Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

Chùm thơ thế giới

Bản dịch của Nguyễn Man Nhiên

 

 

JOHN ASHBERY

 

 

NHỮNG TÁN CÂY

 

Chúng thật kỳ diệu: từng cây

Nối liền với láng giềng, như thể lời nói

Là một màn biểu diễn tĩnh lặng.

Sắp xếp một cách tình cờ

 

Để gặp nhau xa xôi vào sáng nay

Khỏi thế giới như đồng ý

Với nó, em và anh

Đột nhiên trở thành những gì mà cây nỗ lực

 

Cố nói với ta rằng chúng ta là:

Rằng sự hiện diện giản đơn của chúng

Mang một ý nghĩa nào đó; rằng chẳng bao lâu

Ta có thể chạm vào, yêu thương, giải thích.

 

Và vui mừng vì không tự mình sáng tạo

Ra vẻ đẹp này, chúng ta bị vây quanh:

Một sự im lặng đã tràn ngập tiếng ồn,

Bức tranh trên đó hiện ra

 

Một dàn hợp xướng của nụ cười, buổi sáng mùa đông.

Chìm trong ánh sáng bí ẩn, và di chuyển,

Những ngày của chúng ta khoác lên vẻ trầm lặng

Những âm điệu này dường như là sự tự vệ của riêng chúng.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Some Trees", trích trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956 của John Ashbery (1927-2017), một trong những nhà thơ Mỹ vĩ đại và có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

Trọng tâm của “Some Trees” (Những Tán Cây) là chủ đề về mối quan hệ giữa con người và bản chất của sự tồn tại. Ashbery sử dụng mô-típ cây cối như một phép ẩn dụ cho sự phức tạp của các mối liên hệ giữa con người, cho thấy rằng các cá nhân là duy nhất nhưng gắn kết với nhau bởi một số phận và sự tồn tại chung. Bài thơ là một cuộc khám phá về các mối quan hệ phức tạp của con người, tính hai mặt của cuộc sống và bản chất của sự tồn tại. Cây cối, trong bài thơ này, có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều so với hình ảnh một loài thực vật cung cấp bóng mát như chúng có? Ngôn ngữ của Ashbery để ngỏ cho việc diễn giải.

 

 

 

ROBERT HASS

 

 

BỨC TRANH XUÂN

 

Cây bạch dương điên cuồng với những điểm xanh

bìa rừng là một nửa ánh sáng chói lọi của tiếng chim hót và lá non,

và sương sớm bốc lên từ mặt đất như một làn khói mỏng.

 

Hơi thở từ vỏ cây và nấm mốc thật ngọt ngào,

những cây sồi, nghiêng mình vào trong tán lá,

thật mềm mại.

 

Đây là bìa rừng, có ánh sáng

ở rìa.

 

Bước thêm một bước nữa và bạn đã ở trong –

một luồng sáng tràn qua, một ánh lấp lánh giữ lại làn gió mát

những thân cây đầy lá.

 

Những cây sồi trắng giữ mặt trời qua một lớp màng mỏng

của màu xanh lá cây và bụi phấn hoa, mặt đất ẩm ướt điểm xuyết

tiếng chim hót và cơn buồn ngủ của cây cối.

 

Bạn có thể cảm thấy cây cối thở, thật chậm rãi.

 

Đó là phần chậm rãi của trái tim mở ra

về phía bên kia, nơi cái chết hiện hữu. Và nhịp đập của ánh sáng

ở đó thật nhẹ nhàng. Nhịp đập tinh tế, sự yên lặng

của những chiếc lá, tiếng vỗ cánh xao xác.

Mọi thứ đang rời xa; mọi thứ đang trở lại.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Spring Drawing", trích trong tập thơ Praise (1979) của Robert Hass (sinh năm 1941) – một nhà thơ Mỹ đương đại nổi tiếng, từng được vinh danh là Nhà thơ Khôi nguyên Hoa Kỳ từ năm 1995 đến năm 1997.

Bài thơ "Spring Drawing" (Bức Tranh Xuân) là một bức họa thiên nhiên tinh tế và sống động. Qua những hình ảnh giàu cảm xúc, nhà thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của khung cảnh mùa xuân mà còn thể hiện những suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa sự sống và cái chết. Bài thơ như một bản giao hưởng nhẹ nhàng về sự sống, thời gian, và vòng tuần hoàn bất tận của thiên nhiên.

 

 

 

ALLEN GINSBERG

 

 

KHI ÁNH SÁNG XUẤT HIỆN

 

Bạn sẽ phơi bày xương cốt của mình, bạn sẽ lớn lên, bạn sẽ cầu nguyện, bạn sẽ chỉ biết

Khi ánh sáng xuất hiện, chàng trai ơi, khi ánh sáng xuất hiện

Bạn sẽ hát và bạn sẽ yêu, bạn sẽ ca ngợi bầu trời xanh trên cao

Khi ánh sáng xuất hiện, chàng trai ơi, khi ánh sáng xuất hiện

Bạn sẽ rên rỉ và bạn sẽ khóc, bạn sẽ đau ốm và thở dài

Bạn sẽ ngủ và bạn sẽ mơ, bạn sẽ chỉ hiểu những gì mình muốn nói

Khi ánh sáng xuất hiện, chàng trai ơi, khi ánh sáng xuất hiện

Bạn sẽ đến và bạn sẽ đi, bạn sẽ lang thang đây đó

Bạn sẽ về nhà trong tuyệt vọng và tự hỏi tại sao mình quan tâm

Bạn sẽ lắp bắp và nói dối, bạn sẽ hỏi mọi người tại sao

Bạn sẽ ho và bạn sẽ nhăn nhó, bạn sẽ đá ngón chân đau đớn vì bệnh gút

Bạn sẽ nhảy, bạn sẽ la hét, bạn sẽ đánh đuổi bạn bè của mình

Bạn sẽ la hét và phủ nhận, tuyên bố rằng mắt mình khô

Bạn sẽ lăn lộn và lắc lư, bạn sẽ khoe của quý to cứng của mình

Bạn sẽ yêu và bạn sẽ buồn, và một ngày nào đó bạn sẽ tin tưởng

Khi bạn huýt sáo và mỉm cười, Chúa đã tạo ra bạn xứng đáng

Bạn sẽ thuyết giảng và tự hào trên bục giảng

Lén lút và lướt qua sân khấu như dòng sông khi thủy triều lên

Bạn sẽ đến nhanh hoặc đến chậm, nhưng vẫn sẽ không bao giờ biết

Khi ánh sáng xuất hiện, chàng trai ơi, khi ánh sáng xuất hiện

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "When The Light Appears", trích trong tập "Collected Poems 1947-1980" xuất bản năm 1984, của nhà thơ người Mỹ Allen Ginsberg (1926-1997), một trong những thủ lĩnh của thế hệ Beat và phong trào văn hóa phản kháng của giới trẻ Mỹ ở thập niên 1960.

"When The Light Appears" (Khi Ánh Sáng Xuất Hiện) của Allen Ginsberg là một bài thơ mạnh mẽ, sâu sắc và đầy cảm hứng, nói lên mong muốn của con người về sự phát triển tâm linh và giác ngộ.

Trong bài thơ, Ginsberg sử dụng một số biểu tượng để truyền tải thông điệp của mình. Một trong những biểu tượng quan trọng nhất là ánh sáng. Ánh sáng có thể tượng trưng cho chân lý hoặc kiến ​​thức. Trong suốt bài thơ, tác giả mô tả những trải nghiệm của mình về ánh sáng mà ông liên tưởng đến sự giác ngộ và siêu việt. Ánh sáng là biểu tượng của sự thức tỉnh, ngọn hải đăng dẫn dắt đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về thực tại.

Việc sử dụng phong cách đàm thoại cho phép Ginsberg khám phá những ý tưởng triết học phức tạp theo giọng điệu thoải mái, phóng khoáng. Cụm từ tiêu đề "khi ánh sáng xuất hiện" được lặp lại trong suốt bài thơ, với giọng điệu đầy nhiệt huyết và mãnh liệt. Cảm giác về sự kết nối là minh chứng cho niềm tin của Ginsberg vào sức mạnh của sự kết nối giữa con người và là lời nhắc nhở rằng tất cả chúng ta đều cùng nhau thực hiện hành trình này.

 

 

 

SYLVIA PLATH

 

 

TẤM GƯƠNG

 

Tôi là bạc và chính xác. Tôi không có định kiến.

Bất cứ điều gì tôi thấy, tôi nuốt ngay lập tức

Cứ như vậy, không bị mờ đi bởi yêu thương hay ghét bỏ.

Tôi không tàn nhẫn, chỉ trung thực,

Mắt của một vị thần nhỏ, bốn góc.

Phần lớn thời gian tôi thiền định trước bức tường đối diện.

Nó màu hồng, có đốm. Tôi đã nhìn nó lâu đến nỗi

Tôi nghĩ nó là một phần của trái tim tôi. Nhưng nó nhấp nháy.

Những khuôn mặt và bóng tối liên tục chia cắt chúng ta.

 

Bây giờ tôi là một hồ nước. Một người phụ nữ cúi xuống tôi,

Tìm kiếm trong lòng tay tôi để xem nàng thực sự là gì.

Rồi nàng quay sang những kẻ nói dối, những ngọn nến hoặc mặt trăng.

Tôi nhìn thấy lưng nàng, và phản chiếu nó một cách trung thành.

Nàng đền đáp tôi bằng những giọt nước mắt và sự rung động của đôi tay.

Tôi quan trọng đối với nàng. Nàng đến rồi đi.

Mỗi sáng, khuôn mặt nàng thay thế bóng tối.

Trong tôi, nàng đã nhấn chìm cô gái trẻ, và trong tôi là một bà già

Ngày này qua ngày khác, nó tiến về phía nàng, như một con cá khủng khiếp.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Mirror" (1961) của Sylvia Plath (1932–1963), một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Mỹ.

"Mirror" (Tấm Gương) của Sylvia Plath là một bài thơ mang tính tự truyện. Đây là thời điểm căng thẳng đối với Plath. Lần đầu làm mẹ, nhà thơ đang trên con đường thực hiện tình yêu của mình với người bạn đời, nhưng sâu thẳm bên trong, bà sợ hãi ý tưởng già đi và ổn định cuộc sống.

Chủ đề chính của bài thơ là sự tự phản chiếu, một cuộc khám phá về bản ngã không chắc chắn. Bài thơ thể hiện bản chất hỗn loạn của bản sắc, trình bày tấm gương như một người quan sát vô tư phản ánh sự thật mà không phán xét. Plath chuyển trọng tâm từ những trải nghiệm cá nhân sang một thực thể bên ngoài, xem xét tác động của nhận thức lên hình ảnh bản thân. Bằng ngôn ngữ mạnh mẽ, hình ảnh sắc nét và âm điệu u ám, cùng với cú pháp khác thường, "Tấm Gương" là một bài thơ có chiều sâu, khám phá về các bản sắc rời rạc và đa dạng, phản ánh những thay đổi và bất ổn của xã hội thời hiện đại.

 

 

 

JEAN TOOMER

 

 

MÔI EM LÀ DÂY ĐỒNG

 

lời thì thầm của những quả cầu vàng

lấp lánh trên cột đèn đung đưa

như kẻ say xỉn trong sương mù

 

hãy để hơi thở của em ẩm ướt trên da anh

như những hạt cườm tỏa sáng trên quả cầu vàng

 

gọi điện đến nhà máy điện

rằng đường dây chính đã được cách điện

 

(lời em du dương lên xuống

những hành lang đẫm sương của bảng quảng cáo)

 

rồi dùng lưỡi em gỡ băng dính

và áp môi em lên môi anh

cho đến khi chúng nóng rực

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Her Lips Are Copper Wire", trích từ tập "Cane" (1923) của nhà thơ, nhà viết kịch và tiểu thuyết gia quan trọng trong nền văn học Mỹ gốc Phi, Jean Toomer (1894-1967).

"Her Lips Are Copper Wire" (Môi Em Là Dây Đồng) của Jean Toomer là một bài thơ gợi cảm, khám phá các chủ đề về ham muốn, giao tiếp, kết nối, chủng tộc và văn hóa. Bài thơ đáng chú ý vì sử dụng hình ảnh công nghiệp, tạo ra cảm giác hiện đại. Sự kết hợp giữa các yếu tố đô thị với sự gợi cảm thô sơ của ngôn ngữ tạo nên sự căng thẳng độc đáo và hấp dẫn.

 

 

 

AMY LOWELL

 

 

MỘT QUÝ BÀ

 

Em đẹp và phai nhạt

Như một giai điệu opera cũ

Chơi trên cây đàn harpsichord;

Hoặc như tấm lụa ngập tràn ánh nắng

Của một phòng ngủ thế kỷ mười tám.

Trong đôi mắt em

Ngọn lửa hoa hồng tàn lụi của những khoảnh khắc đã qua,

Và hương thơm tâm hồn em

Mơ hồ và lan tỏa,

Mang theo vị cay nồng những lọ gia vị được niêm phong.

Những bán âm của em mê hoặc tôi,

Và tôi phát điên khi nhìn

Vào những màu sắc hòa quyện của em.

 

Sức sống của tôi như đồng xu mới đúc,

Ném dưới chân em.

Hãy nhặt lên từ bụi đường,

Để ánh sáng lấp lánh của nó có thể làm em vui thích.

 

* Opera là một loại hình nhạc kịch đi liền với âm nhạc cổ điển phương Tây, bắt đầu xuất hiện và phổ biến từ thế kỷ 17.

** Harpsichord (tiếng Pháp: clavecin) là một nhạc cụ bộ dây phím cổ, được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ Phục hưng và thời kỳ âm nhạc Baroque.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "A Lady" (1914) của nữ thi sĩ người Mỹ theo chủ nghĩa hình tượng Amy Lowell (1874-1925).

Trong bài thơ “The Lady" (Một Quý Bà), Amy Lowell sử dụng phép ẩn dụ, tượng trưng và so sánh để truyền tải bản chất chủ quan của cái đẹp.Ý nghĩa ngụ ý trong bài thơ là một người phụ nữ lớn tuổi, mặc dù đã già, nhưng vẫn giữ được tinh thần và vẻ đẹp tươi tắn. Được miêu tả thông qua hình ảnh phong phú và mâu thuẫn, "quý bà" là một nghịch lý của sự thanh lịch phai nhạt và sức mạnh tiềm ẩn.

 

 

 

ROBERT HASS

 

 

SO SÁNH ANH HÙNG

 

Khi người kiếm sĩ ngã xuống trong phim Bảy Samurai của Kurosawa

dưới cơn mưa xám xịt,

trong màn ảnh rộng và triều đại Tokugawa,

anh ngã thẳng như một cây thông, anh ngã

như Ajax * đã ngã trong sử thi của Homer

trong nhịp điệu tụng ca và cây lớn đến mức

người tiều phu đã quay lại nơi may mắn đó trong hai ngày

để cưa cho xong

và vào ngày thứ ba, ông dẫn theo chú mình.

 

Họ chất đống gỗ trong không khí đầy nhựa thơm,

chặt những cành nhỏ,

cột từng bó riêng biệt.

Những tấm gỗ gần gốc

được cắt làm tư nhưng vẫn to cồng kềnh;

những khúc gỗ từ giữa thân cây được cưa đôi:

mười bó và bốn đống gỗ thơm lớn,

hình mặt trăng, lưỡi liềm và bán nguyệt

có răng cưa.

 

Người tiều phu và ông chú già

đứng giữa rừng

trên nền đất phủ vụn thông và bùn suối.

Họ dừng tay

vì mệt và vì

tôi không tưởng tượng ra được một con vật thồ hàng

hay chiếc xe thô sơ nào. Họ quá khôn ngoan

để gọi hàng xóm đến và trở về

với vài khúc gỗ sau ba ngày làm việc.

Họ đang chờ tôi làm điều gì đó

hoặc đợi người giám sát của Đại Lãnh chúa

đến bắt họ.

 

Họ kiên nhẫn làm sao!

Ông già hút thuốc và nhổ nước bọt.

Người trai trẻ nghĩ rằng anh sẽ giàu có

nếu anh đã giàu sẵn và có một con la.

Mười ngày kéo gỗ

và vào ngày thứ bảy họ có thể

sẽ bị bắt, về nhà tay không

hoặc tệ hơn. Tôi không biết

liệu họ là người Nhật hay người Mycenae

và tôi không thể làm gì được.

Con đường từ đây tới ngôi làng đó

không được dịch. Một anh hùng, khi chết,

lan tỏa sự tĩnh lặng vào không khí.

Một người đàn ông và một người phụ nữ bước ra khỏi rạp chiếu phim

trở về nhà trong im lặng của những lòng trung thành riêng rẽ.

Có những giới hạn cho trí tưởng tượng.

 

* Ajax, thường được gọi là "Ajax Vĩ Đại", là một vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp. Ông đóng vai trò quan trọng trong sử thi Iliad của Homer, và trong Cycle, một tập sử thi viết về cuộc chiến thành Troy.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Heroic Simile", trích trong thi tập "Praise" (1979) của Robert Hass (sinh năm 1941) – một nhà thơ Mỹ đương đại nổi tiếng, từng được vinh danh là Nhà thơ Khôi nguyên Hoa Kỳ từ năm 1995 đến năm 1997.

Trong bài thơ "Heroic Simile" (So sánh Anh hùng), Robert Hass đã lấy cảm hứng từ những khoảnh khắc anh hùng trong các sử thi cổ điển và hiện đại để tìm ra sự vĩ đại trong cuộc sống của một người thợ rừng bình thường. Mặc dù bài thơ có nội dung đơn giản, nhưng cách sử dụng ngôn ngữ của Hass vẫn mang một vẻ đẹp với những hình ảnh miêu tả thiên nhiên mạnh mẽ, tinh tế và suy tư về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

 

 

 

JOHN ASHBERY

 

 

THỨC TỈNH

 

Một chút rượu vang trắng bất nhã, vài thiên thần rải rác,

những hồi ức về sự Sa Ngã – nói cho tôi nghe,

ai đã từng tạo ra một biểu tượng mềm mại hơn, xua đuổi

ít quỷ hơn ra khỏi bãi đậu xe

nơi chúng ta cùng nắm tay nhau?

Dần dần, ý tưởng về con đường chân chính trở lại với tôi.

Tôi đã rất cảm động trước sự quan tâm của bạn,

đến mức chỉ còn lại những lời bào chữa nịnh nọt.

Mọi thứ đều sạch sẽ trong ngôi nhà nhỏ của khát vọng chúng ta,

đồng hồ kêu tích tắc mãi, hạnh phúc vì

được làm học trò của vĩnh cửu. Một điệu nhảy gavotte* của những hạt bụi

đến thay thế tầm nhìn của tôi. Mọi thứ như thể

đã xảy ra từ lâu lắm

trong những trang báo hài hước màu đào cổ xưa

nơi luật pháp về sự đối lập thực sự được ban hành

một cách hờ hững. Rồi cuốn sách tự mở ra

và đọc cho chúng ta nghe: “Các người là lũ dối trá,

dĩ nhiên bị cám dỗ bởi ngã ba đường, nhưng ta thích từng người

trong các ngươi với một sức mạnh màu ngọc bích đặc biệt.

Nhìn xem, đây là nơi ta thất bại lúc đầu.

Thân chủ rời đi. Lịch sử mãi tiếp diễn

lăn dài lơ đãng trên những bờ biển này. Mỗi ngày, bình minh

tụ lại như một ngôi sao rất lớn, không nướng bánh mì,

đi giày cho những kẻ bất tín. Thật tiện nếu đó là một giấc mơ.”

Trong toa xe ngủ tiếp theo là sự điên rồ.

Một sự uể oải cấp bách tự xếp đặt

đến tận chân trời viền bắp cải. Và nếu tôi đặt một chút

bản thân mình vào thời điểm này, bịt chặt thứ rượu mạnh là

những trao đổi trốn học của chính chúng ta, khua khoắng ý định của mình

một lần thôi? Nhưng chỉ có tôi

rút ra được điều gì đó từ ký ức này.

Một chú lùn tốt bụng

của nỗi sợ từng ngồi trên bảng điều khiển, nhưng chúng ta đều đã được chỉ dẫn

phớt lờ các điều kiện của cuộc săn đuổi. Ở đây, nó

dường như trở nên nhẹ nhàng hơn sau mỗi thế kỷ trôi qua. Bất kể bạn xoay nó thế nào,

cuộc sống vẫn đông cứng trong ánh đèn pha.

Thật buồn cười, không ai trong chúng ta nghe thấy tiếng gầm.

 

* Gavotte: là một điệu nhảy dân gian Pháp, phổ biến từ cuối thế kỷ 16.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Wakefulness", trích trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1998, của John Ashbery (1927-2017) – một trong những nhà thơ Mỹ vĩ đại và có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

Bài thơ "Wakefulness" (Thức Tỉnh) của John Ashbery là một tác phẩm phức tạp, giàu ý tưởng và ngôn từ, thể hiện phong cách đặc trưng của nhà thơ với những hình ảnh trừu tượng, cách diễn đạt không tuân theo cấu trúc logic thông thường, và sự xen lẫn giữa các dòng suy tưởng. Nhan đề "Thức Tỉnh" ám chỉ một trạng thái tâm thức đặc biệt, khi con người nhận thức rõ về thế giới xung quanh và cả bên trong mình. Trạng thái này có thể là sự tỉnh táo hoặc là một sự thức tỉnh tinh thần, nơi người ta có thể nhìn thấy những sự thật sâu kín mà bình thường dễ bị bỏ qua. Bài thơ đầy sức gợi mở và truy vấn, khiến người đọc phải tự tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi về cuộc sống, sự tồn tại và ý nghĩa của mọi thứ xung quanh.

 

 

 

SYLVIA PLATH

 

 

ẨN DỤ

 

Tôi là một câu đố với chín âm tiết,

Một con voi, một ngôi nhà nặng nhọc,

Một quả dưa đi dạo trên hai nhánh dây leo.

Ôi trái đỏ, ngà voi, gỗ quý!

Ổ bánh mì to với men đang nở.

Tiền mới đúc trong chiếc ví béo bở này.

Tôi là một phương tiện, một sân khấu, một con bò cái mang thai.

Tôi đã ăn một túi táo xanh,

Lên tàu rồi, không cách xuống.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Metaphors" (1960) của Sylvia Plath (1932-1963), một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Mỹ.

Bài thơ "Metaphors" (Ẩn Dụ) của Sylvia Plath là một tác phẩm đầy chất tự truyện, kết hợp tinh tế giữa ngôn từ và hình ảnh để miêu tả trạng thái thai nghén của người phụ nữ, với sự pha trộn giữa niềm vui, nỗi lo lắng và sự khó chịu. Plath đã sử dụng những hình ảnh mạnh mẽ và phép ẩn dụ đầy sáng tạo để lột tả cảm xúc và trạng thái tâm lý phức tạp của chính mình trong giai đoạn này, xem xét tính thẩm mỹ, tác động và ý nghĩa của thiên chức làm mẹ.

 

 

 

JOHN ASHBERY

 

 

BÀI THƠ NĂM MỚI

 

Một lần, trên mặt nước dưới ánh hoàng hôn trong trẻo đầu thế kỷ mười chín,

em đã cầu xin thời gian ngừng trôi. Nếu những ước nguyện có thể sinh ra nhiều hơn tiếng nấc,

thì đó cũng là điều ước của anh dành cho em, người yêu dấu, thiên thần của anh. Nhưng những

nguyên tắc khác lại chiếm ưu thế trong thiên đường u ám này, phải không? Nếu đó chính là nó.

 

Rồi gió tự nhiên lặng dần.

Chúng ta bước ra và nhận thấy điều đó thực sự đã xảy ra.

Mùa đứng im, cảnh giác. Không biết sao giọt sương

đọng trên gai yên tĩnh thế. Anh đến đây,

chu toàn và thanh thản, nhưng vẫn cứ thất lạc mọi thứ.

 

Anh tự hỏi về nước Úc. Có gì giống với Gia Nã Đại không?

Bồ câu có bay lượn không? Có sự kỳ lạ nào ở đó, để hoàn thiện

sự kỳ lạ trong anh? Hay anh phải học lại cách lưu giữ?

Liệu ta có thể tin tưởng vào người khác sẽ buộc tội mình

những người chỉ nhìn thấy ta vào giờ cao điểm tối,

và không bao giờ dừng lại để suy nghĩ? Ồ, có lần anh đã tỏa sáng vì em,

con chim hót của anh. Giờ đây, những cây lau sậy bị thiêu đốt

trong đầm lầy băng giá là tất cả những gì anh dành thời gian tới.

Những ngày tháng thật phân cực. Nhưng chính thời gian cũng chệch hướng.

Ít nhất đó là cảm giác của anh.

 

Anh biết điều đó rõ như những con phố trong bản đồ thành phố công nghiệp tưởng tượng của mình. Nhưng nó có cách riêng để trôi qua.

Không bao giờ có sự trọn vẹn nào;

em đã đứng xếp hàng chờ đợi để mua đồ, và ánh sáng nhuốm màu kia

vẫn không hối lỗi. "Gai góc" là một tính từ xuất hiện trong đầu anh,

nhưng với tất cả những tầng bậc cao hay thấp, anh đến gần con kênh này.

Thời gian vào đúng mùa đông. Khói thuốc tẩu

trong các quán cà phê, và bên ngoài, con chim lớn màu xám tro

bay ra từ những cửa sổ trưng bày gắn chữ, cách đó một khoảng

và chờ đợi. Một cơ hội khác. Điều đó chưa bao giờ trở thành cử chỉ.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Poem At The New Year" (1992) của nhà thơ nổi tiếng John Ashbery (1927-2017), một trong những nhà thơ Mỹ vĩ đại và có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

Bài thơ "Poem At The New Year" (Bài Thơ Năm Mới) của John Ashbery phản ánh về sự trôi qua của thời gian và sự mất mát của tuổi trẻ. Hình ảnh của bài thơ vừa gợi cảm vừa khó hiểu, tạo nên bầu không khí siêu thực và ám ảnh, thể hiện cảm giác lạc lõng, mất mát và hối tiếc của nhân vật. Lời cầu xin" thời gian hãy ngừng trôi" đối diện với thực tế là cuối cùng mọi thứ “đều có cách riêng để trôi qua”. Hình ảnh “con chim lớn màu xám tro bay ra” ở cuối bài thơ dường như gợi ý về một khởi đầu mới, nơi chúng ta có “một cơ hội khác”, một cơ hội để trỗi dậy, giống như phượng hoàng, từ đống tro tàn và bắt đầu lại.

 

 

 

AMY LOWELL

 

 

LỜI XIN LỖI

 

Xin đừng giận em vì em mang

màu sắc của anh khắp mọi nơi,

Khắp các con phố đông đúc,

Và gặp

Ánh sáng kỳ diệu trong mỗi đôi mắt,

Khi em đi qua.

 

Từng người bộ hành nặng nề ngước lên nhìn,

Lớp sương mù cầu vồng che mắt,

Chất liệu của hạnh phúc,

Không kém cạnh,

Bao bọc em trong những nếp gấp màu sắc vui tươi

Những con công vàng rực.

 

Trước chân em là con đường gồ ghề, bụi bặm

Lấp lánh dưới màu xám.

Bước chân em ngập trong ánh sáng,

Thật sáng,

Dường như vô số mặt trời đang tỏa sáng

Quanh thị trấn.

 

Xung quanh em là tiếng chuông tháp,

Và mùi hương thơm ngát

Treo lơ lửng như đám mây bị gió lãng quên,

Và che phủ

Em khỏi sự tiếp xúc gần gũi với thế giới.

Em sống trong sự giam cầm.

 

Anh trang điểm cho em bằng những dây chuyền nạm ngọc.

Một tinh vân rực lửa

Viền quanh cuộc đời em. Và rồi

Anh đặt

Lời nói lên em, chưa thú nhận

Để không ai đoán được.

 

Nguồn: Nguyễn Man Nhiên dịch từ nguyên tác Anh ngữ bài thơ "Apology", trích trong tập "Sword Blades and Poppy Seed" (1914), của nữ thi sĩ người Mỹ theo chủ nghĩa hình tượng Amy Lowell (1874-1925).

Bài thơ "Apology" (Lời Xin Lỗi) của Amy Lowell thể hiện niềm vui và sự tự tin của phái nữ khi thể hiện cảm xúc một cách cởi mở, bất chấp những lời chỉ trích tiềm ẩn từ người khác. Bài thơ phản ánh bối cảnh và cảm xúc đang thay đổi ở đầu thế kỷ 20, khi các cá nhân được khuyến khích thể hiện bản thân một cách tự do hơn trong khi vẫn phải vật lộn với những kỳ vọng của xã hội.

 

This image has an empty alt attribute; its file name is image-24.png

Summer Sparkle của Holly Van Hart