Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Song
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Từ Phát triển đến Dân chủ - Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 5)
Tác giả: Dan Slater và Joseph Wong
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022
Ở lại trong Trò chơi Dân chủ
Ngay sau đó, Nhật Bản tổ chức một cuộc tổng tuyển cử khác cho Diet, mà đã giáng một đòn bất ngờ lên liên minh bảo thủ đương nhiệm. Cuộc bầu cử kết thúc là một cuộc đua tay-ba sít sao, với Đảng Tự do, Đảng Dân chủ mới được thành lập (đảng kế vị của Đảng Tiến bộ bảo thủ), và Đảng Xã hội mỗi đảng giành được chỉ hơn 26 phần trăm phiếu phổ thông. Đảng Xã hội đã tăng tỷ lệ phiếu của nó 8 phần trăm và tăng số ghế Diet của nó từ 96 lên 144, một sự tăng 48-ghế. Những người Xã hội kết thúc trở thành đảng lớn nhất trong Diet, với 31 phần trăm ghế lập pháp. Các đảng Tự do và Dân chủ mỗi đảng chiếm 28 phần trăm của cơ quan lập pháp.
Cuộc tổng tuyển cử 1947 đã đánh dấu một bước ngoặt gay go trong sự chuyển đổi sau chiến tranh sang nền dân chủ của Nhật Bản. Mặc dù hai đảng bảo thủ cùng nhau tiếp tục tạo thành một đa số của sự ủng hộ dân chúng về mặt phiếu bầu (53 phần trăm) và ghế Diet (56 phần trăm), Đảng Tự do đã không, Đảng Dân chủ cũng chẳng là đảng chi phối (lớn nhất) trong Diet vì chẳng đảng nào trong số chúng kiểm soát một đa số ghế, không giống sau cuộc bầu cử 1946. Thay vào đó, một đảng không-bảo thủ, Đảng Xã hội, kiểm soát một đa số ghế Diet, cho phép nó thành lập một chính phủ liên minh thiên tả. Trong một trong rất ít lần trong lịch sử bầu cử của châu Á kiến tạo-phát triển, cánh Tả đã thống nhất hơn cánh Hữu, chí ít trong một thời gian ngắn.
Sự đấu đá chính trị nội bộ giữa hai đảng bảo thủ đã không báo điềm tốt cho liên minh bảo thủ để phản đối một chính phủ do Đảng Xã hội-lãnh đạo. Nhiều người sợ rằng các chính trị gia bảo thủ có thể thậm chí đào ngũ khỏi trò chơi dân chủ, như một số đã đào ngũ khi trở nên khó khăn cho các chính phủ bảo thủ của các năm 1930. Nhiều người cũng lo rằng các cuộc bầu cử Diet 1947, do không có một kẻ thắng rõ ràng và với một đa số Đảng Xã hội, có thể dẫn đến sự bất ổn định chính trị. Thử nghiệm dân chủ Nhật rõ ràng đã ở trên nền dễ lung lay rồi.
Cuối cùng, các chính trị gia bảo thủ đã vẫn trung thành với nền dân chủ. Vì sao? Thứ nhất, liên minh do Đảng Xã hội-lãnh đạo đã mỏng manh và cuối cùng chết yểu. Những người Xã hội đã không thể thành lập một quan hệ đối tác ổn định với bất cứ đảng chính trị lớn khác nào. Sau một chút chậm trễ, Đảng Xã hội đã có khả năng quyến rũ phái tiến bộ của Đảng Dân chủ để hợp sức trong một liên minh. Tuy vậy, vào lúc đó đã là quá muộn. Liên minh chịu số phận bi đát ngay từ đầu. Thay cho một sự trình diễn về sự lãnh đạo quyết đoán của Đảng Xã hội, liên minh chắp vá của nó lại nêu bật tính xác đáng bền bỉ của các đảng bảo thủ và quyền lực chính trị mà chúng tiếp tục thi hành. Giống Golkar ở Indonesia (được khảo sát chi tiết trong chương 7), các đảng bảo thủ của Nhật Bản, mặc dù không còn là các đảng thống trị khác thường trong Diet nữa, tuy nhiên đã là “những kẻ dựng vua” trong việc quyết định số phận của chính phủ do Đảng xã hội-lãnh đạo.
Không có khả năng quản trị, chính phủ sụp đổ trong mùa thu 1948, chỉ vài tháng sau khi nó được thành lập. Lãnh tụ Đảng Tự do Shigeru Yoshida được chỉ định làm thủ tướng lâm thời, và ông đã triệu tập một cuộc bầu cử đột xuất cho Diet trong tháng Giêng 1949. Bằng việc ở lại trong trò chơi dân chủ, ngay cả sau sự thất bại bầu cử của họ trong 1947, những người bảo thủ đã có khả năng làm chủ mưu một cuộc bầu cử và cơ hội cho các chính trị gia bảo thủ để lấy lại sự lãnh đạo chính trị qua các phương tiện dân chủ. Việc vẫn trung thành với trò chơi dân chủ, bất chấp một thất bại ban đầu vào tay của Đảng Xã hội, đã mang lại kết quả tốt cho hai đảng bảo thủ chính của Nhật Bản. Như chúng tôi đã lập luận, nền dân chủ đã phục vụ các lợi ích chính trị bảo thủ.
Thật quan trọng, sự thống trị bảo thủ cũng phục vụ các lợi ích của các lực lượng Đồng Minh chiếm đóng. Vì các lý do địa-chính trị cũng như ý thức hệ, chính phủ Hoa Kỳ đã thích những người bảo thủ nắm quyền lực trong một Nhật Bản dân chủ, hơn là những người Xã hội thiên tả hay Cộng sản. Mối đe dọa cộng sản đang nổi lên trong khu vực đã thúc đẩy cái, mà những người Nhật gọi là chính sách “đảo-hướng” 1947 ở Washington. Với Chiến tranh Lạnh đang đến, Hoa Kỳ cần chính phủ Nhật bản trở nên vững chãi và kiên cường, và cho Nhật Bản trở thành một đồng minh và lá chắn đáng tin cậy đối với sự bành trướng cộng sản trong khu vực.23
“Đám đông Nhật Bản (Japan Crowd),” một nhóm lobby (vận động hành lang) phi chính thức tại Washington, bắt đầu thúc đẩy cho một kế hoạch cải cách dân chủ giảm-quy mô, vừa phải, và cuối cùng ít tham vọng hơn ở Nhật Bản. Các nhà vận động hành lang thân-Nhật Bản đã ưu tiên sự ổn định chính trị và kinh tế, và lo rằng chương trình nghị sự cải cách tham vọng của lực lượng chiếm đóng có thể gây bất ổn định và để Nhật Bản dễ bị tổn thương với sự thâm nhập cộng sản. Sự quan tâm tăng lên cho chính sách ngăn chặn cộng sản trong khu vực có nghĩa là chính phủ Hoa Kỳ và lãnh đạo chiếm đóng ở Nhật Bản đặt ít sự nhấn mạnh hơn lên tốc độ và phạm vi của cải cách chính trị dân chủ và thay vào đó ưu tiên sự ổn định chính trị và sự khôi phục kinh tế.
Với một sự thay đổi về chính sách Mỹ ở quê nhà, ban lãnh đạo chiếm đóng đã khuyến khích sự xây dựng lại lực lượng cảnh sát quốc gia ở Nhật Bản, thật đáng chú ý vì nó đã là lực lượng bị cấm chỉ vài năm trước. Hơn nữa, chính phủ Nhật bản bắt đầu cắt bớt những quyền của các công nhân được bảo vệ dưới hiến pháp, và với ít sự phản đối từ ban lãnh đạo lực lượng chiếm đóng. Phù hợp với chính sách Chiến tranh Lạnh của Mỹ, chẳng hạn, SCAP đã không can thiệp khi chính phủ bắt đầu trấn áp Đảng Cộng sản và những người ủng hộ của nó. Việc đánh bại Đảng Xã hội trong các cuộc bầu cử Diet trở thành một ưu tiên rõ ràng hơn của những người Mỹ sau 1947.
Sự xuất hiện của khung cảnh Chiến tranh Lạnh, chiến lược địa-chính trị của Hoa Kỳ trong khu vực, và cái gọi là chính sách đảo-hướng về mặt chính trị đã tăng cường những người bảo thủ ở Nhật Bản, đóng góp cho một sự sự hồi sinh bảo thủ ngay sau khi liên minh Xã hội sụp đổ trong 1948. Như Jennifer Miller diễn đạt, “những người Mỹ đã dựa vào—và đến lượt giúp trao quyền cho—các đảng dứt khoát cánh-hữu và bảo thủ, mà đã nhanh chóng nhận ra một sự hội tụ tăng lên với các tầm nhìn Mỹ.”24 Không thể có một tín hiệu rõ hơn và làm yên lòng hơn rằng việc duy trì hướng dân chủ được những người Mỹ ủng hộ là lựa chọn tốt nhất cho các đảng bảo thủ.25
Trong cuộc tổng tuyển cử1949, Đảng dân chủ Tự do (DLP), hỗn hợp mới của đảng Tự do bảo thủ và và các phái bảo thủ từ đảng Dân chủ, đã chi phối cuộc tranh đua. DLP giành được 44 phần trăm phiếu phổ thông và 58 phần trăm ghế Diet, một phần thưởng ghế 14 phần trăm và sự chênh lệch chiến thắng lớn nhất cho bất kể đảng chính trị nào trong thời kỳ sau chiến tranh. Lần đầu tiên trong thời kỳ sau chiến tranh, các cuộc bầu cử cũng đánh dấu rằng một đảng chính trị duy nhất đã kiểm soát một đa số ghế dứt khoát (và không chỉ một đa số thường) trong cơ quan lập pháp. Đảng Xã hội đã chịu một thất bại to lớn, giành được chỉ 13,5 phần trăm phiếu phổ thông và chỉ được 48 ghế Diet (hay 10 phần trăm), một sự mất 96 ghế từ năm 1947.
Sự hồi sinh của những người bảo thủ trong cuộc tổng tuyển cử 1949 và sự thống trị cuối cùng của họ hiển nhiên đã không chỉ là kết cục được ưa thích của các chính trị gia và các đảng bảo thủ của Nhật Bản. Nó cũng là kết cục được ưa thích của lực lượng chiếm đóng và chính phủ Hoa Kỳ. Được che chở dưới ô an ninh Mỹ, Nhật Bản—và một cách cụ thể các nhà lãnh đạo bảo thủ của nó—đã có được một nhà bảo trợ hùng mạnh ở Washington, xác nhận sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định của chính phủ DLP vào nền dân chủ. Hoa Kỳ đã muốn nền dân chủ có kết quả ở Nhật Bản và một cách cụ thể với các đồng minh bảo thủ của nó cầm tay lái.
Vì các lý do địa-chính trị tương tự, Hoa Kỳ đã có một lợi ích trong việc đảm bảo nền kinh tế mạnh sau chiến tranh của Nhật Bản. Một nền kinh tế Nhật bản được hồi sinh, định hướng-thị trường, được công nghiệp hóa, được hội nhập vào các thị trường thế giới, tạo ra một đối tác thương mại quan trọng và đồng minh kinh tế cho Hoa Kỳ. Hệt như nền dân chủ đã giúp bảo đảm cho Hoa Kỳ một đồng minh chính trị ở Nhật Bản, một Nhật Bản mạnh về kinh tế cũng bảo đảm một thành lũy hiệu quả chống lại sự bành trướng cộng sản.
Đảng DLP đã làm sống lại nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, và tốc độ tăng trưởng kinh tế đã tăng nhanh ngay sau đó. Vào cuối các năm 1950, năng suất công nghiệp tổng thể đã quay lại hầu như 80 phần trăm của các mức năng suất trước chiến tranh. Các ngành khai mỏ và chế tác, hai đầu tàu chính của nền kinh tế công nghiệp Nhật bản, được khôi phục ở các mức trước chiến tranh vào giữa các năm 1950. Chính phủ Nhật bản, thay vì đàn áp thẳng tay chống lại các hãng zaibatsu, đã tăng gấp đôi các tập đoàn thương mại trước chiến tranh mà GHQ chiếm đóng ban đầu đã thử tháo dỡ, để thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp. Nhà nước kiến tạo-phát triển, được chính phủ do DLP-lãnh đạo làm sống lại, đã thành lập Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp (MITI) trong năm 1949, việc tăng cường năng lực quan liêu của nhà nước để thiết kế và thực hiện các chính sách công nghiệp có mục tiêu.
Chắc chắn, sự bảo trợ Mỹ đã đóng góp cho sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản. Một cách cụ thể, thương mại và các chính kinh tế Mỹ đã làm lợi trực tiếp cho Nhật Bản. Chính sách đảo hướng 1947 đã buộc Hoa Kỳ để xóa các khoản bồi thường chiến tranh của Nhật Bản. Việc xóa các khoản bồi thường chiến tranh đã cho chính phủ Nhật bản một dịp may tài khóa khổng lồ và giải phóng các nguồn lực cho các khoản đầu tư do nhà nước-chỉ đạo vào nền kinh tế. Hơn nữa, với sự cổ vũ của các quan chức thương mại Mỹ, chính phủ Nhật bản đã thực hiện một tỷ giá hối đoái cố định và được định giá thấp trong 1949, mà đã làm tăng xuất khẩu Nhật bản, nhất là vào các thị trường Mỹ, một lợi thế thương mại mà nền kinh tế Nhật đã có được mãi đến các năm 1980.
Có lẽ lợi ích lớn nhất nền kinh tế Nhật bản đạt được—và do sự mở rộng chính phủ bảo thủ Nhật bản—qua sự bảo trợ Hoa Kỳ đã xảy ra với sự dính líu của nước Mỹ vào xung đột Chiến tranh Lạnh trên bán đảo Triều Tiên. Khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra trong 1950, nhu cầu Mỹ cho các hàng hóa công nghiệp do các nhà chế tạo Nhật cung cấp đã kích thích một sự bột phát kinh tế. Các khoản mua sắm Mỹ giữa 1951 và 1953 đã chiếm gần hai phần ba các mặt hàng xuất khẩu của Nhật Bản, khởi động chiến lược định hướng-xuất khẩu của Nhật Bản cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Sự kích thích thương mại do Chiến tranh Triều Tiên gây ra đã tăng tốc sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản trong các năm 1950, mà đã phản ánh các ưu tiên địa-chính trị Mỹ và các lợi ích chính trị trong nước giữa những người bảo thủ cầm quyền ở Nhật Bản. Khi nền kinh tế Nhật tăng trưởng, cũng thế là sự ủng hộ cho sự lãnh đạo đảng bảo thủ, dựng sân khấu cho sự củng cố sự thống trị bảo thủ trong nền dân chủ hậu chiến của Nhật Bản.
Củng cố sự Thống trị Bảo thủ
Đảng Tự do, sự tái sinh của DLP được thành lập cho cuộc tổng tuyển cử 1949, đã lại dễ dàng thắng cuộc tổng tuyển cử 1952, kiểm soát 52 phần trăm ghế trong Diet. Đảng Xã hội, trong khi đó, bị vỡ ra từng mảnh sau thất bại thảm hại của nó trong cuộc tổng tuyển cử 1949 và đã tranh đua trong tổng tuyển cử 1952 như hai đảng chính trị tách biệt. Ngay cả khi kết hợp phiếu của hai Đảng Xã hội, các đảng cánh tả giành được chỉ 23 phần trăm phiếu phổ thông và 25 phần trăm ghế của cơ quan lập pháp, một sự phục hồi khá lớn từ cuộc bầu cử 1949 mặc dù vẫn kém xa DLP bảo thủ, đứng đầu.
Bất chấp vẻ bề ngoài của sự ổn định đảng phái, tuy vậy, thành phần đảng phái trong Diet đã báo trước một sự thay đổi trong đầu các năm 1950. Mặc dù hai đảng bảo thủ tiếp vẫn đã tục nắm tay lái chính trị, hệ thống đảng của Nhật Bản đang bị lung lay. Sự phân mảng trong Đảng Tự do và phe bảo thủ nói chung đã làm mất dần sự thống trị bầu cử của chúng. Các Đảng Xã hội bên tả, trong khi đó, đưa ra một lời cáo buộc khác tại các thùng phiếu. Cuộc tổng tuyển cử 1953 đã đặc biệt gây lo lắng cho các đảng bảo thủ, khi Đảng Tự do, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Yoshida, đã mất 40 ghế Diet, trong khi hai Đảng Xã hội đạt được thêm 22 ghế. Đảng Tự do tiếp tục là đảng thống trị duy nhất trong Diet, như đảng lớn nhất duy nhất trong cơ quan lập pháp sau năm 1953, mặc dù sự nắm quyền lực của nó đã dứt khoát bị nới lỏng.
Trong cuộc bầu cử 1955 bước ngoặt, Đảng Tự cầm quyền được chỉ 27 phần trăm phiếu phổ thông, giảm từ 40 phần trăm trong 1953, giành được chỉ 114 ghế Diet. Trong khi đó, Đảng Dân chủ, đảng bảo thủ khác có nguồn gốc của nó trong thời Taisho và đã tái xuất hiện chỉ trước cuộc bầu cử 1955, giành được 37 phần trăm phiếu phổ thông và 185 ghế lập pháp. Hai Đảng Xã hội, trên đầu kia của phổ chính trị, giành được tổng cộng 29 phần trăm phiếu và 156 ghế lập pháp, hay khoảng một phần ba Diet.
Trong 1955 hệ thống đảng chính trị của Nhật Bản có bốn đảng chính: hai Đảng Xã hội và các đảng Tự do và Dân chủ bảo thủ. Chẳng đảng nào trong bốn đảng đã thống trị về mặt bầu cử. Một diễn giải về cuộc bầu cử 1955 và hệ thống bốn-đảng nảy sinh đã báo trước một sự đổ vỡ đảng phái quan trọng trong nền chính trị dân chủ của Nhật Bản, có lẽ tới hệ thống đảng bất ổn định hơn. Tuy vậy, một diễn giải khác đã thấy các điều kiện cho sự tái liên kết đảng phái. Lịch sử cho thấy sự diễn giải sau là đúng.26
Cuộc tổng tuyển cử 1955 thực sự đã củng cố hệ thống đảng ở Nhật Bản. Bất chấp sự phân mảnh đảng phái cả ở bên tả và bên hữu, tuyệt đại đa số cử tri Nhật bản đã bỏ phiếu của họ cho hai đảng bảo thủ trong năm 1955. Hai đảng bảo thủ lớn, Đảng Tự do và Đảng Dân chủ, đã chiếm 64 phần trăm ghế trong cơ quan lập pháp, còn phe xã hội kiểm soát 33 phần trăm của Quốc hội. Ngay sau cuộc tổng tuyển cử 1955, hai Đảng Xã hội hợp nhất để hình thành một Đảng Xã hội Nhật Bản (JSP) duy nhất. Sự thành lập JSP, đến lượt, đã thúc đẩy sự hợp nhất của hai đảng bảo thủ để hình thành Đảng Dân chủ Tự do (LDP). Được biết đến như “Hệ thống1955,” sự tái liên kết đảng phái nhanh chóng sau cuộc tổng tuyển cử đã dẫn đến một hệ thống lưỡng-đảng (hai-đảng) gồm có JSP ở bên tả đối lại LDP bảo thủ. Sự tái liên kết 1955 cũng đã dẫn đến một hệ thống đảng-thống trị, trong đó LDP kiểm soát một đa số oai vệ trong Diet và sẽ tiếp tục duy trì sự kiểm soát chính phủ trong gần bốn thập niên đến tận các năm 1990. LDP bắt đầu củng cố sự thống trị bảo thủ của nó trong nền dân chủ.
Sau 1955, đảng LDP cầm quyền đảm nhiệm sự lãnh đạo bộ máy nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản. Kiểm soát gần hai phần ba Diet, LDP chủ trì một cơ quan lập pháp hiệu quả, không bị sự cãi lộn về các ưu tiên và hướng chính sách kinh tế. Để tăng cường năng lực hoạch định chính sách, đảng LDP đã tạo ra Hội đồng Nghiên cứu các Vấn đề Chính sách, mà đã phát triển tài chuyên môn chính sách nội địa của đảng và đã cho phép đảng LDP để đóng một vai trò lãnh đạo sát cạnh và nối đuôi nhau với bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển. Phản chiếu nhà nước kiến tạo-phát triển, hội đồng đã tuyển các nhà kỹ trị giỏi nhất và sáng giá nhất để hướng dẫn chính sách chính phủ, thường tuyển mộ từ bộ máy quan liêu theo chế độ nhân tài.
Chính phủ LDP cũng cộng tác mật thiết với các nhà công nghiệp Nhật bản. Trong một tục lệ được biết đến như amakudari, các quan chức chính phủ và đảng đã về hưu chiếm các vai trò lãnh đạo trong các hãng công nghiệp chủ chốt. Như Chalmers Johnson chứng minh bằng tư liệu trong tờ MITI and the Japanese Miracle (MITI và Phép Màu Nhật bản), các thứ trưởng đã về hưu hùng mạnh trong bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển được bổ nhiệm làm các phó chủ tịch, chủ tịch, và chủ tịch hội đồng quản trị trong các hãng zaibatsu của Nhật Bản.27 Sự luân chuyển các elite giữa đảng LDP, bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển, và các công ty công nghiệp hàng đầu ở Nhật Bản đã tạo ra một liên minh kiến tạo-phát triển rất khăng khít.
Nhà nước kiến tạo-phát triển do đảng LDP-lãnh đạo đã tăng tốc sự phục hồi và sự phát triển kinh tế của Nhật Bản sau 1955. Các ngành cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng của Nhật Bản được LDP nhắm mục tiêu, phân bổ tuyệt đại đa số đầu tư chính phủ để phát triển các ngành điện năng, đóng tàu, than đá, và thép. Các khoản đầu tư đã mang lại kết quả nhanh chóng. Giữa năm 1955 và 1965, sản lượng thép chế tác của Nhật Bản đã tăng hơn bốn lần, mà đến lượt đã hỗ trợ sự phát triển của các khu vực cơ sở hạ tầng và công nghiệp nặng khác. Nhờ những trợ cấp chính phủ, những khoản đầu tư có mục tiêu, và các chính sách công nghiệp chiến lược, nhà nước kiến tạo-phát triển đã nuôi dưỡng sự củng cố các hãng zaibatsu hàng đầu của Nhật Bản, nhất là trong các khu vực chế tạo thâm dụng-lao động, định hướng-xuất khẩu.
Tổng thể, các ngành chế tác của Nhật Bản đã tăng sản lượng của chúng gần bốn lần trong thập niên sau khi LDP nắm quyền. Sự tăng trưởng kinh tế trung bình tại Nhật Bản đã là hơn 9 phần trăm hàng năm giữa năm 1955 và 1965. Phần lớn của sự phát triển kinh tế của nó đã là do sự hội nhập của Nhật Bản vào các thị trường quốc tế, như chính phủ LDP đã khuyến khích một chiến lược tăng trưởng do xuất khẩu-dẫn dắt. Ban đầu được Chiến tranh Triều Tiên khởi động, giá trị xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng mười lần giữa 1950 và 1965. Trong 1965 Nhật Bản thông báo một thặng dư thương mại và cán cân thanh toán dương, một thành tựu đáng chú ý xét đến tình trạng của nền kinh tế Nhật bản ngay sau Chiến Tranh Thế giới II. Các nền kinh tế tăng trưởng nhanh khác trong khu vực, nhất là Đài Loan và Hàn Quốc, chấp nhận các chiến lược phát triển của LDP, kể cả một sự thúc đẩy công nghiệp hóa định hướng-xuất khẩu.
Vào các năm 1960, Nhật Bản đã tái xuất hiện như một trung tâm sức mạnh kinh tế, một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới và một mô hình được mô phỏng trong khu vực Á châu. Đảng LDP được công trạng vì sự quản lý nền kinh tế và sự lãnh đạo nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản. Không ngạc nhiên, các công dân Nhật, được hưởng lợi từ sự phục hồi kinh tế, đã luôn luôn thưởng cho đảng cầm quyền đương nhiệm tại các cuộc bầu cử. LDP đã tăng sự thống trị chính trị của nó suốt hai thập niên đầu tiên của nó như đảng cầm quyền của Nhật Bản, giành được các đa số lập pháp oai vệ trong mỗi cuộc bầu cử cho đến 1976.
Bên cạnh việc phát triển doanh nghiệp lớn và việc nhắm mục tiêu các khu vực công nghiệp chủ chốt để tăng trưởng, chính phủ LDP ưu tiên sự tăng trưởng nhanh với tính công bằng.28 Chiến lược có chủ ý này do LDP áp dụng đã mở rộng và củng cố một cơ sở ủng hộ rộng của cử tri. Bất chấp nguồn gốc bảo thủ của nó, đảng cầm quyền nhận ra nó cần là một đảng “bao quát (catch-all)” nếu nó phải tiếp tục ngăn chặn Đảng Xã hội đối lập. Bằng việc hợp nhất các sáng kiến chính sách phúc lợi xã hội, đảng bảo thủ dẫn đầu đã cắt sự ủng hộ cử tri mà lẽ ra đã thuộc về các đảng chính trị thiên tả.
Đảng cầm quyền đã thành công tăng sự hấp dẫn của nó vượt ra ngoài các cử tri bảo thủ truyền thống của nó. LDP vẫn là một đảng chính trị cho các doanh nghiệp lớn, nhưng không hoàn toàn. Chẳng hạn, các nông dân ở các vùng nông thôn tạo thành một khối cử tri then chốt cho LDP và các đảng tiền bối bảo thủ của nó. Ngay từ đầu thời kỳ chiếm đóng, chính phủ bảo thủ lâm thời đã thực hiện cải cách đất đai, giống với Đài Loan và Hàn Quốc sau chiến tranh. Cải cách đất đai và sự phá vỡ sự kiểm soát địa chủ đối với đất phát canh đã khuyến khích sự phát triển các hoạt động canh tác quy mô nhỏ hơn. Suốt các năm 1950 và các năm 1960 dân chủ, LDP đã phân phát ngày càng nhiều trợ cấp nông nghiệp cho các nông dân, một chiến lược thô nhưng hiệu quả về phân chia rổ thịt chính trị (political pork, hay pork barrel-chi tiêu chính phủ để lấy lòng dân trong khu vực nào đó) nhắm tới việc giành được phiếu nông thôn. Trong khi đó tại các thành phố, chính phủ LDP cung cấp các trợ cấp và tín dụng tương tự cho các chủ doanh nghiệp và các nhà kinh doanh để khuyến khích sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chính phủ LDP đã thực hiện Kế hoạch Ikeda trong 1960, được đặt tên theo thủ tướng–khi đó Hayato Ikeda. Sự tăng trưởng với tính công bằng đã là trung tâm cho Kế hoạch Ikeda, và một cách cụ thể chương trình “tăng gấp đôi-thu nhập” cho các công nhân đô thị. Thông qua các chính kinh tế có mục tiêu để thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp và sự đa dạng hóa ngành, kế hoạch tăng gấp đôi-thu nhập dựa vào một chiến lược công ăn việc làm đầy đủ để giảm nghèo, một chiến lược được kích thích bởi một nền kinh tế quốc tế tăng trưởng và các dàn xếp thương mại thuận lợi với các nước nhập khẩu như Hoa Kỳ. Bằng việc nuôi dưỡng khu vực công nghiệp định hướng-xuất khẩu, nền kinh tế Nhật bản đã tăng quy mô thị trường lao động và đã tạo ra các việc làm công nghiệp có lương cao.
Trong một cố gắng thậm chí có tính toán hơn để mở rộng cơ sở cử tri của nó, đảng LDP đã ban hành một loạt chương trình phúc lợi xã hội được chính phủ hỗ trợ trong các năm 1960 và các năm 1970. Nhật Bản đã là nền kinh tế không-xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở châu Á kiến tạo-phát triển để thực hiện các sơ đồ bảo hiểm-xã hội phổ quát cho sức khỏe, việc làm, và an ninh thu nhập tuổi già. Đài Loan và Hàn Quốc đã sao chép mô hình chính sách phúc lợi xã hội Nhật bản mấy thập niên muộn hơn, một khi chúng trở thành các nền dân chủ trong các năm 1980 và các năm 1990. Các đảng tbảo thủ hống trị, như Quốc Dân Đảng (QDĐ) ở Đài Loan, cuối cùng dẫn đường vào cải cách chính sách xã hội, không phải không giống đảng LDP ở Nhật Bản.29
Các kết quả kinh tế và chính trị từ chiến lược tăng trưởng-với-tính công bằng đã hóa ra là to lớn cho LDP. Sự phát triển do nhà nước-lãnh đạo đã công bố các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bất thường cùng với một phân bổ thu nhập công bằng. Hệ số Gini của Nhật Bản trong thời kỳ tăng trưởng-cao của các năm 1960 và các năm 1970 đã phù hợp với các mức thu nhập quân bình chủ nghĩa tại các nhà nước phúc lợi bắc Âu. Về mặt chính trị, chiến lược tăng trưởng công bằng đã mở rộng sự hấp dẫn của LDP, giành được sự ủng hộ cử tri cho đảng từ các cử tri bảo thủ truyền thống, cũng như những người mà khác đi có lẽ đã bỏ phiếu cho các đảng bên tả như Đảng Xã hội bị bao vây sau 1955. Sự tăng trưởng với tính công bằng đã củng cố sự thống trị bầu cử của LDP ở Nhật Bản dân chủ, mà đã kéo dài gần bốn thập niên mà không có sự gián đoạn. Giữa 1955 và 1993, LDP đã thành lập mọi chính phủ được bàu, với các đa số tuyệt đối trong Diet hay như đối tác hàng đầu trong một chính phủ liên minh được bàu trong nền dân chủ lớn nhất, ổn định nhất, và giàu nhất của của châu Á kiến tạo-phát triển.
Cẩm nang Nhật bản
Một mục tiêu của chương này là để thêm và xét lại, không phải gạt bỏ, sự hiểu biết thông thường về chuyển đổi dân chủ sau chiến tranh của Nhật Bản, và một cách cụ thể vai trò quyết định đặc biệt mà sự chiếm đóng Mỹ đã đóng trong sự biến đổi này. Cuộc chiếm đóng đã là quyết định cho sự chuyển đổi dân chủ ở Nhật Bản. Sự loại bỏ quân đội, chẳng hạn, đã là cần thiết cho các đảng để được tái sinh và thịnh vượng một lần nữa. Rằng Nhật Bản đã chấp nhận một hiến pháp do các chuyên gia Mỹ soạn thảo là bằng chứng thêm về ảnh hưởng của nước Mỹ trong dân chủ hóa của Nhật Bản. Áp lực chính trị của lực lượng chiếm đóng đã quan trọng cho việc đảm bảo sự chấp nhận hiến pháp của Nhật Bản.
Tuy vậy, đó cũng không phải là câu chuyện đầy đủ. Trong chương này, chúng tôi đã cho thấy làm thế nào Nhật Bản hậu chiến, một quốc gia bị đánh bại, đã không phải là một tabula rasa (bảng trống, tờ giấy trắng) mà trên đó một tầm nhìn Mỹ về nền dân chủ có thể được in dấu vào và áp đặt một cách dễ dàng. Chuyển đổi dân chủ của Nhật Bản đã không là kết quả của một sự kiện riêng rẽ, duy nhất, như sự thiết lập sự chiếm đóng Mỹ, mà đúng hơn là một loạt các sự kiện được kết nối và các sự liên tục từ trước và sau chiến tranh.
Ngược với hiểu biết thông thường rằng nền dân chủ được đưa vào de novo (mới từ đầu) và in toto (hoàn toàn) sau sự đầu hàng của Nhật Bản trong 1945, thay vào đó chúng tôi cho rằng có một sợi chỉ dân chủ đã xuất hiện ở Nhật Bản trong thế kỷ thứ mười chín và sợi chỉ đó đã chật vật chuyển từ từ qua các thời kỳ khác nhau trong sự phát triển hiện đại của Nhật Bản, cuối cùng đóng góp cho dân chủ qua sức mạnh. Như sẽ xảy ra ở nơi khác trong châu Á kiến tạo-phát triển trong các thập niên tới, dân chủ qua sức mạnh ở Nhật Bản đã là một quá trình kéo dài của sự thử nghiệm có thể bị đảo ngược. Chỉ khi chúng ta nhận ra tầm quan trọng của sức mạnh bảo thủ trong việc ổn định hóa nền dân chủ thì chúng ta mới có thể hiểu đầy đủ nền dân chủ hậu chiến của Nhật Bản đã sống qua được Chiến tranh Lạnh và kéo dài cho đến hiện tại như thế nào, và vì sao thử nghiệm dân chủ có thể bị đảo ngược của nó thực ra đã chẳng bao giờ bị đảo ngược.
Như chúng tôi kể lại trong chương này, một bộ máy quan liêu hiện đại và có khả năng đã xuất hiện ở Nhật Bản Minh trị. Nhà nước kiến tạo-phát triển đã vẫn nguyên vẹn qua thời kỳ sau chiến tranh và đã cho phép ban lãnh đạo chính trị bảo thủ để làm sống lại nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá của Nhật Bản. Cũng vậy, các di sản của nền dân chủ thời-Taisho của các năm 1920 đã tỏ ra là cốt yếu cho chuyển đổi dân chủ sau chiến tranh. Nền dân chủ Taisho không chỉ đã đưa các đảng chính trị vào như một định chế dân chủ quan trọng; nó cũng đã tạo ra một nền tảng cho các chính phủ do đảng-lãnh đạo, sự tranh cãi chính trị, và sự luân phiên quyền lực. Nó cũng sinh ra một đội ngũ lớn của các chính trị gia bảo thủ, mà là những người theo chủ nghĩa quân chủ truyền thống nhưng tuy nhiên cũng là những người ủng hộ chính phủ đại diện. Mặc dù chế độ phát xít của các năm 1930 đã gạt sang bên lề và cuối cùng đã đánh bại các ý tưởng và thực hành dân chủ chớm nở này, chúng đã được hồi sinh, không phải được sáng chế ra de novo (lại một lần nữa), ở Nhật Bản sau chiến tranh.
Các sự liên tục—hơn là các sự gián đoạn—trong bộ máy quan liêu nhà nước, các đảng, và sự chuyển qua các chính trị gia bảo thủ sau chiến tranh đã cung cấp sức mạnh và sự tự tin có trước (antecedent) cho các chính trị gia Nhật để chấp nhận hiến pháp dân chủ trong 1946, để trẻ hóa nhà nước kiến tạo-phát triển và tăng tốc sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản ngay sau đó, và để củng cố hệ thống đảng dân chủ. Trong khi Nhật Bản như một nước đã yếu sau sự tàn phá của chiến tranh, ban lãnh đạo chính trị, bộ máy quan liêu nhà nước, và các đảng chính trị, bị chiến tranh khiến cho tập tễnh và loại ra ngoài, đã không yếu. Bất chấp thời kỳ phát xít của các năm 1930, các nguồn sức mạnh có trước này đã kéo dài. Chúng cung cấp sự tự tin chiến thắng và ổn định cho các chính trị gia đương nhiệm sau chiến tranh, những người đã thừa nhận dân chủ, không như một hành động thất bại mà với sự kỳ vọng về sự ổn định và chiến thắng bầu cử tương lai.
Như chúng tôi đã gợi ý trong chương này, kinh nghiệm dân chủ hóa dần dần từ 1946 đến 1955 của Nhật Bản có thể được hình dung như một thời gian của sự thử nghiệm có thể đảo ngược. Chế độ của Nhật Bản trong các năm đó đã giống các chế độ “độc đoán bầu cử” mà đã theo đuổi tự do hóa bầu cử từ từ trong các trường hợp như Thái Lan và Đài Loan, các ví dụ Á châu chủ chốt khác về thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược được. Thành công hay thất bại của các thử nghiệm có thể đảo ngược như vậy phụ thuộc, tuy vậy, vào chiến thắng tiếp tục và sự tự tin ổn định của các đảng bảo thủ và các elite đồng minh của chúng. Ở Nhật Bản, các lý do cho sự tự tin như vậy tỏ ra phong phú vào giữa-các năm 1950.
Mặc dù những người Mỹ đã đóng một vai trò hàng đầu trong việc khởi xướng thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược này trong các năm 1940, chính những tính toán và thành công được tích lũy của những người bảo thủ Nhật là cốt yếu nhất cho sự hoàn thành dân chủ hóa của Nhật Bản trong các năm 1950. Sự chiếm đóng Mỹ là quan trọng, mặc dù tự nó đã không có tính quyết định, trong việc xác định số phận dân chủ của Nhật Bản; rốt cuộc, như chúng tôi cho thấy trong các chương tiếp theo của cuốn sách này, nhiều thử nghiệm dân chủ khác được Mỹ-ủng hộ đã thất bại.
Phân tích của chúng tôi đưa ra những sự thấu hiểu mới vào một câu đố bị đánh giá thấp: vì sao nhà nước quan liêu Nhật bản đã chẳng bao giờ sa vào sự cai trị quan liêu độc đoán trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trường hợp Nhật không phải là ví dụ hay nhất về dân chủ qua sức mạnh; ví dụ hay nhất về điều đó là QDĐ ở Đài Loan. Nhưng như nền dân chủ đầu tiên hình thành ở châu Á kiến tạo-phát triển, trường hợp Nhật cung cấp những sự thấu hiểu thực nghiệm và lý thuyết quan trọng vào phần còn lại của châu Á kiến tạo-phát triển dân chủ cuối cùng đã xuất hiện như thế nào.
Tại châu Á kiến tạo-phát triển dân chủ, chúng tôi nhận thấy rằng các đảng độc đoán mạnh thừa nhận dân chủ không phải để thừa nhận thất bại mà để bảo tồn sự nắm quyền lực chính trị của chúng, và có khả năng củng cố sự thống trị bền bỉ của chúng trong nền dân chủ. Chúng chọn nền dân chủ khi chúng tự tin rằng các sức mạnh trước đó được kế thừa cho chúng một lợi thế hơn đối lập và rằng sự ổn định sẽ kéo dài. Kinh nghiệm Nhật cũng ủng hộ quan niệm rằng nền dân chủ và sự phát triển có thể sóng đôi, và rằng các thử nghiệm dân chủ thành công và lâu bền có thể tăng cường các triển vọng phát triển của một quốc gia trong dài hạn.
Như phần còn lại của các chương và những nghiên cứu trường hợp lộ ra trong cuốn sách này, chúng ta sẽ thấy những kinh nghiệm của các nước dân chủ hóa muộn khác trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển phản chiếu trường hợp Nhật bản. Những sự giống nhau trong quá trình phát triển và nền dân chủ ở Nhật Bản với các nước dân chủ hóa khác muộn hơn trong khu vực là nổi bật. Những sự giống nhau như vậy, chúng tôi cho rằng, là không ngẫu nhiên: chúng tụ thành cụm.
4. Đài Loan
TẤM GƯƠNG VỀ DÂN CHỦ QUA SỨC MẠNH
NẾU NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH là trường hợp đầu tiên của dân chủ qua sức mạnh ở châu Á kiến tạo-phát triển, Đài Loan là trường hợp mẫu mực. Trong khi elite bảo thủ ở Nhật Bản đã có một cơ hội để trỗi dậy từ đống đổ nát và tro tàn của Chiến Tranh Thế giới II, Quốc Dân Đảng (QDĐ) ở Đài Loan đã khởi đầu cải cách dân chủ từ một thế mạnh bền bỉ.
Đài Loan đã dưới sự cai trị độc đoán của QDĐ trong gần bốn mươi năm khi các nhà hoạt động đối lập tuyên bố sự hình thành của một đảng chính trị mới, Đảng Dân chủ Tiến Bộ (DPP), trong năm 1986. Đài Loan lúc đó ở dưới quân luật. QDĐ đã cai trị hòn đảo với một bàn tay sắt và đã cấm sự hình thành các đảng đối lập. DPP như thế được thành lập một cách bất hợp pháp và bất chấp chế độ độc đoán. Hầu hết mọi người kỳ vọng QDĐ nghiền nát đảng đối lập mới; rốt cuộc, đó là chuyện các chế độ độc đoán thường làm.
Thay vào đó, điều bất ngờ đã xảy ra. Tổng thống Tưởng Kinh Quốc, lãnh tụ của QDĐ, đã quyết định cho phép sự hình thành đảng đối lập. Một năm sau, trong 1987, chế độ bãi bỏ quân luật, bắt đầu mở vũ đài chính trị cho nhiều sự huy động đối lập hơn, và thu nhỏ hầu hết các bộ phận đàn áp của nhà nước độc đoán. Các ứng viên đối lập được tranh đua một số hạn chế ghế lập pháp trong 1989. Các biểu ngữ đảng khác với biểu ngữ của QDĐ được cho phép lần đầu tiên. Ba năm sau đó Đài Loan tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp hoàn toàn tự do đầu tiên của nó trong 1992, và nó tổ chức cuộc bầu cử tổng thống cạnh tranh đầu tiên trong 1996 có các ứng viên từ QDĐ và DPP. Chuỗi thừa nhận chính trị, bắt đầu với quyết định ban đầu của Tưởng để không trấn áp DPP trong 1986, khởi đầu một chuỗi sự kiện chính trị rốt cuộc đã dẫn đến chuyển đổi dân chủ của Đài Loan.
Điều đặc biệt về trường hợp Đài Loan—và vì sao nó là trường hợp mẫu mực của chúng ta về dân chủ qua sức mạnh—là QDĐ, khi nó khởi đầu quá trình dân chủ hóa trong cuối các năm 1980, đã vẫn là một đảng chính trị rất mạnh. Nó đã không phải là một đảng bị khủng hoảng trong 1986, Đài Loan cũng đã chẳng trên bờ vực sụp đổ về mặt kinh tế hay chính trị.
Nền kinh tế Đài loan đã mạnh, với không dấu hiệu chậm lại nào. Đài Loan đã trải qua vài thập niên tăng trưởng kinh tế bền vững với QDĐ cầm lái nhà nước kiến tạo-phát triển. Chế độ cũng đã ổn định về chính trị trong các năm 1980. Các cuộc biểu tình nổ ra thi thoảng, nhưng chẳng có gì chế độ QDĐ đã không thể xử lý, hoặc qua sự đàn áp do nhà nước-tài trợ hay bằng các sự thưởng-phạt kinh tế chọn lọc. Đối lập tangwai (黨外đảng ngoại, ngoài đảng) mà đã xuất hiện trong đầu các năm 1980, tiền thân của DPP đối lập, về thực chất đã là một phong trào elite chính trị gồm các chính trị gia địa phương và các trí thức bất đồng chính kiến, không phải một phong trào cách mạng có cơ sở quần chúng như chúng ta thường thấy thách thức các chế độ độc đoán khác.
Hơn nữa, các cuộc bầu cử hạn chế trong các năm 1970 và 1980, mà các ứng viên độc lập, không-QDĐ tranh đua, đã cho thấy một cách nhất quán số người đi bàu lành mạnh và sự ủng hộ dân chúng cho đảng cầm quyền. Mặc dù sự ủng hộ cử tri cho QDĐ đã giảm dần trong hai thập niên đó, QDĐ vẫn giành được 67 phần trăm phiếu phổ thông trong cuộc bầu cử 1986, duy trì sự kiểm soát cao, hầu như không thể bác bỏ được của đảng cầm quyền đối với chính phủ. Nói cách khác, khi chế độ cầm quyền bắt đầu tự do hóa và cuối cùng dân chủ hóa hệ thống chính trị trong cuối các năm 1980, QDĐ hầu như không phải là một đảng trong vòng xoáy tử thần báo trước sự sụp đổ sắp tới của nó. Thay vào đó, QDĐ, bất chấp sự giảm dần về sự ủng hộ cử tri của nó, đã vẫn là một đảng rất mạnh và lực lượng duy nhất, thống trị trong nền chính trị Đài loan.
Vì thế câu hỏi hóc búa là: Nếu nền dân chủ không bị áp đặt lên chế độ QDĐ trong các năm 1980, và quả thực nó đã vẫn là một đảng hùng mạnh, ổn định, định hướng kiến tạo-phát triển, thì vì sao nó đã thừa nhận dân chủ, và vì sao lúc đó? Diễn đạt theo cách khác, vì sao QDĐ lại thừa nhận dân chủ khi nó không phải làm vậy, khi sự sụp đổ chế độ đã thậm chí không ở trên đường chân trời có thể tưởng tượng được? Chúng tôi cho rằng QDĐ thừa nhận để lao vào con đường dân chủ một phần bởi vì nó vẫn là một đảng chính trị mạnh, tự tin đến mức các sức mạnh đương nhiệm và các cơ sở của sự ủng hộ chính trị lúc đó sẽ hầu như bảo đảm sự thống trị của nó trong ngắn hạn và sự sống sót của đảng trong nền dân chủ trong dài hạn. Các tín hiệu chế độ nhận được rằng quyền lực độc đoán của nó đang giảm đã làm yên lòng như chúng báo điềm gở, bởi vì sự tiếp tục hấp dẫn cử tri đã hầu như không thể thắng nổi. Nói đơn giản, nó đã không thừa nhận dân chủ để ra đi hay để từ bỏ quyền lực, mà đúng hơn để phục hồi sự nắm giữ quyền lực của nó bằng phương tiện dân chủ—mà nó đã làm khá dễ dàng suốt các năm 1990.
Phần còn lại của chương này kể câu chuyện về nền chính trị và sự phát triển kinh tế của Đài Loan trong thời kỳ sau chiến tranh, dẫn đến quyết định trọng đại của QDĐ để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh. Hơn bất cứ chương nào khác trong cuốn sách này, nó kể lại lịch sử này từ quan điểm của một đảng cầm quyền duy nhất đã hướng dẫn quá trình dân chủ hóa. Như chúng ta đã thấy trong trường hợp Nhật Bản, một bộ máy quan liêu kiến tạo-phát triển hùng mạnh có thể đóng một vai trò ổn định hóa trong dân chủ hóa ngay cả trước khi một đảng mạnh thiết lập sự thống trị của nó. Theo cách này, bộ máy nhà nước quan liêu kiến tạo-phát triển cũng đã hết sức quan trọng trong câu chuyện chuyển đổi dân chủ của Đài Loan, mặc dù sân khấu trung tâm đã chủ yếu thuộc về QDĐ. Vì thế, để hiểu nền chính trị và sự phát triển kinh tế của Đài Loan có nghĩa là hiểu QDĐ trên mọi thứ khác.
Câu chuyện của chúng ta bắt đầu với nguồn gốc của Quốc dân Đảng ở Trung Quốc và làm thế nào QDĐ đã thành công tái tạo chính mình ở Đài Loan sau khi bị những người cộng sản Trung Quốc đánh bại trong các năm 1940. Sau đó, QDĐ bắt đầu một quá trình có chủ ý để xây dựng-đảng và xây dựng-nhà nước ở Đài Loan, sắp đặt phép màu kinh tế của Đài Loan và nuôi dưỡng sự ổn định chính trị đáng chú ý, đồng thời giành được cơ sở rộng của sự ủng hộ chính trị và kinh tế cho đảng cầm quyền như một chế độ độc đoán. Chúng tôi cũng kể về làm thế nào những thành tựu phát triển của chế độ đã gieo những hạt giống của một xã hội Đài loan đòi hỏi khắt khe hơn, và làm sao QDĐ cuối cũng đã chọn một con đường dân chủ để quản trị nó—không phải bởi vì QDĐ là một đảng bị khủng hoảng, mà thay vào đó để ngăn chặn những kẻ thách thức bá chủ của nó trong tương lai và để củng cố lại quyền lực của nó bằng việc giành lại sự ủng hộ qua các cuộc bầu cử dân chủ. Chúng tôi giải thích làm cách nào Đài Loan đã biến đổi từ một “chế độ độc tài độc-đảng thành một hệ thống đảng thống trị” trong đó QDĐ vẫn là quyền lực tối thượng của Đài Loan, ngay cả khi hệ thống chính trị dứt khoát chuyển từ chủ nghĩa độc đoán sang nền dân chủ.1
Nguồn gốc và sự Lưu vong của QDĐ
Trước đầu thế kỷ thứ hai mươi, Trung Quốc đã bị các chế độ triều đại kế tiếp nhau cai trị, triều đại cuối là triều đại nhà Thanh. Các phong trào chống-Thanh nổi lên trong cuối thế kỷ thứ mười chín, lên đỉnh điểm trong sự thoái vị của hoàng đế trong 1912 và sự kết thúc của triều đại cuối cùng; thế chỗ nó, các lực lượng cộng hòa Trung quốc thành lập một chính phủ lâm thời.
QDĐ, mà chính thức được thành lập trong năm 1912, có nguồn gốc của nó trong các phong trào chống-Thanh và sớm nắm quyền kiểm soát. Tuy nhiên QDĐ ban đầu đã không phải là một đảng chính trị mạnh, ngay cả sau khi nó thành lập chính phủ trong năm 1928. Ngay sau sự sụp đổ của nhà Thanh, Trung Quốc đã không thống nhất, và QDĐ đã phải đánh vài trận chiến với những lãnh chúa vùng trong một cố gắng thất bại để củng cố nhà nước-quốc gia Trung quốc. QDĐ đã không có được sự ủng hộ rộng rãi và nội bộ đảng thối nát và đầy các xung đột bè phái. Như một kết quả, bất chấp thiện ý chống-Thanh của nó và lời xác nhận của nó để là nhà cai trị có tính chính danh của Trung Hoa Dân Quốc (Cộng hòa Trung Hoa-ROC) mới sinh, nó đã không có khả năng để thống nhất và mang lại sự ổn định cho Trung Quốc hiện đại.
Sự bất lực của QDĐ để quản trị Trung Quốc đã mở cửa cho sự lên của Đảng Cộng sản Trung quốc (ĐCSTQ), do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Được thành lập ở Thượng Hải trong 1921, ĐCSTQ đã huy động sự ủng hộ ở nông thôn, tập hợp các nông dân xung quanh tầm nhìn về chủ nghĩa xã hội nông nghiệp và một Trung Quốc kiên cường, dân tộc chủ nghĩa có thể đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc nước ngoài. Những người cộng sản Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo có sức thuyết phục của Mao, đã chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật bản trong các năm 1930. Quân đội nông dân của Mao cũng đã chiến đấu một cuộc nội chiến với QDĐ để xác định đảng tiên phong nào sẽ cai trị Trung Quốc.
QDĐ, dưới sự lãnh đạo của Thống chế Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã bị những người cộng sản đánh bại và buộc phải chạy trốn khỏi Trung Hoa đại lục trong cuối các năm 1940, chính phủ ROC thiết lập lại và rút lui về Đài Loan, một hòn đảo cách bờ biển phía đông của đại lục mà, từ 1895 đến 1945, đã dưới sự cai trị thuộc địa Nhật bản. QDĐ, mặc dù được công nhận chính thức như chính phủ hợp pháp của ROC, hay “Trung Quốc tự do,” về cơ bản đã là một đảng suy nhược vào lúc nó đến Đài Loan, nội bộ thối nát và suy tàn về thể chế, với không liên kết nào với xã hội Đài Loan địa phương. Tưởng đã vẫn là lãnh tụ của QDĐ và tổng thống của chính phủ ROC lưu vong.
Mặc dù QDĐ bị đánh bại và buộc phải rút lui sang Đài Loan, Tưởng đã không có ý định cho QDĐ để đóng vĩnh viễn ở đó. Ông cũng đã chẳng đoán trước QDĐ sẽ vẫn yếu lâu. Ông đã có những tham vọng lớn để tiếp sinh lực lại và xây dựng lại đảng ở Đài Loan. Sự đày ải của nó sang hòn đảo chỉ là tạm thời, và một khi QDĐ đã trẻ hóa lại mình, Tưởng lập luận, đảng sẽ lấy lại Trung Quốc từ ĐCSTQ phục hồi chính phủ ROC trên đại lục.
Sự rút lui của QDĐ sang Đài Loan đã không trơn tru. Thứ nhất, Đài Loan đã dưới sự cai trị thực dân Nhật bản kể từ 1895, khi Trung Quốc nhượng hòn đảo sau sự thất bại của nó trong Chiến tranh Trung-Nhật. Đài Loan đã không được quản trị bởi bất kể nhà chức trách Trung quốc nào kể từ sự kết thúc của thế kỷ thứ mười chín. Khi QDĐ đến trong cuối các năm 1940, vì thế, người Đài Loan địa phương đã không đặc biệt hoan nghênh cái một số người thấy là một chế độ thuộc địa nữa. QDĐ đã làm cho vấn đề tồi tệ hơn khi, và 27 tháng Hai 1947, các binh lính cộng hòa đã đánh đập dã man một phụ nữ Đài loan, mà đến lượt đã châm ngòi các cuộc bạo loạn lớn [hôm sau], đánh dấu ngày đó như “Sự cố 228” khét tiếng. Các hệ quả của Sự cố 228 đã không tầm thường cho sự phát triển chính trị của Đài Loan. Một bản sắc “Đài loan” mới sinh bắt đầu hình thành: một bản sắc (căn tính) sắc tộc, và cuối cùng chính trị, phân biệt đa số người Đài loan địa phương với thiểu số người đại lục đến với chế độ QDĐ lưu vong.
Một thứ có lợi cho Quốc Dân Đảng, tuy vậy, là QDĐ được cộng đồng quốc tế công nhận như chính phủ hợp pháp của ROC, trên danh nghĩa gồm cả toàn bộ đại lục. Những người cộng sản, trong khi đó, bị xa lánh về mặt quốc tế và bị hầu hết các nước trên thế giới coi như một chế độ phản bội. Logic sau chiến tranh của chính sách ngăn chặn cộng sản đã có lợi cho QDĐ, cũng nhiều như có lợi cho các đảng cầm quyền ở Nhật Bản và Hàn Quốc, bằng việc tìm được Hoa Kỳ như siêu cường bảo trợ của nó. Như chúng ta sẽ thấy, địa chính trị đã đóng một vai trò quan trọng trong sự tiến hóa của QDĐ.
Củng cố QDĐ
Việc củng cố quyền lực của QDĐ ở Đài Loan, để nói ít nhất, đã không phải là nhiệm vụ dễ, đòi hỏi đảng bị yếu để củng cố bản thân mình bên trong và bên ngoài trong các quan hệ của nó với người Đài loan địa phương. Nhiều nhà lãnh đạo bị khai trừ khỏi cơ quan nội bộ cao nhất của đảng, Ban Thường vụ Trung ương, kể cả vài người trong giới thân cận của Tưởng trong khi ở Trung Quốc. Trong tháng Năm 1949 Tưởng tập hợp mười quan chức QDĐ cấp cao, tất cả đều trung thành với ông, để bắt đầu phác họa các cải cách nội bộ của đảng. Muộn hơn trong năm đó, ủy ban lãnh đạo đã phác họa các nguyên tắc hướng dẫn cho sự tổ chức lại QDĐ. Cái không thay đổi, tuy vậy, là sự kỳ vọng tường minh rằng QDĐ sẽ vẫn là quyền lực chính trị tối cao duy nhất ở Đài Loan, và rằng quyền lực phải được thực hành qua đảng theo cách độc đoán. QDĐ đã không sắp dân chủ hóa hay dẫn đầu một quá trình tự do hóa chính trị ở Đài Loan; có thể, chiến dịch tổ chức lại đã có ý định để tăng cường QDĐ độc đoán.
Chiến dịch xây dựng lại Đảng bắt đầu trong 1950 và được Ban (tái) Tổ chức Trung ương giám sát. Ủy ban đã gồm những người trung thành do Tưởng chọn, tất cả đều có xuất xứ đại lục. Chiến dịch đã có vài mục tiêu. Quan trọng nhất, QDĐ ở Đài Loan ngay lập tức bắt đầu tập trung hóa quyền lực bên trong đảng. Tưởng cảm thấy đảng đã bị làm yếu từ nội bộ trong nội chiến, cho phép tham nhũng và chủ nghĩa bảo trợ lan tràn khắp và cuối cùng làm xói mòn khả năng cai trị của đảng.2 Chiến dịch đã nhắm để loại bỏ chủ nghĩa bè phái bên trong đảng, một nguồn được cảm nhận khác của sự yếu kém của đảng và một nguyên nhân hàng đầu của việc QDĐ thua những người cộng sản.
Một mục tiêu khác của ủy ban là để tạo ra các cơ chế thể chế mới nhúng đảng vào bên trong xã hội. Sau khi suy ngẫm, QDĐ thừa nhận ĐCSTQ đã làm công việc tốt hơn để giành được sự ủng hộ cấp cơ sở giữa giai cấp nông dân Trung quốc, tỏ ra có tính quyết định trong việc huy động những người cộng sản chống lại QDĐ. Tưởng và ban lãnh đạo QDĐ lập luận rằng nếu QDĐ muốn quản trị hữu hiệu và tạo ra sự ủng hộ dân chúng ở Đài Loan—và cuối cùng ở Trung Quốc—đảng cần các cơ chế cho phép nó thực hiện quyền lực từ trên xuống trong khi tạo ra sự phản hồi từ dưới lên cho đảng.
Nó hoàn thành việc này bằng nhiều cách. Thứ nhất, QDĐ thấm vào tất cả các định chế chính quyền qua các mạng lưới chi bộ đảng, các nhóm nhỏ gồm các đảng viên trung thành. Vào lúc kết thúc chiến dịch tổ chức lại trong 1952, hơn 2.700 cán bộ đảng được tổ chức thành gần 300 chi bộ đảng trong các nhánh chính phủ trung ương khác nhau. Văn phòng Tổng thống và nhánh hành pháp đã có gần 1.500 cán bộ đảng hoạt động trong 155 chi bộ. Các chính trị gia QDĐ trong nhánh lập pháp cũng được tổ chức tương tự thành các chi bộ đảng. Các cơ quan hành chính nhà nước, như Viện Hành pháp (nội các) và Viện Tư pháp, được “các nhóm nhỏ” chính trị thâm nhập, chịu trách nhiệm với Ban (tái) Tổ chức Trung ương của đảng. Vào lúc kết thúc chiến dịch tổ chức lại, tỷ lệ của các đảng viên trên thành viên trong bộ máy chính phủ trung ương đã là 5 trên 1. Hơn một phần ba quan chức chính quyền địa phương cũng đã là các đảng viên.
Thứ hai, đảng cầm quyền đã thiết lập sự kiểm soát chặt của nó đối với quân đội. Trong tháng Tư 1950 Tưởng Giới Thạch đã chỉ định con trai ông, Tưởng Kinh Quốc, đứng đầu Tổng cục Chính trị trong quân đội. Tưởng trẻ đã tái lập hệ thống chính ủy bị bãi bỏ trong các năm 1920 khi QDĐ vẫn ở đại lục. Qua hệ thống chính ủy, đảng đã thiết lập các chi bộ bên trong đội ngũ quân đội và áp đặt kỷ luật đảng nghiêm ngặt giữa các binh lính, cụ thể qua các chương trình giáo dục chính trị. Những người bị nghi là cộng sản cũng bị xử lý, hoặc bị thanh trừng hay bị bỏ tù. Hệ thống chính ủy được dùng như “những chiếc tai và những con mắt của đảng trong quân đội.” Trong 1952 khoảng 145.000 đảng viên được tuyển vào quân đội và các nhánh an ninh của chính phủ. Con số này đã tăng nhanh trong hai năm tiếp theo khi 95.000 đảng viên mới được quân đội tuyển mộ. Vào 1954 hơn một phần ba lực lượng vũ trang đã là các đảng viên QDĐ.3
Thứ ba, QDĐ bắt đầu xây dựng cơ sở dân chúng của nó bên trong xã hội Đài loan, giải phóng sự vận động đảng viên quần chúng. Các đảng viên dân sự của QDĐ trong 1950 đã chỉ hơn 80.000; và hai năm sau, nó đã tăng hơn gấp đôi lên khoảng 170.000. Hầu như một nửa đảng viên mới trong 1952 đã là nông dân và công nhân, và không từ tầng lớp chuyên nghiệp hay trung lưu, phản ánh chiến lược cố ý mở rộng cơ sở ủng hộ của nó. Các đảng viên mới cũng đã trẻ hơn nhiều, và một số bất cân đối của họ đã sinh ra ở Đài Loan, một dấu hiệu sớm về chiến lược của QDĐ để địa phương hóa “Đài Loan hóa” đảng.
Vào lúc bắt đầu chiến dịch tái tổ chức đảng, tỷ lệ đảng viên trên dân số khoảng một trên một trăm, hay chỉ 1 phần trăm; vào 1952, hai năm sau tỷ lệ này tăng lên 3,5 phần trăm; và 5 năm sau, QDĐ khoe khoang hơn nửa triệu đảng viên, hay 5,3 phần trăm dân số. Các đảng viên dân sự được tổ chức thành 30.000 chi bộ nơi làm việc và nơi cư trú, cho đảng độc đoán một sự hiện diện ở cả các làng nông thôn và các trung tâm đô thị. Các chi bộ và các chi nhánh QDĐ cũng đã phát triển nhanh khắp các định chế khu vực-công, từ các trường công đến các cơ quan chính quyền. Mặc dù lúc đó QDĐ đã không tin nó sẽ cai trị Đài Loan trong thời gian dài—mục tiêu, rốt cuộc, cho đảng là đắc thắng trở về Trung Quốc—nó đã thành công tổ chức lại, về nội bộ và trong quan hệ với xã hội địa phương, mà đã thiết lập nền tảng vững chắc cho sự phát triển phi thường của Đài Loan.4
Nhà nước kiến tạo-phát triển và QDĐ
Sự tổ chức dọc của bộ máy nhà nước kiến tạo-phát triển phản ánh sự tổ chức độc đoán của QDĐ. Các bộ hành chính bên trong nhà nước, kể cả những bộ hùng mạnh giám sát nền kinh tế, ngoại giao, và tài chính của Đài Loan, được gộp vào dưới và bị chỉ huy bởi Hội đồng Kế hoach hóa Kinh tế và Phát triển, mà đến lượt do các quan chức QDĐ cấp cao đứng đầu. Quyền lực hành chính và chính trị được tập trung vào hội đồng, hay cái Chalmers Johnson gọi là một tổ chức “hoa tiêu,” được giao nhiệm vụ hướng dẫn và định hình các chính sách công, kể cả các chính kinh tế của Đài Loan.5
Nhà nước kiến tạo-phát triển, bất chấp được tập trung, đã không tham nhũng tràn lan, không giống nhà nước QDĐ ở Trung Quốc. Mặc dù bị các đảng viên QDĐ và ban lãnh đạo đảng thâm nhập hoàn toàn, bộ máy quan liêu nhà nước được tổ chức theo đường lối trọng dụng nhân tài hơn là các sự kiên kết người đỡ đầu-người được bảo trợ (patron-client). Các nhà kỹ trị tạo thành nhân viên của các bộ, chẳng hạn, được chọn từ các đại học hàng đầu của Đài Loan và qua một kỳ thi công chức hết sức cạnh tranh. Các nhà quan liêu kiến tạo-phát triển có khuynh hướng được đào tạo trong lĩnh vực kỹ thuật, chiếm ưu thế về kỹ nghệ. Nói cách khác, bộ máy nhà nước của Đài Loan đã tinh gọn, hiệu quả, và có các nhân viên giỏi nhất và thông minh nhất. Noi theo tấm gương kinh nghiệm Nhật bản, nhà nước kiến tạo-phát triển ở Đài Loan được giao nhiệm vụ lãnh đạo công nghiệp hóa và sự phát triển kinh tế của Đài Loan từ trên xuống.6
Đài Loan bắt đầu tăng tốc sự tăng trưởng công nghiệp của nó trong các năm 1950, qua một nền tảng kinh tế vững chắc được đặt trước đó với các cải cách đất đai và nông nghiệp mạnh mẽ. Trong cuối các năm 1940, khi QDĐ đầu tiên đến Đài Loan, hơn một nửa dân số Đài loan là nông dân, và tuyệt đại đa số đã là các tá điền canh tác trên đất của các địa chủ, một di sản của sự thuộc địa hóa Đài Loan sớm hơn của Nhật Bản. QDĐ, với sự giúp đỡ của các cố vấn Mỹ, đã bắt đầu một chiến dịch cải cách đất đai chu đáo bắt đầu trong 1949. Phần đầu tiên của chiến dịch đã tập trung vào việc giảm tô cho các tá điền cũng như việc nhà nước chiếm đoạt đất hoàn toàn. Trong đầu các năm 1950, đất được chiếm đoạt từ các địa chủ được bán hay chuyển giao trực tiếp cho các nông dân không có ruộng. Trong cố gắng đất-cho-dân cày bắt đầu trong 1953, đất được chuyển giao từ các địa chủ cho các dân cày, đến mức vào các năm 1960 hầu hết đất có thể canh tác của Đài Loan được các hộ gia đình cá thể sở hữu.
Bằng việc canh tác đất của riêng họ, các nông dân đã không chỉ tăng năng suất nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực cho những người sống ở nông thôn mà cũng đã tạo ra thu hoạch dư thừa, như gạo, được bán trong nước và muộn hơn được xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài. Thu nhập ngoại thương ban đầu của Đài Loan đã chủ yếu là từ hàng xuất khẩu nông nghiệp, mà đến lượt được đầu tư vào việc khởi động công nghiệp hóa của Đài Loan. Về khía cạnh này, cải cách đất đai đã kích Đài Loan cho sự cất cánh công nghiệp của nó.7
Thật quan trọng, cải cách đất đai sớm ở Đài Loan đã tổ chức lại nông thôn về mặt chính trị sao cho các elite sở hữu đất lớn sẽ không trở thành một rào cản của dân chủ hóa muộn hơn, mà chúng ta biết đã cản trở sự chuyển đổi dân chủ trong các vùng khác, nhất là ở châu Mỹ Latin. Vào thời dân chủ hóa bắt đầu trong cuối các năm 1980, nông thôn Đài loan được cai trị bởi các chính trị gia QDĐ nuôi dưỡng các cơ sở ủng hộ địa phương, và không phải các elite nhiều đất giữ giai cấp nông dân trong sự kìm kẹp cưỡng bức của họ.
Trong các năm 1950, các hãng công nghiệp Đài Loan địa phương bước vào các khu vực chế tạo công nghiệp nhẹ thâm dụng-lao động. Các hãng này, như được chờ đợi, đã không có tính cạnh tranh trong các khu vực công nghiệp tinh vi hơn về mặt kỹ thuật. Cái chúng có, tuy vậy, đã là sự tiếp cận đến lao động dư dả và rẻ, như trong nhiều nền kinh tế đang phát triển. Nhà nước kiến tạo-phát triển QDĐ đã hiệu quả trong việc hướng dẫn sự phát triển kinh tế từ trên xuống bằng việc nuôi dưỡng sự tăng trưởng của các doanh nghệp mới. Chính phủ Đài loan cung cấp sự ổn định kinh tế vĩ mô qua các cơ chế như các chính sách quản lý tỷ giá hối đoái và định giá nhập khẩu cố định, cùng với một loạt quy định kiểm tra đối với khu vực tài chính để cung cấp các khoản vay và các khuyến khích thuế cho các ngành và các hãng tăng trưởng.
QDĐ cũng đã đặt ưu tiên để ngăn chặn loại lạm phát phi mã mà đã trải qua ở Trung Hoa đại lục và đã góp phần cho suy sụp của đảng ở đó. Nhà nước kiến tạo-phát triển QDĐ đã theo đuổi chính sách tiền tệ bảo thủ để giảm nhẹ các áp lực lạm phát lên giá tiêu dùng và đầu vào công nghiệp. Vốn đầu tư, như các khoản vay và tín dụng công nghiệp, được khu vực tài chính và ngân hàng do nhà nước kiểm soát quản lý một cách chiến lược. Ngay cả thị trường cho vay thứ cấp phi chính thức—cái gọi là thị trường lề đường—đã bị nhà nước giám sát chặt chẽ.
Các ngành công nghiệp sau chiến tranh của Đài Loan đã là độc đáo giữa các nhà nước kiến tạo-phát triển Á châu ở chỗ hầu hết các hãng công nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Còn các hãng khổng lồ ở Hàn Quốc và Nhật Bản—các chaebol ở nước trước, và zaibatsu ở nước sau—được quản lý tài sản bởi các ngân hàng cấp tín dụng hào phóng ưu tiên các hãng lớn và tiết kiệm do quy mô, ở Đài Loan, chính phủ chọn một chiến lược đầu tư thay thế tận dụng các khuyến khích tài khóa (tức là, dựa vào thuế) để gieo hạt giống và nuôi dưỡng các hãng nhỏ và lanh lợi. Chiến lược tăng trưởng SME của QDĐ phản ánh những di sản của chế độ thuộc địa Nhật bản tại Đài Loan, và đặc biệt sự phát triển của các hãng nông thôn, quy mô-nhỏ. Từ một lập trường ý thức hệ, sự tăng nhanh của các SME cũng phản ánh “định kiến chống-tư bản chủ nghĩa lớn” lâu đời của QDĐ.8 Về mặt chính trị, chiến lược SME đã làm lợi cho QDĐ bằng việc cản trở sự tập trung sự giàu có kinh tế trong các khu vực công nghiệp, mà chế độ sợ có thể trở thành một nguồn của sức mạnh đối lập.
Chiến lược SME cũng có ý nghĩa kinh tế cho công nghiệp hóa của Đài Loan. Các hãng nhỏ và lanh lợi được gắn vào các chuỗi cung toàn cầu, mà chính phủ khuyến khích bằng việc thu hút một cách chiến lược sự đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những khu vực công nghiệp được nhắm mục tiêu. Nhà nước đặc biệt chú ý đến những ngành chế tác thâm dụng-lao động. Nó đã thực hiện các chính sách công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, nâng các thuế quan nhập khẩu trong các khu vực cạnh tranh để bảo vệ các ngành và các hãng non trẻ của Đài Loan. Theo thời gian, khi các hãng địa phương trưởng thành trở thành các nhà cung cấp và các nhà lắp ráp có tính cạnh tranh về các sản phẩm chế tác, các SME địa phương được khuyến khích, lại lần nữa với các khuyến khích tài khóa, để cạnh tranh trên các thị trường toàn cầu.
Sự chuyển sang công nghiệp hóa định hướng-xuất khẩu đã tăng tốc trong các năm 1960. Vào cuối các năm 1950, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của Đài Loan đã chỉ dưới 3 phần trăm; sau 1960, sự tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lên 25 phần trăm mỗi năm. Suốt các năm 1960, xuất khẩu đã tăng giữa 33 và 55 phần trăm hàng năm, và Đài Loan đã trở thành một nền kinh tế thương mại lớn trong các thị trường toàn cầu.
Đầu các năm 1970 là một điểm ngoặt quan trọng khác trong phép màu kinh tế Đài loan. Đến thời điểm đó, các công ty công nghiệp Đài loan đã chủ yếu là các hãng chế tạo công nghiệp nhẹ, thâm dụng-lao động. Các nhà lập kế hoạch kinh tế của QDĐ cảm thấy Đài Loan cần đa dạng hóa cơ sở công nghiệp của nó và tập trung vào các ngành và các hãng tăng giá trị-gia-tăng-cao hơn, nhất là trong khu vực điện tử. Nếu Đài Loan muốn tiếp tục nâng cấp lực lượng lao động của nó và vẫn có tính cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, các hãng của nó phải leo lên chuỗi giá trị toàn cầu.
Để tạo thuận lợi cho việc này, nhà nước kiến tạo-phát triển đề xuất một kế hoạch để nuôi dưỡng “Mười Dự án Lớn” bắt đầu trong đầu các năm 1970, một chiến dịch đầu tư cơ sở hạ tầng lớn do chính phủ-lãnh đạo. Mười Dự án Lớn—mà đã gồm các sáng kiến cơ sở hạ tầng trong sản xuất năng lượng, các cảng và đường sắt, sản xuất thép, và sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp nặng khác—được dự định để tăng cường tính cạnh tranh xuất khẩu của Đài Loan và để ủng hộ sự tăng trưởng của các khu vực công nghiệp thâm dụng-vốn, trong một sự cố ý di chuyển khỏi sự dựa sớm hơn của Đài Loan vào các ngành chế tác công nghiệp nhẹ, thâm dụng-lao động, có kỹ năng-thấp hơn.
Kế hoạch Mười Dự án Lớn đã suýt nữa bị trượt đường ray, tuy vậy, trong tháng Mười Một 1973 khi khủng hoảng năng lượng OPEC (Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ) đã đẩy giá dầu nhập khẩu lên bốn lần. Ngay lập tức nền kinh tế Đài Loan đã bị sốc vào đình lạm. Chỉ số giá tiêu dùng đã tăng từ 8 phần trăm lên gần 50 phần trăm giữa 1973 và 1974, và chỉ số giá bán buôn gần gấp đôi từ 23 phần trăm lên 41 phần trăm. Sự tăng trưởng kinh tế đình trệ và đã chậm lại chỉ còn 1 phần trăm trong 1974, và lần đầu tiên trong một thời gian dài, Đài Loan đã trải nghiệm một sự thâm hụt thương mại.
Phản ứng lại, chính phủ đã thực hiện một chương trình tiền tệ khắt khe. Cách tiếp cận chính sách tiền tệ bảo thủ đã ổn định nền kinh tế và hấp thụ các áp lực lạm phát do giá tăng vọt gây ra. Chắc chắn, sự đau điều chỉnh đã buốt, nhưng cuối cùng đã ngắn, và nền kinh tế mau chóng trở lại đúng hướng.9
Ngay sau khủng hoảng OPEC, chính phủ đã lại tiến về phía trước với Mười Dự án Lớn. Nhà nước đã tăng gấp đôi sự phát triển các khu vực không-thâm dụng-năng lượng mà cuối cùng trở thành nền tảng cho Đài Loan để quay sang các khu vực công nghiệp high-tech (công nghệ cao), mà đã tận dụng các năng lực khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh của Đài Loan. Nhà nước kiến tạo-phát triển do QDĐ-lãnh đạo đã là quan trọng trong việc gieo hạt giống và nuôi dưỡng sự tăng trưởng của các ngành thâm dụng-công nghệ-cao của Đài Loan. Trong 1973 chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp (ITRI) ở Hsinchu, ngay bên ngoài Đài Bắc, mà ngày nay vẫn là trung tâm thương mại hóa khoa học và công nghệ đứng đầu của Đài Loan. Trung tâm nghiên cứu và triển khai (R&D) được nhà nước-tài trợ đã nhấn mạnh nghiên cứu ứng dụng (R) và sự triển khai thương mại (D), với một tiêu điểm ban đầu vào khu vực điện tử. Cuối cùng ITRI đã tập trung các hoạt động R&D và thương mại hóa của nó vào công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) tinh vi hơn.
Ví dụ hay nhất về nhà nước kiến tạo-phát triển của Đài Loan đã lái thế nào các ngành của nó tới khu vực ICT là sự tăng trưởng của năng lực sản xuất của nó về bán dẫn và các mạch tích hợp. Trong đầu các năm 1980, ITRI là cốt yếu trong việc tạo ra Công ty Chế tác Bán dẫn Đài Loan (TSMC), khai phá mô hình kinh doanh chỉ gia công thuần túy [cho các hãng có thiết kế sẵn] (pure-play foundry model) trong chế tác bán dẫn và sản xuất-chip. Với mô hình sản xuất sáng tạo, TSMC đã trở thành nhà dẫn đầu công nghiệp và thị trường toàn cầu về sản xuất bán dẫn và mạch tích hợp, một phần cốt yếu và béo bở của chuỗi giá trị công nghệ cao ICT toàn cầu. Sự tạo ra và thành công của TSMC là kết quả của việc licensing công nghệ được tài trợ công (công nghệ gốc được cấp phép cho ITRI là từ một nhà sản xuất chip Mỹ) ở thượng nguồn, và đầu tư chính phủ trực tiếp vào việc tạo ra hãng hạ lưu (downstream).
TSMC đã không phải là ví dụ duy nhất về nhà nước kiến tạo-phát triển của Đài Loan đã giảm nhẹ các rủi ro của công nghiệp high-tech như thế nào bằng việc nâng cấp và chọn và tạo ra những kẻ thắng công nghiệp. Những thành đạt công nghiệp high-tech cho các hãng Đài loan, trong các khu vực như quang tử, chế tác phần cứng máy tính, và thậm chí các dụng cụ y tế, đã theo một chiến lược nâng cấp tương tự, mà đối với chúng nhà nước kiến tạo-phát triển đã dẫn đường.10
Đỉnh cao của sự Thống trị Độc đoán
Trong chỉ ba thập niên, Đài Loan đã trở thành một trung tâm kinh tế năng động. Không ngạc nhiên, sự phát triển kinh tế sau chiến tranh của nó và vai trò nhà nước kiến tạo-phát triển do Quốc Dân Đảng-lãnh đạo, mà đã đóng trong việc chỉ huy sự biến đổi kinh tế của Đài Loan, đã mang lại cho chế độ độc đoán này tính chính danh thành tích to lớn. Như trong những hệ thống độc đoán khác nơi các quyền dân sự và chính trị của các công dân bị hiến tế trên bàn thờ phát triển kinh tế quốc gia, tính chính danh thành tích đã là một nguồn quan trọng của sự ủng hộ chính trị cho Quốc Dân Đảng.
Dưới sự cai trị độc đoán của QDĐ, Đài Loan đã đi từ một trong các nền kinh tế nghèo nhất trên thế giới để trở thành một trong những nước kiến tạo-phát triển đi đầu của châu Á. Trong các năm 1960 tốc đô tăng trưởng kinh tế trung bình của Đài Loan đã đạt gần 11 phần trăm một năm. Suốt các năm 1970 và các năm 1980, khi các ngành công nghiệp của Đài Loan bước vào các khu vực chế tạo high-tech, nền kinh tế Đài loan tiếp tục thông báo tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 8 phần trăm. Đặt điều này vào viễn cảnh so sánh, trong 1962 Đài Loan đã xếp hạng như một trong các nền kinh tế nghèo nhất trong thế giới đang phát triển, cùng vói Zaire và các nước hạ-Sahara khác. Trong thời kỳ từ 1962 đến 1986, Đài Loan nổi lên từ thứ 85 trên thế giới lên thứ 38 về mặt độ lớn của nền kinh tế. Tính bằng dollar, thu nhập trên đầu người ở Đài Loan đã đi từ US$50 trong 1952 trong đêm trước của sự cất cánh kinh tế của Đài Loan lên gần $5,000 trong 1987, tăng gần một trăm lần.
Khi nền kinh tế của Đài Loan trở nên giàu hơn, cuộc sống của nhân dân cũng đã thay đổi, trở nên hiện đại hơn. Sự sở hữu xe hơi, một chỉ số về xã hội hiện đại hóa-kinh tế, đã tăng hơn năm lần trong các năm 1970. Sự tiếp cận đến các báo hàng ngày và các tạp chí đã tăng gấp đôi trong thập niên đó, và sự kết nối điện thoại đã tăng 5-lần. Cấu trúc của nền kinh tế đã biến đổi. Tỷ lệ phần trăm của những người làm việc trong các ngành chế tác đã tăng hơn hai lần giữa năm 1953 và năm 1983, đạt gần một nửa lực lượng lao động. Trong khi đó phần của các công nhân nông nghiệp đã giảm đột ngột từ 55 phần trăm xuống chỉ còn 18 phần trăm. Xã hội Đài Loan đã trở nên ngày càng đô thị và trung lưu. Đồng thời, sự tiếp cận đến giáo dục đã mở rộng khi chính phủ phổ quá hóa giáo dục cấp một và cấp hai trong các năm 1960.
Quá trình hiện đại hóa Đài loan đặc biệt phi thường vì nó đã xảy ra nhanh đến thế nào. Để đặt kinh nghiệm của nó vào viễn cảnh so sánh, Hung-mao Tien, trong cuốn sách của ông Great Transition (Sự Chuyển đổi Vĩ đại), lưu ý rằng trong khi “hiện đại hóa của châu Âu và Bắc châu Mỹ đã xảy ra trong một thời kỳ của hai thế kỷ hay dài hơn,” ở Đài Loan “khoảng thời gian đó đã bị nén vào vài thập niên.”11
Sự cất cánh kinh tế—bền vững và có tính biến đổi trong ba thập niên từ các năm 1950 đến các năm 1980—tại Đài Loan không ngạc nhiên đã là quan trọng cho vận may chính trị của QDĐ. Kết cục chính trị về mặt tính chính danh thành tích của QDĐ và sự ủng hộ chính trị cho chế độ, tuy vậy, đã không hạn chế ở chỉ các lợi ích của sự phát triển kinh tế tổng thể của Đài Loan. Ngoài sự tăng trưởng kinh tế tổng hợp từ các năm 1950 trở đi, nhà nước kiến tạo-phát triển do QDĐ-lãnh đạo cũng được công trạng vì sự thúc đẩy tăng trưởng với sự công bằng xã hội-kinh tế. Phân bố thu nhập ở Đài Loan thực sự đã trở nên bình quân hơn trong các năm 1960 và 1970 trong thời gian cất cánh công nghiệp của Đài Loan, chính xác trong thời kỳ khi chúng ta kỳ vọng các mức bất bình đẳng cao hơn, không phải thấp hơn. Thực ra, cho đến cuối các năm 1980, hệ số Gini (một số đo chuẩn về phân bố thu nhập) của Đài Loan đã lơ lửng quanh 0,3, đưa Đài Loan ngang với các nền kinh tế Bắc Âu bình đẳng nhất.
Việc tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng với tính công bằng có ý nghĩa chính trị tốt liên quan đến những triển vọng của QDĐ độc đoán cho sự sống sót chính trị, đặc biệt khi đối mặt với những căng thẳng sắc tộc tăng lên ở Đài Loan. Đặc biệt đáng lo ngại cho QDĐ là sự xuất hiện của một bản sắc dân tộc Đài loan giữa đa số người dân sống ở Đài Loan. Một cách cụ thể, đảng cầm quyền đã lo lắng về những căng thẳng sắc tộc sắp sôi, quay lại Sự cố 228 khét tiếng giữa thiểu số sinh tại đại lục và những người Đài loan địa phương, chiếm đa số dân cư. Khi QDĐ chạy trốn khỏi Trung Quốc và đến Đài Loan trong cuối các năm 1940, dòng chảy vào của những người Trung quốc đại lục (đến cùng với QDĐ) đã chiếm chỉ 13 phần trăm dân số của hòn đảo. Việc bảo đảm một sự phân bố công bằng các thành quả tăng trưởng đã chia cổ tức chính trị cho chế độ độc đoán bằng việc ngăn chặn sự tập trung sự giàu có kinh tế vào tay những người đại lục. Sự tăng trưởng với sự công bằng cũng làm trệch một cách phòng ngừa bất kể sự chỉ trích chế độ nào vì sự bất lợi của những người Đài loan địa phương để ưu ái những người Trung quốc đại lục gắn với chính phủ QDĐ.
Hãy nhớ lại rằng tại Nhật Bản, sự tăng trưởng với tính công bằng đã mở rộng cơ sở cử tri của Đảng Dân chủ Tự do (LDP) bảo thủ trong các năm 1950 và đã củng cố sự hấp dẫn “bao quát” của nó. Tương tự, sự phát triển công bằng ở Đài Loan đã hỗ trợ sự ủng hộ chính trị cho chế độ QDĐ độc đoán. Như đã thế ở Nhật Bản sau chiến tranh, sự tăng trưởng với tính công bằng ở Đài Loan đã là kết quả của những sự lựa chọn chính sách cố ý của chính phủ. Chẳng hạn, cải cách đất đai trong đầu các năm 1950 đã không chỉ làm tăng năng suất nông nghiệp; nó cũng đã đóng góp cho một sự phân bố đất công bằng hơn cho các nông dân và các cơ hội kinh tế bằng việc phá hủy các tàn dư của hệ thống địa chủ thời thuộc địa. Chiến lược thúc đẩy các SME, hơn là các hãng lớn, đã hạ thấp các rào cản gia nhập cho các doanh nhân địa phương, mà đến lượt lại dẫn đến nhiều tính di động xã hội-kinh tế hơn giữa những người Đài loan. Sự đưa giáo dục phổ quát vào trong các năm 1960 đã đóng góp cho một lực lượng lao động lành nghề hơn và các cơ hội việc làm có lương cao hơn trên mọi lĩnh vực. Những cố gắng của QDĐ để làm nhẹ bớt sự bất bình đẳng to lớn cũng đã hiển nhiên trong các thời khắc khủng hoảng. Như chúng tôi đã mô tả sớm hơn, khi sự tăng vọt giá dầu OPEC cuối 1973 đã đe dọa lạm phát phi mã, chính phủ do QDĐ-lãnh đạo đã áp dụng một chính sách tiền tệ nghiêm ngặt và bảo thủ và đã phân bổ các trợ cấp từ các hãng sở hữu nhà nước để kiềm chế lạm phát tiêu dùng, bảo đảm khoảng cách giữa những người-có và những người-không-có không mở rộng ra.
Mặc dù chính phủ do QDĐ-lãnh đạo được công trạng vì đã tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế với tính công bằng ở Đài Loan sau chiến tranh, điều này không có nghĩa rằng nhà nước Đài loan là cái chúng ta gọi là một nhà nước phúc lợi vững chãi. Sự tăng trưởng với tính công bằng đã là kết quả của các chính sách kinh tế vĩ mô nhắm tới sự tăng trưởng, việc làm đầy đủ, và sự nâng cấp kỹ năng lao động. Trong khi đảng LDP ở Nhật Bản dân chủ đã tạo ra các chương trình phúc lợi xã hội phổ quát bắt đầu trong các năm 1960, các chính sách xã hội và những chương trình bảo trợ xã hội ở Đài Loan đã bị phân mảnh và được các bộ phận khác nhau của bộ máy quan liêu quản lý. Các chương trình phúc lợi xã hội đã không được tích hợp vào một nhà nước phúc lợi hào phóng, duy nhất. Các chương trình xã hội hiện hành khác hẳn nhau đã mang tính chọn lọc về những người thụ hưởng của chúng và phần lớn được tài trợ qua các sơ đồ đóng góp bảo hiểm, hơn là qua các quỹ chính phủ.
Tuy nhiên, các chương trình xã hội đã phục vụ một mục đích chính trị cho chế độ, vì chúng đã giúp duy trì sự thống trị độc đoán của QDĐ qua sự dùng các phúc lợi chọn lọc để lôi kéo hay duy trì các cơ sở ủng hộ chính trị quan trọng. Các chương trình phúc lợi chọn lọc, như chương trình bảo hiểm lao động, được cố ý mở rộng trong các thời khắc khủng hoảng chính trị đối với chế độ. Đấy là cách QDĐ mua chuộc các đối thủ chính trị tiềm năng, một chiến lược khủng hoảng và đền bù chọn lọc. Khi các phúc lợi xã hội được chính phủ mở rộng, chúng đầu tiên được mở rộng cho các cử tri chính trị của chế độ QDĐ, như các sĩ quan quân đội, binh lính, và các công chức. Các công nhân trong các hãng nhỏ hơn, các nông dân, và những người phụ thuộc của họ đã bị loại trừ khỏi sơ đồ chính sách xã hội cho đến các năm 1980 và 1990 khi Đài Loan đã dân chủ hóa. Các sơ đồ chính sách xã hội ban đầu đã nhắm mục tiêu đến những người là quan trọng cho sự sống sót của chế độ độc đoán.12
Các thập niên sau các năm 1950 đã là thời hoàng kim của sự thống trị độc đoán của QDĐ ở Đài Loan. Song các sức mạnh của đảng không chỉ là một sản phẩm phụ-tự nhiên của thành tích kinh tế và tính chính danh thành tích của QDĐ. Sức mạnh QDĐ cũng liên quan nhiều đến các cố gắng có chủ ý của đảng để củng cố cơ sở chính trị của nó ở Đài Loan. Trong các năm 1970, QDĐ đã tích cực thay đổi hình thức tư cách đảng viên và thành phần của cả ban lãnh đạo đảng và công chức chính phủ. Đảng trở nên trẻ hơn về mặt tư cách đảng viên sau khi nó lập ra Ủy ban Thanh niên của đảng. Sự tăng trưởng kinh tế với tính công bằng ở Đài Loan cũng đã ngăn chặn sự tập trung của cải, mà phân tán sức mạnh kinh tế của một đối lập chính trị tiềm năng.
Thật quan trọng, QDĐ đã ngày càng và tích cực tuyển mộ những người địa phương sinh ở Đài Loan vào hàng ngũ đảng và bộ máy quan liêu chính phủ. Vào cuối các năm 1970, những phần đáng kể của ban lãnh đạo chính phủ cũng như ban lãnh đạo QDĐ đã gồm những quan chức địa phương Đài loan. QDĐ đã chủ ý “địa phương hóa” và “Đài Loan hóa” đảng để biến đổi hình ảnh của nó từ hình ảnh của một đảng đại lục lưu vong thành một đảng địa phương. Sự Đài Loan hóa đã mở rộng cơ sở ủng hộ chính trị của QDĐ. Nói cách khác, trong khi đảng áp dụng các chiến thuật độc đoán để đàn áp các kẻ thù của nó, nó cũng tích cực tạo ra sự ủng hộ giữa toàn thể công dân Đài loan.13
Chiến thuật này về tạo ra sự ủng hộ chính trị bên trong Đài Loan đã đặc biệt rõ trong các cố gắng của QDĐ để hợp pháp hóa sự cai trị của nó qua các cuộc bầu cử địa phương. Trong 1966 chính phủ QDĐ đã sửa các quy tắc bầu cử để cho phép các cuộc bầu cử bổ sung cho các cơ quan lập pháp, trong khi các cuộc bầu cử trước đã chỉ là thủ thuật làm đẹp bề ngoài chính trị cho chế độ độc tài QDĐ. Phản ánh bản chất độc đoán của QDĐ, các cuộc bầu cử bổ sung bị hạn chế về quy mô, vì các đảng đối lập bị cấm dưới quân luật. Tuy nhiên, các ứng viên độc lập (tức là, không-QDĐ) có thể tham gia trong các cuộc tranh đua bầu cử bổ sung sau 1966.
Tuy vậy, những sự sửa đổi bầu cử của QDĐ không nên được nhầm lẫn với sự tự do hóa chính trị đích thực. Những sự thay đổi 1966 đã không phải là một sự báo trước về dân chủ hóa chính trị. Ngược lại, những cuộc bầu cử hạn chế là một công cụ được QDĐ dùng để tăng cường, không phải làm yếu, sự độc quyền của nó về quyền lực chính trị, một phần bởi việc tạo ra một hiệu ứng hào quang tích cực của việc đã “thắng” tranh đua bầu cử. Vì sự phát triển kinh tế nhanh của Đài Loan từ các năm 1950 trở đi và tính chính danh thành tích kinh tế của QDĐ, kết hợp với sự thực rằng các đảng đối lập bị cấm, khả năng của một nhà lập pháp độc lập, không-QDĐ được bàu trong các cuộc bầu cử bổ sung này đã rất thấp. QDĐ đã thắng tám trong mười một ghế trong các cuộc bầu cử bổ sung đầu tiên trong 1969. Nó cũng đã dễ dàng lướt qua các cuộc bầu cử lập pháp bổ sung 1972 và 1975, giành được 73% và 78% phiếu phổ thông một cách tương ứng, và giành được hầu hết các ghế tranh cử.
Các cuộc bầu cử lập pháp bổ sung đã không có ý định là các cuộc tranh đua tự do và công bằng, mà đúng hơn là một cơ hội cho QDĐ để củng cố quyền lực chính trị của nó qua lá phiếu. Các cuộc bầu cử hạn chế nhưng đều đặn đã cung cấp một tín hiệu rõ về sự ủng hộ của nhân dân cho chế độ. Các cuộc bầu cử địa phương cho các pháp quan và các thị trưởng cũng cung cấp một cơ chế phản hồi được thể chế hóa cho chế độ, kết nối QDĐ với các cộng đồng địa phương và kích hoạt thường lệ các chi bộ đảng địa phương của nó. Không ngạc nhiên, QDĐ đã phát triển một bộ máy chính trị mạnh khắp hòn đảo bởi vì các cuộc bầu cử này. Nó có được kinh nghiệm trong các cuộc bầu cử tranh đua, từ việc nuôi dưỡng và bổ nhiệm các ứng viên đến việc làm sâu sắc các ràng buộc bảo trợ chủ nghĩa. Nói cách khác, các cuộc bầu cử tranh đua thường xuyên đã cho đảng cầm quyền một lợi thế chiến lược và tổ chức áp đảo đối với đối lập, đến mức vào lúc một đảng đối lập chính thức xuất hiện ở Đài Loan trong các năm 1980, QDĐ đã là một đảng đã trải nghiệm và được luyện tập rồi trong việc chiến thắng các cuộc bầu cử.14