Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2024

Cái chết (4)

 Truyện James Joyce

Trịnh Y Thư chuyển ngữ từ ấn bản Dubliners, NXB Alfred A. Knoff, 1991

Trời vẫn chưa sáng hẳn. Ánh sáng vàng vọt buồn tẻ bao phủ lên những ngôi nhà và dòng sông; bầu trời hình như hạ thấp xuống. Dưới chân bùn nhão nhoẹt; chỉ có những mảng tuyết trắng bám trên mái nhà, trên bờ kè bến cảng. Những ngọn đèn đường vẫn cháy lù mù trong bầu không khí u ám và bên kia sông, cung điện Four Courts vươn lên giữa nền trời nằng nặng như mang vẻ gì đầy đe dọa.


Cô đi trước anh, song hàng với ông Bartell D’Arcy, đôi giày bọc trong chiếc túi màu nâu kẹp dưới nách, hai tay giữ cho chiếc váy không lấm bùn. Dáng điệu cô không còn nét duyên dáng như lúc ở trong nhà, nhưng đôi mắt Gabriel vẫn sáng ngời hạnh phúc. Máu chảy mạnh trong huyết quản anh; những suy nghĩ náo loạn trong trí não anh, hãnh diện, vui tươi, dịu dàng, dũng cảm.
Cô nhẹ nhàng bước đi trước mặt anh, dáng người thon cao đến nỗi anh như muốn chạy theo cô mà không gây tiếng động nào chỉ để nắm vai cô và nói điều gì đó vừa ngốc nghếch vừa trìu mến vào tai cô. Trông cô có vẻ yếu đuối làm sao, anh cảm thấy nỗi khao khát được ôm ấp vỗ về cô trước điều gì đó hung hiểm chỉ để sau đó ở một mình với cô. Những khoảnh khắc bí mật trong cuộc sống chung bao năm qua bỗng hiện về như những vì sao trong ký ức anh. Một chiếc phong bì trên có hình hoa hướng dương nằm bên cạnh tách trà buổi sớm và anh lấy tay vuốt ve nó. Những con chim hót líu lo trong đám thường xuân và tấm rèm cửa chợp chờn ánh nắng lung linh dọc theo sàn nhà: anh không thể nuốt trôi bữa ăn vì niềm sung sướng làm anh nghẹn. Họ đứng trên một sân ga đông người và anh đặt tấm vé tàu vào găng tay ấm áp của cô. Anh đứng cạnh cô trong giá lạnh, nhìn qua khung cửa sổ lưới sắt thấy một người đàn ông đang làm chai lọ trong một cái lò lửa bốc bừng bừng. Trời rất lạnh. Khuôn mặt cô thơm ngát trong làn không khí buốt giá, khá gần với anh; và đột nhiên anh hỏi người đàn ông bên lò lửa:
“Lửa có nóng lắm không, thưa ông?”
Nhưng người đàn ông không nghe anh hỏi vì tiếng kêu lùng bùng của lò lửa. Nhưng tốt thôi vì nếu trả lời, có lẽ ông ta chỉ có thể buông ra những lời lẽ thô lỗ, cục cằn.
Nỗi vui dịu dàng như con sóng miên man tỏa ra từ trái tim anh chảy thành dòng nước ấm theo các động mạch trong cơ thể anh. Giống như ngọn lửa êm dịu của những vì sao, những khoảnh khắc của cuộc đời họ bên nhau, mà không ai biết hoặc có thể chẳng bao giờ biết đến, bùng lên soi sáng ký ức anh. Anh khao khát được gợi nhớ cho cô thấy lại những khoảnh khắc đó, cho cô quên đi những năm tháng buồn tẻ của cuộc sống và chỉ nhớ đến những khoảnh khắc vui sướng tươi đẹp. Anh cảm thấy bao năm qua rồi mà tâm hồn hai người vẫn chưa bị dập tắt. Con cái, công việc viết lách của anh, công việc chăm sóc gia đình của cô đều không dập tắt được ngọn lửa dịu dàng trong tâm hồn họ. Trong một lá thư viết cho cô dạo đó, anh viết: “Tại sao những câu chữ như thế này đối với anh có vẻ tẻ nhạt và lạnh lùng đến thế? Có phải vì không có từ nào đủ dịu dàng để gọi tên em?”
Giống như một điệu nhạc nghe từ khoảng cách xa xôi, những lời anh viết nhiều năm trước từ quá khứ quay về với anh. Anh khao khát được ở một mình với cô. Khi không còn ai xung quanh họ nữa, khi chỉ còn anh và cô trong phòng khách sạn, khi chỉ có hai người với nhau, anh sẽ cất tiếng dịu dàng gọi cô:
“Gretta!”
Có lẽ cô không nghe anh gọi ngay lúc đó: cô đang cởi quần áo. Rồi có điều gì đó trong giọng nói anh khiến cô phải quay lại nhìn anh…
Ở góc phố Winetavern họ gặp một chiếc xe ngựa. Anh mừng vì tiếng bánh xe lăn trên mặt đường đã cứu anh khỏi những suy nghĩ bất an ấy. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ có vẻ mệt mỏi. Những người khác chỉ nói vài lời vu vơ, tay chỉ trỏ vào một tòa nhà hoặc con phố nào đó. Con ngựa chạy đều dưới bầu trời buổi sáng âm u, kéo chiếc xe cũ kỹ chạy lạch cạch, và Gabriel lại thấy mình ngồi với cô trên một chiếc xe ngựa phóng nhanh để bắt kịp chiếc tàu sắp ra khơi, phóng nhanh để đến nơi tuần trăng mật của họ.
Khi chiếc xe ngựa chạy qua cầu O’Connell, cô O’Callaghan nói:
“Người ta bảo rằng bạn không bao giờ băng qua cầu O’Connell mà không trông thấy một con ngựa trắng.”
“Lần này tôi thấy một người trắng,” Gabriel nói.
“Đâu?” ông Bartell D’Arcy hỏi.
Gabriel chỉ lên bức tượng, trên đó có những mảng tuyết bám. Rồi anh gật đầu vẫy tay chào một cách thân thiện.
“Chào Dan nhé,” anh vui vẻ nói.
Chiếc xe đỗ trước khách sạn, Gabriel nhảy ra ngoài và trả tiền cho người đánh xe, bất chấp sự phản đối của ông Bartell D’Arcy. Anh giúi thêm cho ông ta một shilling. Người đàn ông chào, nói:
“Thưa ngài, chúc ngài một năm mới thịnh vượng.”
“Ông cũng vậy, nhé.” Gabriel thân mật nói.
Lúc ra khỏi xe và đứng bên lề đường chào tạm biệt những người bạn còn ngồi trong xe, cô tựa người vào cánh tay anh, nhẹ nhàng như lúc cô khiêu vũ với anh vài giờ trước đó. Lúc đó anh cảm thấy tự hào và hạnh phúc, hạnh phúc vì cô là của anh, tự hào về nét đẹp duyên dáng và dáng vẻ một người vợ của cô. Nhưng bây giờ, sau bao ký ức nhen nhúm trở về, sự va chạm thể xác, đầy thơ mộng, lạ lùng và quyến rũ, truyền vào anh nỗi khao khát mãnh liệt. Với sự im lặng như chờ đợi của cô, anh kéo sát cánh tay cô vào người anh; và khi họ đứng trước cửa ra vào khách sạn, anh có cảm tưởng như anh và cô đang bỏ trốn cuộc sống và nhiệm vụ của mình, trốn nhà cửa, trốn bạn bè, cùng nhau đi trốn với trái tim hoang dại và rạng rỡ trong một cuộc phiêu lưu mới.
Một ông già đang ngồi ngủ gật trên chiếc ghế lớn trong gian sảnh khách sạn. Ông ta vào văn phòng thắp một ngọn nến rồi đi ra dẫn lối họ lên cầu thang. Hai người im lặng đi theo ông ta, tiếng chân họ giẵm nhẹ trên lớp thảm dày lót cầu thang. Cô bước sau ông già, đầu cô hơi cúi xuống lúc đi lên, đôi vai mảnh khảnh gù xuống như gánh một gánh nặng, chiếc váy bó chặt quanh người. Anh lẽ ra có thể quàng tay quanh hông cô và giữ cô đứng yên, vì cánh tay anh đang run rẩy với thèm khát muốn ôm chặt cô vào lòng, và chỉ có cái bấm của móng tay vào lòng bàn tay mới kềm chế được sự thôi thúc hoang dại trong cơ thể anh. Ông già xách hành lý dừng lại trên cầu thang vì ngọn nến như muốn tắt. Hai người cũng dừng lại ở bậc thang bên dưới. Trong im lặng, Gabriel có thể nghe thấy tiếng sáp nóng chảy từng giọt xuống chân nến và tiếng tim anh đập thình thịch vào cạnh sườn.
Ông già lại tiếp tục dẫn họ bước dọc theo hành lang và mở một cánh cửa. Trong phòng, ông đặt ngọn nến xuống bàn rửa mặt và hỏi họ muốn dậy lúc mấy giờ để ông đánh thức.
“Tám giờ,” Gabriel trả lời.
Ông già chỉ tay vào nút mở đèn, miệng ông lẩm bẩm vài lời xin lỗi, nhưng Gabriel cắt ngang.
“Chúng tôi không cần ánh sáng. Ánh sáng từ đường phố hắt vào là quá đủ rồi,” anh nói thêm, tay chỉ vào cây nến, “ông có thể lấy đi món đồ đẹp đẽ này.”
 Ông cầm lên cây nến, động tác thật chậm chạp, vì ông hơi ngạc nhiên trước một yêu cầu khá lạ lùng như vậy. Sau đó, ông lẩm bẩm chúc hai người ngủ ngon rồi đi ra ngoài. Gabriel vặn ổ khóa.
Ánh sáng từ đèn đường chiếu vào phòng làm thành một vệt dài từ cửa sổ đến cửa ra vào. Gabriel ném áo choàng và mũ lên ghế rồi bước về phía cửa sổ. Anh nhìn xuống đường cố dằn cho cảm xúc sôi sục trong lòng lắng dịu xuống. Sau đó anh quay lại đứng dựa vào chiếc tủ, quay lưng về phía ánh sáng. Cô đã cởi mũ và áo choàng, đứng trước một tấm gương xoay lớn tháo dây thắt lưng. Sau một lúc im lặng, Gabriel nhìn cô rồi nói:
“Gretta!”
Cô chậm chạp xoay người theo vệt sáng trên sàn đi về phía anh. Khuôn mặt cô trông buồn bã và mệt mỏi đến độ Gabriel không thể thốt khỏi miệng câu nào. Không, chưa phải lúc, chưa phải lúc cho anh thổ lộ tâm can nung nấu của mình.
“Trông em có vẻ mệt mỏi,” anh bảo cô.
“Vâng, em hơi mệt,” cô trả lời anh.
“Em có thấy không khỏe trong người không?”
“Không, chỉ mệt, thế thôi.”
Cô tới cửa sổ đứng nhìn ra ngoài. Gabriel lại ngập ngừng và anh e rằng sự thiếu tự tin lại sắp kềm chế lòng mình, anh đột ngột bảo cô:
“Gretta! Nhân tiện…”
“Chuyện gì vậy, anh?”
“Em biết không, cái anh chàng Malins tội nghiệp.”
“Sao cơ?”
“Ừm, anh chàng tội nghiệp, dù sao anh ta cũng là người đàng hoàng,” Gabriel tiếp tục nói bằng giọng hết sức giả tạo như diễn kịch. “Anh ta trả lại anh số tiền anh cho vay, thật tình, anh đã quên bẵng chuyện món nợ. Đáng tiếc anh ta không lánh xa được cái lão Browne, bởi vì thật tình mà nói anh ta không phải là người xấu.”
Bây giờ cảm giác bực bội trong lòng dâng lên ngùn ngụt khiến anh như run lên. Tại sao cô lại tỏ ra thờ ơ đến thế? Anh không biết phải bắt đầu như thế nào. Cô có đang khó chịu về điều gì đó không? Chỉ cần cô tự ý quay sang ngả vào vòng tay anh, anh sẽ sung sướng biết bao! Để chiếm đoạt cô ngay lúc này thì thật là tàn bạo. Không, trước tiên anh phải nhìn thấy chút nhiệt tình nào đó trong ánh mắt cô. Anh khao khát muốn khơi gợi tâm trạng kỳ lạ này trong cô.
“Anh cho ông Malais mượn tiền khi nào vậy?” cô hỏi sau một lúc im lặng.
Gabriel cố dằn lòng để không phải thốt lên những lời lẽ thô bạo về gã Malins suốt ngày say sưa và món tiền anh cho vay. Anh khao khát được trút tâm sự từ tận đáy tâm hồn mình với cô, anh thèm được ép sát cơ thể cô vào người anh, để chiếm đoạt cô. Nhưng anh nói:
“Ồ, vào dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái, lúc anh ta mở cái cửa hàng nhỏ bán thiệp Giáng Sinh trên phố Henry.”
Anh phát điên lên vì tức giận với chính anh, và lòng ham muốn dâng cao đến nỗi anh không nghe tiếng chân cô bước đến gần. Cô đến đứng trước mặt anh một lúc, nhìn anh một cách khá kỳ lạ, rồi đột nhiên kiễng chân lên đặt nhẹ hai tay lên vai anh, và hôn anh.
“Anh là một người rất hào hiệp, Gabriel ạ,” cô nói.
Gabriel run rẩy vì sung sướng với nụ hôn bất ngờ của cô, cách nói của cô cũng là lạ, anh đưa tay lên mái tóc cô rồi vuốt nhè nhẹ ra đằng sau. Tóc cô mịn màng và sáng bóng nhờ được chải gội kỹ. Lòng anh ngập tràn hạnh phúc. Ngay lúc anh đang chờ đợi, mong muốn điều đó thì cô tự ý đến với anh. Có lẽ ý nghĩ cô chạy kịp theo anh rồi chăng? Có lẽ cô đã cảm nhận được sự khao khát mãnh liệt trong anh, và rồi tâm trạng trìu mến hiến dâng đã ập đến với cô, và cô ngả vào anh một cách dễ dàng như vậy. Anh tự trách thầm tại sao mình phải rụt rè, e ngại đến vậy.
Anh ôm đầu cô giữa hai bàn tay mình. Sau đó nhanh chóng vòng một tay quanh người cô và kéo về phía mình, anh nói nhẹ vào tai cô:
“Gretta, em yêu, em đang nghĩ gì vậy?”
Cô không trả lời, và cũng không hoàn toàn khuất phục trong vòng tay anh. Anh lại nói nhỏ:
“Gretta, nói cho anh biết, chuyện gì vậy? Anh nghĩ anh biết chuyện gì rồi. Anh có biết không?”
Cô không trả lời anh. Đột nhiên nước mắt cô ứa ra đầm đìa trên hai má, và cô bảo anh:
“Em đang nghĩ đến bài hát ‘Cô gái làng Aughrim.’”
Cô vùng ra khỏi tay anh và chạy đến giường, quàng tay qua thành giường, giấu mặt úp vào nệm. Gabriel sững sờ một lúc rồi bước lại gần cô. Lúc đi ngang tấm gương soi lớn dựng đứng trong phòng, anh thấy toàn bộ nhân dáng mình, thân hình đầy đặn, áo quần bảnh bao, khuôn mặt anh luôn bối rối khi nhìn trong gương, và cặp kính mạ vàng sáng lấp lánh. Anh dừng lại cách cô vài bước, nói:
“Một bài hát? Tại sao một bài hát lại làm em khóc?”
Cô chống tay ngẩng đầu lên rồi lấy mu bàn tay quẹt cho khô nước mắt như một đứa trẻ. Giọng anh có vẻ ôn nhu hơn dự định.
“Tại sao, Gretta, tại sao?”
“Em đang nghĩ về một người cách đây lâu lắm đã từng hát bài hát đó.”
“Và người cách đây lâu lắm đã từng hát bài hát đó là ai?” Gabriel mỉm cười hỏi.
“Một người ở Galway em quen khi còn sống với bà em.”
Nụ cười vụt tắt trên mặt Gabriel. Một cơn giận âm ỷ bắt đầu tụ lại trong lòng anh và ngọn lửa khao khát u ám lại bắt đầu bùng lên sôi sục chảy trong huyết quản.
“Một người em từng yêu?” Anh hỏi cô, giọng mỉa mai, chua chát.
“Một cậu trai em quen thời con gái,” cô trả lời, “tên là Michael Furey. Michael thường hát bài hát đó, Cô gái làng Aughrim. Michael lúc đó là một cậu trai hiền lành, dễ mến.”
Gabriel im lặng. Anh không muốn cô nghĩ rằng anh có hứng thú muốn nghe về chàng trai đáng yêu ấy.
“Em vẫn có thể hình dung ra Micahel thật rõ ràng,” cô nói sau một lúc im lặng. “Đôi mắt to, đen! Đôi mắt lúc nào cũng như muốn nói lên điều gì!”
“Ồ, vậy chắc là em yêu Michael lắm.”
“Em và Michael thường rủ nhau đi dạo,” cô nói, “khi em còn ở Galway.”
Một ý nghĩ thoáng vụt qua tâm trí Gabriel.
“Có lẽ đó là lý do em muốn về thăm Galway với cô Ivors, phải không?” Anh lạnh lùng nói.
Cô nhìn anh, ngạc nhiên hỏi:
“Để làm gì?”
Đôi mắt mở to của cô khiến Gabriel cảm thấy bối rối. Anh nhún vai, nói:
“Làm sao biết được? Có lẽ để gặp người xưa.”
Ánh mắt cô bây giờ không nhìn anh nữa mà quay sang vệt sáng từ cửa sổ hắt vào phòng, cô im lặng một lúc lâu rồi thẫn thờ buông một câu:
“Michael chết rồi, chết khi mới mười bảy tuổi. Chết trẻ như vậy chẳng là điều khủng khiếp lắm sao?”
“Michael làm gì lúc còn sống?” Gabriel hỏi, vẫn giọng mỉa mai.
“Michael làm việc trong xưởng khí đốt.”
Gabriel cảm thấy tự thẹn trước sự thất bại trong trò mai mỉa của mình và việc gợi lại hình ảnh từ cõi chết, một cậu trai làm việc trong xưởng chế tạo khí đốt, khiến anh chỉ thấy xấu hổ mà thôi. Trong khi lòng anh tràn ngập những kỷ niệm êm đẹp về cuộc sống bí mật của hai người, đầy sự dịu dàng, niềm vui và đam mê, thì cô so sánh anh với một kẻ khác trong tâm trí mình. Ý thức đáng xấu hổ về con người mình giày vò anh. Anh tự xem mình là một kẻ lố bịch, hành động như một đứa trẻ con vòi vĩnh, một con người đa cảm có ý tốt nhưng thiếu sự bình tâm, một kẻ chăm chăm hướng đến những điều thô lậu và lý tưởng hóa những ham muốn trò hề của chính mình, một gã ngốc nghếch đáng thương mà anh thoáng trông thấy trong gương vừa rồi. Theo bản năng, anh xoay người lại, lưng hướng nhiều hơn về phía ánh sáng bởi anh e rằng cô có thể nhìn thấy sự xấu hổ đang cháy bỏng rát trên trán anh.
Anh cố giữ giọng điệu hỏi han lạnh lùng nhưng khi nói giọng anh lại tỏ ra nhún nhường, thờ ơ:
“Gretta, anh nghĩ rằng em đã từng yêu cậu Michael Furey ấy.”
“Vào thuở đó, em và Michael rất vui vẻ với nhau.”
Giọng cô khàn khàn, buồn bã. Gabriel bây giờ cảm thấy thật là vô ích nếu cố đẩy đưa cô lọt vào chủ đích cạm bẫy của mình. Anh đưa tay vuốt ve tay cô, nói, giọng cũng buồn bã:
“Michael đã chết trẻ như thế nào? Vì bệnh lao, phải không?”
“Em nghĩ Michael đã chết vì em,” cô trả lời.
Một nỗi sợ hãi mơ hồ xâm chiếm tâm khảm Gabriel với câu trả lời này, như thể, vào thời điểm anh đang hy vọng chiến thắng, một hiện thể khó nhận biết và đầy thù hận nào đó đang tiến đến quấy phá, hãm hại anh, nó thu gom sức mạnh để chống lại anh từ thế giới không thực của nó. Nhưng anh cố tự thoát bằng nỗ lực của lý trí, anh tiếp tục vuốt ve bàn tay cô. Anh không hỏi cô nữa vì anh cảm thấy cô sẽ kể cho anh nghe về chính cô. Bàn tay cô ấm áp và ẩm ướt, cô không phản ứng lại sự va chạm của anh, nhưng anh vẫn tiếp tục vuốt ve như vuốt ve bức thư đầu tiên cô gửi cho anh vào buổi sáng mùa xuân đó.
“Đó là mùa đông,” cô nói, “khoảng đầu mùa đông lúc em dự định rời nhà bà ngoại lên đây để vào tu viện. Lúc đó Michael bị bệnh nằm trong phòng trọ ở Galway, họ không cho Michael ra ngoài, họ biên thư báo tin cho người nhà của Michael ở làng Oughterard. Họ nói bệnh tình của Michael suy yếu lắm, hoặc điều gì đó tương tự như vậy. Em không biết rõ họ viết gì trong thư.
Cô dừng lại một lúc, thở dài.
“Tội nghiệp Michael,” cô nói. “Michael quý mến em lắm, đó là một chàng trai hiền lành. Hai đứa em thường đi chơi với nhau, đi dạo, anh biết đấy, Gabriel, như người ta dưới quê hay làm. Michael học hát chỉ vì sức khỏe của mình. Michael có một giọng hát rất hay, tội nghiệp Michael.”
“Ồ, và sau đó thì sao?” Gabriel hỏi.
“Lúc em rời Galway để vào tu viện thì tình trạng Michael tệ hơn nhiều lắm, em không được phép vào thăm nên em đã biên cho Michael một lá thư nói rằng em lên Dublin đi học và sẽ quay lại vào mùa hè thăm Michael, hy vọng lúc đó Michael sẽ khá hơn.”
Cô dừng lại một lúc cho giọng nói bớt nghẹn ngào rồi tiếp tục:
“Rồi cái đêm trước khi đi, em đang ở trong nhà bà ngoại xếp áo quần cho vào rương thì nghe tiếng sỏi ném lên cửa sổ. Cửa sổ ướt đẫm nước mưa đến nỗi em không nhìn thấy gì ngoài trời đêm nên em chạy vội xuống cầu thang và lẻn ra phía sau vườn, tại đó em thấy anh chàng tội nghiệp ở cuối vườn đang đứng run rẩy.”
“Em không bảo Michael quay về ngay à?” Gabriel hỏi.
“Mặc trời mưa, em lại gần năn nỉ Michael hãy đi về nhà ngay vì sẽ chết nếu cứ đứng dưới mưa như thế. Nhưng Michael nói rằng, ‘Tôi không muốn sống nữa’. Em cũng nhìn thấy điều đó hiện trong mắt Michael! Michael đứng gần sát bức tường cuối vườn dưới một gốc cây.”
“Michael có chịu nghe lời em đi về nhà không?” Gabriel hỏi.
“Michael chịu nghe lời em về nhà. Nhưng em vào tu viện được một tuần thì nghe tin Michael qua đời và được chôn cất ở làng Oughterard, quê quán của Michael. Ôi, cái ngày em nghe tin Michael chết!”

Cô ngừng nói, nghẹn ngào, rồi như xúc động quá, cô ném người úp mặt xuống mặt giường, nức nở khóc. Gabriel lưỡng lự cầm tay cô thêm một lúc nữa, rồi như ngại ngùng không muốn xâm phạm nỗi đau của cô, anh nhẹ nhàng buông tay cô và lặng lẽ bước ra bên cửa sổ.
Cô nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Gabriel dựa người lên thành cửa sổ, thương cảm nhìn mái tóc rối bời và đôi môi hé mở của cô một lúc lâu, anh cũng nghe thấy tiếng  thở hút sâu của cô. Vậy là cô đã có mối tình lãng mạn trong đời: một người đàn ông chết vì cô. Giờ đây anh hầu như không cảm thấy đau đớn chút nào khi nghĩ rằng anh, chồng cô, đã đóng một vai trò tồi tệ như thế nào trong đời cô. Anh nhìn cô ngủ, như thể anh và cô chưa hề chung sống với nhau như vợ chồng. Đôi mắt tò mò của anh dừng lại rất lâu trên khuôn mặt và mái tóc cô, và khi anh nghĩ về hình ảnh cô lúc đó, vào thời điểm cô chớm mang nét trẻ đẹp của một thiếu nữ đương xuân, thì một niềm thương hại thân thiện, kỳ lạ dành cho cô bỗng nhiên tràn ngập tâm hồn anh. Anh không muốn nói với chính mình rằng khuôn mặt cô không còn xinh đẹp nữa, nhưng anh biết đó không phải khuôn mặt mà Michael Furey đã bất chấp cái chết.
Có lẽ cô đã không kể cho anh nghe hết câu chuyện. Mắt anh nhìn vào chiếc ghế nơi cô ném áo quần. Một sợi dây áo lủng lẳng trên mặt sàn. Một chiếc ủng đứng thẳng, phần trên mềm nhũn cụp xuống, chiếc còn lại nằm lăn lóc dưới sàn. Anh băn khoăn tự hỏi cảm xúc hỗn loạn của mình một giờ trước đó là gì. Nó đến từ đâu? Từ bữa tiệc tối của dì anh, từ bài diễn văn ngu xuẩn của chính anh, từ những cốc rượu bia và màn khiêu vũ, từ niềm vui lúc chào tạm biệt mọi người tại gian sảnh, từ niềm vui lâng lâng sảng khoái lúc đi dọc bờ sông trong mưa tuyết? Đột nhiên anh thấy tội nghiệp dì Julia! Chẳng còn bao lâu nữa dì cũng sẽ trở thành cái bóng bên cạnh bóng ông ngoại anh, ông Patrick Morkan, và con ngựa Johnny của ông. Anh nhìn thấy nét già nua còm cõi trên khuôn mặt dì trong thoáng giây lát lúc dì hát bài “Dàn hàng đón cô dâu.” Có lẽ chẳng bao lâu nữa, anh sẽ ngồi trong chính căn phòng đó, mặc đồ đen, đặt chiếc mũ lụa trên đầu gối. Những tấm rèm cửa được kéo xuống và dì Kate ngồi bên cạnh anh, vừa khóc vừa xì mũi kể cho anh nghe dì Julia chết như thế nào. Anh sẽ cố chắp nối trong đầu những lời lẽ nhạt thếch để an ủi dì nhưng chỉ tìm ra những câu nói khập khiễng, vô dụng. Vâng, vâng, điều đó sẽ xảy ra và xảy ra rất sớm.
Không khí trong phòng làm vai anh lạnh buốt. Anh khẽ khàng chuồi mình dưới tấm trải giường và nằm xuống bên cạnh vợ. Từng người một, tất cả trở thành những cái bóng. Thà mạnh dạn bước vào thế giới khác, trong vinh quang trọn vẹn của niềm đam mê nào đó, còn hơn là phai nhạt và héo mòn trong hiu hắt với thời gian. Anh nghĩ suốt chừng ấy năm tháng, người nằm bên cạnh anh, người vợ anh, đã khóa chặt trong tim mình hình ảnh ánh mắt của người yêu khi anh ta nói với cô rằng anh ta không muốn sống.
Nước mắt bỗng ứa ra đầm đìa trong mắt Gabriel. Anh chưa bao giờ có cảm giác như vậy với bất kỳ người phụ nữ nào, nhưng anh biết cảm giác đó chắc chắn là tình yêu. Những giọt nước mắt vẫn không ngớt tuôn ra, và trong màn tối sáng nhờ nhờ của một buổi sớm mai tuyết phủ lấp nhân gian, anh tưởng tượng mình trông thấy hình ảnh một chàng trai trẻ đứng dưới gốc cây nước mưa nhỏ giọt trên đầu. Cái gì đang đến gần? Linh hồn của chàng trai tiến đến gần cõi giới nơi cư trú của vô số người chết. Chàng ý thức được, nhưng không thể nào thấu hiểu nổi sự tồn tại vô thường và mong manh của những linh hồn người chết đó. Danh tính của chính chàng cũng đang mờ nhạt dần trong một thế giới xám xịt không thể cảm nhận được: cái thế giới trong đó những người chết này đã từng được nuôi dưỡng và sinh sống, nó đang thu nhỏ và tan biến.
Một vài tiếng động nhẹ va vào mặt kính cửa sổ khiến anh quay lại nhìn. Bên ngoài trời lại bắt đầu có tuyết. Cơn buồn ngủ kéo đến, anh mơ màng nhìn những bông tuyết trắng bạc rơi xiên xiên dưới ánh đèn đường. Đã đến lúc anh phải lên đường về phía tây. Vâng, báo chí nói đúng: tuyết rơi khắp Ireland. Tuyết đang đổ xuống khắp mọi nơi ở những vùng đồng bằng tối tăm, trên những ngọn đồi trơ trụi, rơi nhẹ nhàng xuống đầm lầy Allen, và xa hơn về phía tây, nhẹ nhàng xuống những con sóng Shannon đen tối hung hãn. Nó cũng đang rơi xuống mọi ngóc ngách của nghĩa trang giáo đường vắng vẻ trên ngọn đồi nơi Michael Furey được chôn cất. Tuyết bám dày trên những cây thánh giá cong queo và mộ chí, trên những cọc nhọn của cánh cổng nhỏ, trên những bụi gai cằn cỗi. Tâm hồn anh từ từ chìm sâu vào vô thức trong lúc tuyết nhẹ rơi trong vũ trụ, và nhẹ rơi phủ lấp tất cả người sống kẻ chết, như sự kết thúc cuối cùng sa xuống.

 

HẾT