9%BA%E8%AF%86%E5588%AB%E5%8C%BA/a-17402563

[1200] http://paper.people.com.cn/rmrb/html/2014-02/02/nw.D110000renmrb_20140202_8-03.html

[1201] http://www.voacantonese.com/content/china-defense-20140227/1860474.html

[1202] http://www.voachinese.com/content/voa-south-sea-nine-dased-line-20150803/2898348.html

[1203] http://www.state.gov/p/eap/rls/rm/2014/02/221293.html

[1204] http://www.chinanews.com/gn/2014/02-08/5814380.shtml

[1205] Limits in the Seas, No.143, China: Maritime Claims in the South China Sea, US Department of State.

[1206] http://www.state.gov/r/pa/prs/ps/2014/05/225750.html

[1207] http://world.people.com.cn/n/2014/1225/c391819-26277209.html

[1208] http://thanhniennews.com/politics/vietnam-to-take-suitable-responses-in-oil-rowministry-26364-html

[1209] “Cục Hải sự Trung Quốc phát lại cảnh báo hàng hải hoạt động tác nghiệp của giàn khoan Hải Dương 981”, http://military.people.com.cn/n/2014/0527/c1011-25072305.html

[1210] http://world.com.cn/n/2014/1225/c/391819/26277209.html

[1211] http://news.xinhuanet.com/world/2014-06/08/c_126592086.htm

[1212] http://www.nasdaq.com/article/asean-leader-china-needs-to-leave-disputed-waters-20140516-00129

[1213] http://www.qnsb.com/fzepaper/page/1/2014-06/11/A23/20140611A23_pdf

[1214] http://www.congress.gov/bill/113th-congress/senate-resolution/412/text

[1215] http://news.xinhuanet.com/mil/2014-07/16/c_126757362.html

[1216] http://world.huanqiu.com/excclusive/2014-06/5013046.html