Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2023

Cái Tôi ẩn mật và Dương bản Thiên nhiên trong Thơ ở đâu xa của Thanh Tâm Tuyền (*)

 (hay, “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền” )

Bùi Vĩnh Phúc

 

clip_image002

 

Người ta thường chỉ nói về thơ Thanh Tâm Tuyền ở cái thời tuổi trẻ của ông, và gần như không có ai nói kỹ (hoặc tương đối kỹ) về tập Thơ ở đâu xa, kết tinh bởi những bài thơ thời sau này của Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt là thời ông đã đi qua những hào quang của tuổi trẻ mình, và cũng là thời mà ông đang đi vào, đang đi qua những hiện thực sống động nhất, theo một nghĩa nào đó, của thân phận con người, nói chung, và thân phận thi sĩ, nói riêng, của chính ông. Cũng có ý kiến cho rằng thơ Thanh Tâm Tuyền, trong giai đoạn này, chỉ là thơ thời khổ nạn, tù đầy, không có mấy điều đáng bàn. Ý kiến đó có lẽ nên được xét lại. Con người thi sĩ, đặc biệt những con người thi sĩ với chiều sâu và kích thước như của Thanh Tâm Tuyền, có thể tự thể hiện phong cách độc đáo của mình, tự khám phá hoặc đổi mới mình, trong tứ, trong từ, trong hình ảnh, suy tư mình, trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, tiết nhịp, điệu thức, thể loại… trong bất kỳ hoàn cảnh hiện sinh nào của họ.

Bài viết này của tôi chỉ là một cố gắng trình bày điều đó.

Tiểu luận này tập trung phân tích một vài khía cạnh nghệ thuật của thơ Thanh Tâm Tuyền, trên căn bản những bài thơ trong tập Thơ ở đâu xa những bài thơ, trong mắt nhìn của tôi, rất lạ và đẹp, của thời bị giam hãm của ông. Và khi viết bài này, để lặp lại, mặc dù quan tâm hàng đầu của tôi vẫn là tìm hiểu cái nghệ thuật ngôn ngữ, cái thi pháp và thi tứ của người thi sĩ, cái ngôn ngữ, như một raison d’être của Thanh Tâm Tuyền, tôi cũng có lúc bất chợt nghĩ đến một câu nói của Rainer Maria Rilke: “Cuộc sống đạt được sự thành tựu của nó trong những hoàn cảnh mang tính sỉ nhục, cay cực khốn khổ, và thậm chí nguy hiểm chết người nhất, và rằng con người ta có khả năng yêu thương cuộc sống khi cuộc sống trở nên hoàn toàn khủng khiếp…” {(that) [L]ife has been achieved in the most insulting, grueling, and even deadliest circumstances and that individuals were capable of loving life when it was altogether horrific… “}.

bvp

clip_image003

 

Ðêm vây hãm lụn dần

Thủ thỉ mưa ru…

TTT

1

[…] khi đêm

chụp xuống tự những đỉnh cao, khi người thi sĩ cô đơn

đứng bên cửa sổ nghe tiếng vó ngựa mùa thu cuồn cuộn sải

và những cánh lá … bị giẫm đạp cuốn bay trong mạch máu hắn,

có một cái gì đó trên bầu trời cao… [1]

(Pablo Neruda)

Vậy là đêm đã trôi qua. Cái đêm mà ông cảm thấy nhiều lúc như vây hãm, cùng khốn và thúc bách ấy. Cái đêm tối đã theo ông từ những ngày sau cơn hồng thuỷ 1975. Cho dù ông đã từ những rừng sâu heo hút trở về sau nhiều năm ngục tù bầm giập với những Long Giao, Yên Báy, Lào Kay, Vĩnh Phú… Cho dù, sau đó, không còn có thể sống tại quê nhà, ông đã cùng với gia đình định cư tại Mỹ, nơi một tiểu bang giá lạnh chỉ được sưởi ấm bằng tình bằng hữu tự những ngày xưa mà ông luôn luôn trân quý. Chọn sự câm lặng trước bao rủ rê, mời gọi, ông đã sống một cuộc sống âm thầm. Âm thầm như một chiếc bóng, một chiếc bóng thiết tha, với cơn hồi tưởng mãi mãi về những ngày tháng cũ. Những ngày tuổi trẻ của một nửa miền đất nước đang bừng lên những tiếng hát dựng xây, lên đường, cho một mùa nắng mới. Những năm đầu sau di cư 1954 nơi một miền Nam phơi phới, tự do. Bạn bè, bằng hữu. Và những tờ báo mới. Và mùi mực in trên những trang báo thơm phức. Và những bài thơ mà ông cùng với bạn bè đã viết ra. Những suy nghĩ tha thiết, những sắc điệu tinh khôi, cùng những cảm xúc cháy bỏng cuồn cuộn trong tim trong máu.

Ông nhớ lại mãi về những bài thơ xưa ấy. Mà, thật sự, không phải là ông chỉ nhớ lại có những bài thơ. Ông nhớ đến cả một thời tuổi trẻ. Với những người bạn cùng đi một đường. Những trái tim đã đập tung trong lồng ngực thanh niên. Ông nhớ về cuộc đời, tình yêu, bạn hữu. Về những lý tưởng mà ông đã cùng với mọi người chung tay vun đắp. Về những bất công của cuộc đời, những đau khổ, xót xa của những con người cùng khốn trong cuộc sống. Những bất công, những đau khổ, xót xa mà ông luôn muốn bẻ gẫy và đập nát. Hãy cho anh khóc bằng mắt em / Những cuộc tình duyên Budapest / Anh một trái tim em một trái tim / Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác…

Trong những năm mà thân thể còn bị cầm hãm nhưng tâm hồn vẫn cố thênh thang ngoài cõi gió, ông đã nhớ về những câu thơ ấy. Nỗi nhớ như một hành động “vịn câu thơ mà đứng dậy”: [2]

Sáng nay thức giấc trong nhà giam

Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ

Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu

u ám quạnh quẽ

Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu…

(Bài nhớ thi sĩ)

Bây giờ, chắc là ông đang nằm nghe mưa. Những tiếng vó ngựa của mùa đã lộp cộp phi mau và mất hút bên ngoài cửa sổ, và những cánh lá bị vó ngựa giẫm đạp ấy đã hết cuốn bay trong những mạch máu cũ. Với ông, đêm tối đã đi qua rồi. Chỉ còn lại những tiếng mưa ru thủ thỉ. Tiếng mưa của những ngày xa vắng cũ.

Chàng thi sĩ đã ra đi. Và chúng ta, những người ở lại, chia sớt cho nhau nỗi ngậm ngùi. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt / Hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt…

2

Trong một bài phỏng vấn rất nhiều năm trước, in lại trong cuốn sách Lý luận và Phê bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước. 1975 – 1995 của mình, tôi đã nói là tôi rất yêu tập Thơ ở đâu xa của Thanh Tâm Tuyền. Ðó là những bài thơ được làm trong đầu, khi ông còn ở trong những trại giam tại miền Bắc Việt Nam. Khi ra ngoài nước, ông được bằng hữu yêu quý đã giúp in tập thơ với cái tên như đã nói. Trong bài phỏng vấn ấy, nhân nói về thơ, tôi đã có dịp nói về tập thơ này, “Thơ ông [Thanh Tâm Tuyền] bây giờ, từ thể cho đến ý, không còn là thứ thơ đã làm cho ông nổi tiếng mấy thập niên trước nữa. Nhưng chúng vẫn cứ hay và độc đáo, mặc dù có những người nghĩ là ông đã từ bỏ con đường thơ tự do của mình thời trước (…) Những câu thơ gẫy khúc nơi cách cấu âm của những từ ngữ trong thơ Thanh Tâm Tuyền diễn tả được một cái gì đau đớn, gẫy đổ, xót xa, kìm nén, kiên nhẫn và chịu đựng của tâm hồn con người… Hình ảnh trong thơ ông cũng đặc biệt. Nó vẫn có những nét mới và lạ. Nó vẫn đẹp. Một cái đẹp tan tác và tối khuất.” Và tôi mong có dịp nào đó sẽ nói nhiều hơn nữa về tập thơ mới này của Thanh Tâm Tuyền.

Tôi không quên lời hứa của mình, thế nhưng cuộc sống cứ kéo tôi xoay vòng theo nó. Khiến tôi không thể hoàn tất lời tự hứa ấy sớm hơn. Khi nghe tin người thi sĩ đã ra đi, tôi cảm thấy thật buồn và trống vắng. Có một cái gì bục vỡ trong lòng. Một phần đời sống của mình đã mất đi. Tất cả chúng ta đều không có lúc cảm nhận như thế sao, trong cuộc đời này? Chúng ta sống là sống cùngsống với. Với những con người, với những kỷ niệm, những mộng mơ, những khát khao, những gắn bó, và những gặp gỡ chia lìa. Chẳng ai là một hòn đảo trong cuộc đời này, như John Donne đã nói. Ðối với tôi, khi nhớ về những ngày tuổi trẻ, những ngày mà trái tim mình bắt đầu nhận ra những vẻ đẹp của chữ nghĩa, của văn chương, tôi đã luôn cảm nhận lại được trong trái tim mình những nỗi rung động thiết tha mà những trang sách, những bài thơ, những bức tranh, và những điệu nhạc xa xưa đã đem lại cho mình. Cái âm vang dịu ngọt và tha thiết của cõi thời gian không gian xa khuất ấy vẫn còn để lại trong hồn tôi những giấc mơ đằm thắm cũ. Trong những giấc mơ ấy, có khuôn mặt và tiếng nói của Thanh Tâm Tuyền.

Hai mươi chín năm trước, vào năm 1986, trong một bài đăng trên báo Văn Học tại California, tôi đã viết về ông, về hai tập thơ tự do của ông, hai tập Tôi không còn cô độcLiên-Ðêm-Mặt trời tìm thấy. Hai tập thơ đã đưa ông vào vòng xoáy của một vùng tâm bão của văn chương chữ nghĩa miền Nam những ngày gió lớn. Tôi viết bài ấy khi ông vẫn còn đang sống tại quê nhà. Khi ông vẫn cố “đứng vững không khuỵu chân / trên mảnh đất nghèo khổ”. Tôi đã viết bài ấy, về Thanh Tâm Tuyền, và cho đăng trên Văn Học, tờ nguyệt san mà tôi đã cùng với một số nhà văn chủ trương tại Mỹ, khi, vì những cơ duyên bất ngờ, chúng tôi gặp gỡ được nhau và cùng muốn làm sống dậy những mơ ước văn chương cũ. Tôi đã viết về Thanh Tâm Tuyền, vì ông chính là một trong những biểu tượng đẹp đẽ cho mơ ước ấy, những ngày xưa. Tôi nhớ, để kết thúc bài tiểu luận đó, tôi đã nói về ý nghĩa của thơ, đã dẫn Rainer Maria Rilke, đã nói về cái giá mà người ta phải trả để có được những câu thơ, những bài thơ hay, về giá trị của thơ trong đời sống chúng ta, về vị thế chông chênh và đầy nguy hiểm của nhà thơ, và tôi đã viết về ông, Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ của chúng ta, như thế này:

Thanh Tâm Tuyền đã dâng hiến cho đời nhiều dòng thơ rất đẹp, những câu thơ đau khổ và phẫn nộ và hạnh phúc và thương yêu của ông làm cho ta chảy nước mắt. Nhưng nếu Thanh Tâm Tuyền chỉ có được mươi câu thơ hay, ông cũng xứng đáng cho ta yêu mến và cảm phục, bởi lẽ ông đã sống, đã tân toan trong đời sống, và đã chịu đựng và gìn giữ tất cả để trở nên một thi sĩ.

Hãy choàng vào cổ thi sĩ một vòng hoa và hãy để chàng ngồi giữa chúng ta trong cuộc đời này.

Thi sĩ, hãy cho ta khóc bằng mắt anh những cuộc tình duyên và những đời người khốn khổ![3]

Những gì tôi đã viết về Thanh Tâm Tuyền, ngày xưa, chỉ là căn cứ trên hai tập thơ tự do mà Thanh Tâm Tuyền đã viết vào những ngày còn khá trẻ. Nhưng, những bài thơ trong tập Thơ ở đâu xa lại cho chúng ta thấy một Thanh Tâm Tuyền khác lạ, dù vẫn là một con người của sáng tạo, của thiết tha say đắm. Trong tập thơ này, ngoài một số bài thơ tự do theo lối cũ (lối mà ông đã làm ngày xưa) nhưng với một sắc thái mới, giản dị hơn, buốt sắc hơn, thơ mộng đằm thắm hơn, và cũng mới lạ hơn trong phần chữ nghĩa cũng như trong tiết nhịp và vần điệu, ngoài một vài bài thơ xuôi rất đẹp, thơ mộng và thiết tha đến nao lòng mà ông viết cho con gái vào những dịp sinh nhật của cô, ngoài một vài bài lục bát mà hình ảnh rất mới như búp nõn, những bài còn lại là những bài thơ tám chữ, bảy chữ, sáu chữ, năm chữ, bốn chữ. Một số bài chỉ có bốn câu, như thơ tứ tuyệt đời Ðường, đôi khi lại như thơ haiku của Basho hay Issa. Trong những bài thơ mang phong khí cổ ấy, cái mới và cái làm nên Thanh Tâm Tuyền vẫn là những hình ảnh rất sáng tạo, rất sắc nét và rất riêng của ông, được đặt trên một cái nền u nhã và có vẻ cổ kính. Ðó là một kết hợp rất nghệ thuật.

Bài thơ mang tinh thần và không khí Ðường thi nhất trong tập này có lẽ là bài Xuân tứ :

Cỏ hoa thầm thì hát

Ngoài vườn trăng đêm nay

Xuân ngàn mùa vẫn một

Hương sắc không hề phai

Sự trôi chẩy mãi thật

Tình đơn sơ còn đây

Ôi nỗi niềm bát ngát

Thuỷ chung nào vơi đầy.

Còn bài mang chút hơi hướm haiku nhưng lại pha mấy nét thơ Ðường là bài Bão muộn . Thơ năm chữ sáu câu; bốn câu cuối phá cách, mỗi câu chỉ còn có bốn chữ:

Trằn trọc đêm chớp bể

Thiếp mệt lúc tàn canh

Cuồng giông điêu đứng

Nước lùa mênh mông

Ngủ giữa luồng bão

Nổi hồn phách tan.

Tập Thơ ở đâu xa có vẻ bị chìm khuất, ít được người ta để ý đến. Có lẽ vì nó quá khác biệt với hai tập thơ trước đó của Thanh Tâm Tuyền, mà hào quang của chúng – toả ra từ cái triều thiên trên đầu của dòng thơ tự do miền Nam thời 1954-1975, mà Thanh Tâm Tuyền là người chủ soái, và có lẽ dòng thơ đó còn tạo ảnh hưởng trên thơ tự do sau này của cả hai miền Nam Bắc – vẫn còn chiếu sáng. Với sự im lặng, gần như không tham gia vào bất cứ một sinh hoạt văn học nghệ thuật nào kể từ khi ra ngoài nước của chính Thanh Tâm Tuyền (tập Thơ ở đâu xa là do bằng hữu vì quý mến ông mà in hộ cho ông), với bao nhiêu náo động, quay cuồng trong cuộc sống người Việt bên ngoài đất nước, người ta đã không chú ý đủ đến tập thơ đặc biệt này. Thậm chí, khi có dịp đọc qua, có nhiều người còn nghĩ rằng, Thanh Tâm Tuyền đã từ bỏ thơ tự do, và với họ, có nghĩa là từ bỏ sáng tạo, để quay về với những gì là khuôn mòn, lối cũ.

Họ lầm. Bởi lẽ, qua những bài thơ trong tập Thơ ở đâu xa, nếu đọc kỹ, người ta sẽ nhận ra ở đó vẫn là Thanh Tâm Tuyền, kẻ sáng tạo ngày xưa. Thơ ông trong tập này đằm chín và sâu lắng. Kinh nghiệm cuộc đời và sự thẩm thấu khổ đau, cái nhìn vào pháp tướng của mọi sự vật trong đời đã làm cho những bài thơ ông mang một tố chất gì đó rất gần với sự tỉnh thức, kiên nhẫn và chấp nhận trong tinh thần giáo lý Công giáo, cùng lúc, cũng mang trong chúng một thiền chất khiến ta thấy chúng, có những lúc, có cái tinh thần đốn ngộ của Thiền tông và cái tinh thần bát nhã của đạo Phật. Có vẻ như, trong khổ đau, bầm giập, và mặc dù không cho thấy mình gắn bó với một niềm tin cụ thể, rõ ràng và thâm thiết nào, ông đã nhìn được thấu suốt hơn vào trái tim của cuộc sống, cái ý nghĩa của cuộc hiện sinh, mà những cách biểu tỏ mang tính tông giáo kia đã cùng chỉ vào cái lõi, cái nhân ấy. Thơ ông, trong tập này, có những lúc, lại đem đến cho người đọc cái ánh trăng và không gian của những thôn làng heo hút trong Ðường thi. Nhưng cái không khí và khung cảnh ấy lại rất đượm nét Việt Nam, cho dù là một Việt Nam ảm đạm, u trầm, đặc biệt trong hoàn cảnh tù ngục của ông. Còn cái âm điệu gẫy sắc, đau đớn buồn, thiết tha buồn, nhưng cũng có lúc loé sáng xuân hồng và ẩm sũng khát khao ấy là của ông, của riêng ông:

Ngày chưa dậy tiếng kẻng

Mờ bạc trăng hạ tuần

Giông đầu hôm dứt lắng

Còn heo hút phân vân

Ðứng ngây trời ẩm sũng

Ngóng tiếng gà thôn gần

Chỉ nghe rừng núi bủa

Lùa âm u xốn xang.

(Dậy Sớm)

Tiếng kẻng, dù chưa dậy vang, nhưng đã nghe chói gắt trong ký ức người. Tiếng kẻng, như đã kêu từ lâu, ở đâu đó, trên những trang viết của Solzhenitsyn trong One Day in the Life of Ivan Denisovich. Những từ “dứt lắng”, “heo hút”, “phân vân”, “ngây”, “ẩm sũng”, “ngóng”, “bủa”, “lùa”, “âm u”, “xốn xang” không chỉ cho ta thấy được cái khung cảnh rừng núi tù đầy, cái thời tiết và khí hậu của một vùng đất giam hãm con người, mà chúng còn khơi dậy và cho thấy cái địa lý của lòng người, cái tâm thế của con người bị cầm hãm ngay trên quê hương, đất nước mình. Những từ “phân vân”, “âm u” và “xốn xang”, đúng thế, không chỉ để nói đến tiếng giông, tiếng gió hoặc tiếng núi, tiếng rừng, nhưng còn để nói lên cái tâm trạng của con người trước hiện sinh và định mệnh của chính hắn.

Trong Thơ ở đâu xa, người ta thấy có nỗi buồn và có niềm đau. Có đấy. Có sự cảm nhận buốt sắc về hiện sinh, về định mệnh mình. Nhưng kẻ thi sĩ ấy vẫn không chịu ngã gục hoặc nằm vùi trong sầu khổ. Hắn vẫn dậy sớm nhìn trời, nhìn đất. Ðể thức nhận được những tiếng nói của mùa Xuân:

Mặt trời hồng như trăng

Thức lòng ta buổi sớm

Gió núi thổi rộn ràng

Gọi nghe biển dậy sóng

Ðứng vững không khuỵu chân

Trên mảnh đất nghèo khổ

Thở hít tận vô cùng

Ngây say đoá hồng rợ

Vang vang trời vào Xuân

Ta bật kêu mừng rỡ

Ơi bè bạn xa xăm

Tim ta cũng cháy đỏ

Rực thắm bóng trăng ngần.

(Vang vang trời vào Xuân)

Tại sao mặt trời lại hồng như trăng? Và tại sao niềm hạnh phúc cuối, để đóng bài thơ lại, cũng “rực thắm bóng trăng ngần” trong khi không gian của bài thơ là một không gian buổi sớm? Mặt trời là biểu tượng cho dương tính, còn mặt trăng là biểu tượng cho âm tính, cho người nữ, cho sự dịu dàng, đằm thắm. Nhìn ánh hồng lên của mặt trời nhưng người thi sĩ hình như lại thấy mầu hồng bạc của ánh trăng. Ấy chính là do tác động dịch chuyển của vô thức hoặc tiềm thức. Ánh trăng hồng có lẽ đã đem về cho ông cái dịu ngọt của những ngày tháng cũ. Chợt nhớ lại năm, sáu bài thơ trong một loạt thơ về “ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng hạ” thời ’70 của Thanh Tâm Tuyền. Những biến tấu quanh một ánh trăng. Có hay không sự hoạt động của tiềm thức hay vô thức ở đây? Và, để lặp lại, bài Vang vang trời vào Xuân đã được kết bằng hai câu Tim ta cũng cháy đỏ / Rực thắm bóng trăng ngần. Như thế, trăng chính là người bạn của thi sĩ. Nó nuôi nấng những ước mơ và sự dịu ngọt mà cuộc hành hình kia không thể bôi xoá hoặc lấy mất.

Ðoạn thơ thứ hai, bốn câu giữa, xét về vần, về điệu, là những câu đặc biệt. Vần trắc cho những câu hai, bốn, và vần bằng cho những câu một, ba. Nhưng cái vần bằng này là một nỗ lực kiên cường, bất khuất của thi sĩ, cố giữ cho thân và lòng mình ở cái thế thăng bằng, không gục ngã, cũng như không biến lòng mình thành một bãi chiến trường của sự oán thù. Người thi sĩ đã cương quyết đứng vững trong cuộc đời. Hai chữ đầu của câu đầu trong đoạn này, “đứng vững”, đều là những âm tiết trắc, với những thanh trắc cao [4], để chỉ sự cương quyết. Từ “không”, thanh bằng, cao, vừa như một buông lơi của thân xác cho tâm hồn được mềm lại, vừa như một xác quyết không lay chuyển. Từ “khuỵu”, với thanh trắc, nặng, thấp, nhưng không gãy, và với cái khuôn ngữ âm vừa rất tượng hình lại như cũng có nét tượng thanh kia, kế đó, lại giống một nét chênh chao của thân hình, như mang trong nó dấu vết và ký ức của những cú quật, cú đánh cốt cho ngã xuống, từ những tai biến và hệ luỵ mà cuộc đời mang lại. Thế nhưng cái chủ thể mang thân xác con người ấy vẫn không ngã xuống. Và từ “chân”, sau đó, trở lại thanh bằng, để cho thấy, cuối cùng, người thi sĩ đã tìm lại được thế đứng cân đối của mình “trên mảnh đất nghèo khổ”. Hai âm tiết bằng “vô cùng”, cao rồi thấp, trong câu ba của đoạn thơ này, cho thấy sự bền vững, dẻo dai của người tù, như là đứng thẳng người rồi xuống tấn, hít thở. “Ðoá hồng rợ”, về mặt ý nghĩa, cho ta hình ảnh một nét đẹp mang ít nhiều tính man dã mà người tù tìm được cho mình giữa cảnh bi thương và khốc liệt, tàn bạo của cuộc đời, của cuộc tù. Nhưng chính từ nỗ lực tìm kiếm để có được nét đẹp ấy, người tù nhận ra được giá trị tuyệt vời của nó.

Ðoạn thơ giữa này, gồm hai mươi chữ, đã có tới mười một chữ mang thanh trắc, và chỉ có chín chữ mang thanh bằng, một sự rất bất thường trong thơ, vốn thường có khuynh hướng chiều chuộng những thanh bằng, những thanh đem lại cho thơ sự mềm mại, dịu dàng và thơ mộng. (Hãy thử so với đoạn cuối, năm câu thơ năm chữ, gồm tất cả hai mươi lăm chữ, mà chỉ có chín âm tiết trắc, để thấy được là sau nỗ lực đứng thẳng và không gục ngã kia, thi sĩ đã tìm lại được niềm vui với nhiều hạnh phúc và bình an hơn trước đó). Ðoạn thơ đầy những âm tiết trắc này đem đến cho người đọc những hình ảnh mạnh, cứng và sắc nét, đồng thời cũng gợi ra được cái dáng oằn mình để cương quyết vươn lên, với ý chí vượt thắng định mệnh của người tù, của cái hữu-thể-tại-thế đáng trân trọng ấy..

Cần để ý đến những nỗ lực đổi mới thơ của Thanh Tâm Tuyền, kể từ khi ông viết những bài thơ tự do làm rối mắt, rối tim và rối trí nhiều người từ những năm cuối thập niên ’50. Trong tập Thơ ở đâu xa này, dù trong rất nhiều bài ông đã dùng những thể thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ và tám chữ, với cái hình thức của thể loại này, cho đến nay, được xem như đã định hình từ sau giai đoạn nổi bật huy hoàng của dòng thơ mới qua giai đoạn 1932-1945, cho đến suốt những năm sau này, là thời kỳ tiếp tục phát triển và mở rộng ảnh hưởng của nó, đọc kỹ, ta vẫn thấy cái nỗ lực đổi mới của ông ngay trong những thể loại được xem là bền vững ấy. Cái mới của Thanh Tâm Tuyền nằm trong hình ảnh, đã đành; nhưng điều quan trọng, tạo nên một dấu ấn rõ nét trong thơ ông, ở thời kỳ này, là cách sử dụng nhiều những âm tiết mang thanh trắc, trong vần cuối cũng như trong những âm tiết giữa bài thơ, tạo thành một giọng điệu và một phong cách riêng.

Trong thơ, cũng như trong văn, người ta phải dùng những âm tiết vừa có thanh bằng vừa có thanh trắc để tạo nhịp điệu và nét thay đổi cho giọng và hơi văn, hơi thơ. Nhưng đặc biệt trong thơ, người làm thơ phải biết sắp đặt làm sao cho giọng thơ được xuôi chảy, tránh sự trúc trắc tạo ra bởi quá nhiều những âm tiết có thanh chõi nhau, được đặt cạnh bên nhau. Thậm chí, họ có thể đặt nhiều âm [5] có thanh bằng bên cạnh nhau để tạo một nét thơ mộng và mềm mại cho câu thơ nữa. Trong thơ, khả thể của tính chõi về thanh điệu có thể nói là nằm trong sự kết hợp của những âm có thanh trắc với nhau. Và, dĩ nhiên, cũng nằm trong sự kết hợp và phân bố của những cụm âm mang thanh trắc này với những âm có thanh bằng chung quanh. Có bốn thanh trắc. Sắc, hỏi, ngã, nặng. Sắc và ngã là những thanh trắc cao. Hỏi và nặng là những thanh trắc thấp. Thường, để tránh sự chõi thanh điệu, người ta có thể dùng những kết hợp hai thanh trắc cạnh nhau; sau đó, phải chuyển qua thanh bằng để đi tiếp, tạo nên những chu kỳ mới. Người ta cũng thường dùng những thanh trắc theo kết hợp cao-thấp (hoặc thấp-cao); những kết hợp cao-cao (sắc ngã) hoặc thấp-thấp (hỏi nặng) cũng có, nhưng ở một tần số thấp hơn. Ðặc biệt, người ta rất hiếm khi dùng ba, bốn âm tiết mang thanh trắc kế tiếp nhau, vì điều đó tạo ra một nhịp chõi quá gắt, khiến cho câu thơ có thể gặp hiểm nguy về mặt âm thanh, vần điệu.

Ta thử đọc một số câu thơ trong bài thơ năm chữ thật hay và đẹp sau đây, cũng về mùa Xuân, được làm trước 1975, vào đầu thập niên ’60, của Kim Tuấn:

nụ hoa vàng ngày xuân

anh cho em mùa xuân

nụ hoa vàng mới nở

chiều đông nào nhung nhớ

đường lao xao lá đầy

chân bước mòn vỉa phố

mắt buồn vin ngọn cây

Anh cho em mùa xuân

Mùa xuân này tất cả

Lộc non vừa trẩy lá

Thơ còn vương cõi đời

Con chim mừng ríu rít

Vui khói chiều chơi vơi

Ðất mẹ gầy có lúa

Ðồng ta xanh mấy mùa

Con trâu từ đồng cỏ

Giục mõ về rộn khua

Ngoài đê diều thẳng cánh

Trong xóm vang chuông chùa

Chiều in vào bóng núi

Câu hát hò vẳng đưa

Tóc mẹ già mây bạc

Trăng chờ trong liếp dừa

(…)

Ngoài một số những kết hợp theo dạng trắc-trắc như “mới nở”, “vỉa phố”, “tất cả”, “trẩy lá”, “thẳng cánh” (là những kết hợp trắc-trắc theo dạng cao-thấp hoặc thấp-cao), cùng những kết hợp như “ríu rít”, “có lúa” và “bóng núi” là theo dạng cao-cao (hai thanh trắc không gãy), tất cả phần còn lại trong đoạn thơ trích này là kết hợp của những âm tiết bằng với nhau, hoặc là những kết hợp trắc-bằng, bằng-trắc bình thường. Bài thơ, như thế, có cái điệu thiết tha đẹp và nhẹ buồn để diễn tả một khung cảnh đằm thắm, ấm áp của quê hương.

Bài thơ của Kim Tuấn chỉ là một thí dụ điển hình để cho thấy cách tạo vần điệu và nhịp tiết một cách đúng, đẹp và hợp lý trong thơ. Ta có thể lấy gần như bất kỳ một bài thơ Việt Nam nào khác, đặc biệt những bài thơ có vần điệu, trong những giai đoạn khác nhau (chưa kể những bài thơ ngũ ngôn, thất ngôn Ðường luật), trước khi tập Thơ ở đâu xa ra đời, để thấy được sự bền vững trong kết cấu của âm điệu này. Trong thơ của Thanh Tâm Tuyền, ở nhiều chỗ, trong khía cạnh âm điệu, tình hình lại xem như có vẻ trái ngược. Ông rất hay dùng những kết hợp ít thấy trong thơ, như kết hợp trắc-trắc theo dạng cao-cao, một không gãy, một gãy (đứng vững không khuỵu chân, cháy rỡ mây hồng); thấp-cao (theo dạng ít thấy, dấu hỏi đi với dấu ngã, cả hai đều gãy: đứng ngây trời ẩm sũng); kết hợp ba âm trắc sát nhau: gọi nghe biển dậy sóng, thở hít tận vô cùng, tim ta cũng cháy đỏ, thoáng lơi tay tỉnh thức ngón tê mê, nhìn nắng loé ánh trên tàn lá, mưa rối mắt đong đưa búp lá nõn (câu thơ tám âm tiết mà có tới năm thanh trắc cao, thanh cuối lại gãy)…

Thanh Tâm Tuyền lại thường hay dùng những khuôn âm lạ, những hình ảnh lạ, những kết hợp lạ về ngữ nghĩa và âm điệu: Vàng sững thung lũng cầm hãm / Ðồi già trọc bừng hoảng vô vọng / Ðá tảng khuyết lở hủi mòn / Chốn bình minh lẩn lút / Ðêm vây hãm lụn dần / Xanh thất thần xanh ngây hạnh phúc / Thanh thoát cơn say rũ tro mộng / Tuốt những chùm bông hạt già úa / Thoáng hương gắt bắt nhớ tha thiết (ba âm tiết trắc bám vào nhau, hai âm đầu lại điệp vần) / Mái tóc ẩm dầy đầu thềm rũ hong (ba âm tiết bằng tiếp theo ngay ba âm tiết trắc) / Ðồi đột ngột rực nắng mê mệt (năm âm tiết trắc bám vào nhau, chỉ cho một âm tiết bằng lọt thỏm vào sát cuối)… Nhiều bài thơ bốn câu của ông được cấu trúc theo dạng vần gián cách: hai vần trắc của câu 1 và 3 bám nhau, hai vần bằng của hai câu 2 và 4 bám nhau. Những vần trắc này tạo nên vẻ khắc khổ và khúc khuỷu cho vần điệu và nhịp thức . Như trong bài Chủ nhật lên núi kiếm củi : Một tay chống gậy tay dao quắm / Bò leo dốc đứng thở mang tai / Lên cao trông xuống lũng xanh bấy / Cớ sao lòng chẳng buồn nhớ ai.

Sự nổi lên của những âm tiết trắc như thế, nơi nhiều bài thơ trong tập Thơ ở đâu xa, nhắc lại những gì tôi đã có dịp nói về thơ Thanh Tâm Tuyền trong giai đoạn sau, giai đoạn của tù ngục, cầm hãm. Những câu thơ gẫy khúc nơi cách cấu âm của những từ ngữ trong thơ ông đã diễn tả được một cái gì gần gũi với sự đau đớn, xót xa, kìm nén, kiên nhẫn và cương quyết chịu đựng để vươn lên của tâm hồn con người nói chung, và của tâm hồn nhà thơ nói riêng. Giống như hình ảnh một đoá hoa vươn lên từ một vùng đất cằn, đất chết để tiếp tục lưu hương và toả ánh sáng vào cuộc sống. Từ tất cả những điều đó, ánh sáng mới trong thơ Thanh Tâm Tuyền mà người đọc nhìn thấy trong tập Thơ ở đâu xa không phải là cái ánh hào quang cũ của một thời bình yên và nhiều mộng tưởng ngày xưa, nhưng đây là cái ánh sáng mềm mại, thanh thoát, được lọc qua bao bi thương, âm u và bóng tối để đến với chúng ta. Cái ánh sáng đó, tôi nghĩ, có thể có những nét đáng quý hơn cái ánh sáng rực rỡ mà đôi khi chói gắt của thơ ông những ngày tuổi trẻ.

clip_image005

Đinh Cường vẽ Thanh Tâm Tuyền

Cái hạnh phúc ấy Thanh Tâm Tuyền cũng tìm được trong một bài thơ khác, cũng về Xuân:

Vẫn thấy trong mơ đời trở giấc

Cỏ cây rù quyến gió hoang đàng

Trời xanh cao vút giếng nước ngọc

Ðất hiền thở hương nắng thênh thang.

(Xuân)

Câu 3 của bài thơ này gợi âm hưởng và ánh sáng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhất là gợi nhớ đến hai câu Kiều này: “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”. Nhưng, câu thơ của Thanh Tâm Tuyền, đặt trong chu cảnh của bài thơ và tập thơ nói chung, mang trong nó cái không khí của một “thời đại động”. Hai âm tiết trắc trấn giữ hai nét cuối của những câu một và ba. Hai câu của Nguyễn Du cho chúng ta một cái nhìn ngang, dàn trải, bao quát cả cảnh vật, thành quách, núi non. Và, có lẽ, chúng cũng kéo tầm mắt ta xuống thấp để quét cái nhìn lên mặt nước long lanh đẹp đang phản chiếu hình trời kia. Câu thơ của Thanh Tâm Tuyền, hướng cặp mắt chúng ta lên trên, để ta nhìn thấu trời xanh. Giếng nước ngọc có lẽ là ở trên ấy, trên nền trời xanh, trong cái tâm thế hạnh phúc ở-chính-ngay-giây-phút-này để bay lên cao của con người. Chứ nó không ở bên dưới, trong cái nhìn hiện thực của đời thường. Trời xanh cao vút giếng nước ngọc. Ba thanh bằng kế tiếp bằng bốn thanh trắc. Một cấu trúc lạ và tuyệt đẹp.

Cái nhìn của người tù như từ từ đi lên, càng lúc càng cao. Trời, một thanh bằng ở dưới thấp, trầm bình; sau đó là hai thanh phù bình tiếp tục đi lên cao hơn. Kế tiếp là ba thanh trắc cao, đi vút lên, không gãy, cho thấy ánh mắt đã đậu vào cái xanh ngát của bầu trời cao vút kia. Âm tiết ngọc, cuối cùng, lại mang trong nó một thanh trắc thấp, cũng không gãy, nhưng âm tố cuối của nó, “c”, “cờ” [k], lại là một âm tắc, vô thanh, âm bị tắt một cách đột ngột, như hạ cái nhìn của con người, một chút, xuống “đáy giếng”, và sững lại ở đó, bàng hoàng, trong một tâm thế và một cái nhìn quán chiếu đầy ảo hoá và thơ mộng, để thấy cái chất ngọc lung linh lóng lánh thơm và xanh biếc của bầu trời. Những cụm từ, tạo nên những hình ảnh rất mới và đặc biệt, “cỏ cây rù quyến”, “gió hoang đàng”, và “hương nắng” đã khiến bài thơ mở ra những không gian mới lạ, trong đó trời đất và thiên nhiên quyến rũ con người, đem nó vào một cuộc trốn chạy, một cuộc vượt thoát diệu kỳ. Hãy tưởng tượng cái tâm thế hạnh phúc và tự do của một con người. Kẻ đó là một người tù. Nhưng Trời đã cho hắn làm thi sĩ để vượt qua. Vượt qua và vượt lên tất cả. Như ý nghĩa của chữ “Việt” trong từ kép Việt Nam. Ðể trở thành chứng nhân cho một điều gì đó đẹp đẽ và kỳ diệu mà chỉ con người mới có thể tìm thấy và chân nhận.

Mỗi lần đọc lại tập Thơ ở đâu xa, đọc những bài thơ tù, thơ làm trong đầu của Thanh Tâm Tuyền in trong tập thơ này, tôi nghe một cái gì vừa đau đớn, vừa xao xuyến, náo nức, vừa hạnh phúc, thiết tha trong tim mình. Tôi không hiểu sao lại có một loại thơ tù như thế, sao lại có thể có một người tù làm thơ được như thế. Hãy thử đọc lại vài bài ở đây trước khi chúng ta tìm hiểu thêm về tâm hồn của kẻ thi sĩ:

hái trà dưới trời mưa tháng bảy

mưa rối mắt đong đưa búp lá nõn

thoáng lơi tay tỉnh thức ngón tê mê

nghe gần gũi sa đà trời tháng bảy

gió xa xôi từ mạn lãng quên về

trưa tháng chín trên đồi cọ

gió chuyển mùa reo lộng đồi cọ

rào rạt mướt xanh ngỡ mưa lay

nhìn nắng loé ánh trên tàn lá

cơn sốt tình rực rỡ đắm say

thơ làm khi đi nuôi cá

gánh cỏ trên vai thơ trong đầu

trời chớm thu hạ mường tượng hồng au

tung hê cỏ vụn trên hồ vắng

băm nát tình si đều nhịp dao

tháng mười cấy rau lấp

bước xuống ruộng hồn bỏ trên bờ

chân giẫm bùn tay cấy thẩn thơ

tháng mười sương giá trắng trời đất

gió hớp hồn bay đỉnh núi mờ

Tôi muốn hỏi, một lần nữa, điều gì trong tâm hồn kẻ thi sĩ đã khiến cho hắn có thể không những sống sót mà còn làm thơ được về những hạnh phúc nhỏ bé mà hắn đã có qua cuộc sống sót kia. Mưa rối mắt đong đưa búp lá nõn. Một câu thơ tám chữ, trong đó hai từ gồm ba âm tiết “mưa” và “đong đưa” là những hình ảnh và nhịp điệu mềm. Cụm động từ dùng như tính từ “rối mắt”, bổ nghĩa cho “mưa”, làm cho ta thấy cơn mưa đan chéo nhau, như những sợi chỉ trắng xoá, chồng chéo, giăng kín, đầy khắp. Không biết cơn mưa thật trong hiện thực đó đã xảy ra như thế nào, nhưng cơn mưa được lọc qua cái nhìn và tâm hồn của Thanh Tâm Tuyền để hiện ra trước mắt chúng ta là một cơn mưa mềm, nhẹ và xanh nõn. Nó làm rối mắt đấy, có lẽ, nhưng nó không làm mất đi được của nhà thơ cái nhìn thơ mộng, tin yêu vào cuộc đời. Nhìn để thấy được những búp lá nõn, biểu tượng của cuộc sống, của sự hồi sinh, phục sinh. “Búp lá nõn” có thể là đối tượng, là túc từ trực tiếp của động từ “đong đưa”, mà chủ từ của động từ này là “mưa”. Nhưng “búp lá nõn” cũng có thể là chủ từ của động từ này trong một cấu trúc nghịch đảo. Nếu nhìn như thế, “búp lá nõn” được đưa vào cận ảnh, tạo một nét sinh động hơn cho nó trong cuộc khiêu vũ dịu dàng kia. Dù thế nào đi nữa, những búp lá nõn chính là hình ảnh nổi bật, đẹp tươi mà nhà thơ muốn đưa vào nhãn giới và tâm giới ta. Trên một cái nền của những dòng mưa trắng xoá.

Người đi hái trà, là kẻ tù nhân, kẻ đang bị cầm hãm, cảm thấy một hạnh phúc kỳ diệu khi chạm tay vào những nét mềm và dịu và nõn và xanh kia của thiên nhiên. Từ sự xúc tiếp dịu dàng và thân yêu ấy, hắn thấy bầu trời tháng Bảy như la đà gần gũi hạ thấp xuống. Trong một không gian của mưa bay rào rạt, sự gần gũi thân tình của trời cao kia với hắn, trong cái tâm thế của kẻ bị vây hãm, hình như cũng là một cái tội, mặc dầu chắc chắn là hắn đã cám đội ân nghĩa thân tình ấy biết bao. Trong cái không gian của đồi-núi-trại-giam, đến cả trời đất cũng có tội. Trời thương người và thu mình xuống thấp, nhưng đó cũng là một sự “sa đà”, buông lơi tình cảm quá trớn, nhất là đối với một người tù. Dù sao, chính nhờ sự thân tình, gần gũi của trời kia mà hắn đã thấy lại được những cơn mộng cũ. “Gió xa xôi” là gì nếu không phải là những cơn mộng cũ từ những nơi chốn tít tắp xa trong quá khứ giờ đây chăng mịt mù gai nhọn của người tù. Tưởng là những cơn mộng cũ ấy đã không còn đất sống, đã trôi dạt mãi mãi rồi “trong lãng quên xanh hút thời gian” [6]. Ðã không thể vượt thoát nổi những hàng rào gai nhọn của cuộc đời này để mà trở về. Nhưng không, chính trong cơn mưa bay của trời tháng Bảy ấy, chính trong cơn “sa đà” của trời đất vì thương xót người tù, tất cả những tha thiết cũ từ mạn lãng quên nào lại tất tưởi vượt thoát tất cả để trở về. Ðể thân và tâm của kẻ đang bị vây hãm được cùng nhau gắn bó, và để cho nước mắt và nụ cười cũng như niềm tin kia còn được tái sinh. Ðó là điều kỳ diệu đã xảy ra trong tâm hồn và trước mắt nhìn của người thi sĩ.

Thi sĩ, như thế, chính là kẻ đã cưu mang, nuôi nấng và gìn giữ được những điều kỳ diệu ở trong lòng. Những điều kỳ diệu ấy chính là chân tướng, bản thể của thực tại, của sự vật. Hãy để thiên nhiên và chân lý (aletheia) tự khai lộ, trình hiện, vén mở ra trước sự tiếp cận, trước mắt nhìn của con người. Hãy để cho cỏ cây hoa lá con dao cái cuốc cái xẻng và mọi sự, mọi vật, mọi tình huống, mọi hiện tượng trong đời, nói chung là tất cả những gì ta chung đụng và sống với, tự tỏ lộ, vén mở trước ta qua sự hiện hữu kề cận giữa ta và chúng. Nhưng, để sự vật hiển hiện ra cho ta, thì, trước hết, ta phải đứng vào một vùng ánh sáng thích hợp. Như trong tư tưởng của Hölderlin được Heidegger minh giải. Con người, đặc biệt nhà thơ, là kẻ thiết lập cái khả kiến, cái vừa ẩn giấu vừa khai mở, cái thiêng liêng vốn bao phủ và cư lưu ngay trong lòng hắn. Hắn thiết lập, sáng tạo, gọi tên cái khả kiến này bằng và qua ngôn ngữ, đặc biệt bằng lời thơ, để có thể nhìn ra, tạo ra những đoá hoa kỳ ẩn. Với ngôn ngữ của mình, kẻ thi sĩ tìm được những đoá hoa ấy, tìm được hạnh phúc mình ngay trong lòng bản thể của thực tại. Những điều kỳ diệu mà hắn nhìn thấy sẽ rực rỡ bay lên, thậm chí có thể bay lên từ ngay trong những hoàn cảnh, tình huống khốn khó nhất.

Và, như thế, trên đồi cọ, tháng Chín, không phải kẻ tù nhân nào cũng thấy và nghe được tiếng “gió chuyển mùa reo lộng đồi cọ.” “Reo” không phải là tiếng của thiên nhiên. Ðó là tiếng lòng của con người. Kẻ đang bị cầm hãm bắt gặp lại được hạnh phúc của chính mình cùng với tiếng reo trong tim kia khi nhìn thấy thiên nhiên trở mùa. Hắn tin vào cuộc đời, vào sức sống, vào niềm tin của chính hắn, của chính con người. Cũng thế đối với “rào rạt”, và “mướt”, và “lay”, và “loé”. Ðó là những điều chỉ cảm nhận được từ trái tim, hay từ mắt nhìn tin yêu vào sự sống.

Cơn sốt tình rực rỡ đắm say. Người tù lên cơn sốt, nhưng đây lại là một cơn sốt khi hạnh phúc quá đầy, quá lớn. Hạnh phúc của một con người tỉnh thức, nhìn thấy thật rõ giá trị của hiện sinh mình. Không có cái nhìn “đốn ngộ” vào trái tim của cuộc sống như thế, người ta không thể có được niềm hạnh phúc tràn lấp kia.

Cũng trong tâm thế ấy, người tù đi gánh cỏ để nuôi cá. Ðấy cũng là một cuộc lao động mệt mỏi, nhưng thơ đã cứu vớt ông. Lúc nào ông cũng có thơ trong đầu. Và còn nữa, cả một bầu trời chớm thu mà ông mường tượng ra có những chỗ đang ửng thơm lên với những nét hồng au như môi má của một người nữ nào đó trong quá khứ. Một người nữ nào đó bất kỳ. Một nét mềm mại và đáng yêu của cuộc sống. Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng / Băm nát tình si đều nhịp dao. Băm cho cỏ vụn nát và tung trên hồ cho cá, hình như ông xem những động tác đó là những nghi lễ của tình yêu, những nghi lễ của đời sống. Giống như ông đang thả bay những giọt lá me, những hạt cốm non của đất trời, trên một con đường tình. Ở đó, ông và người yêu đã có những lần chung bước. Có lẽ, trong khi băm cỏ, ông đã nghĩ đến những mối tình cũ kỹ, xa xưa nào đó. Những cuộc tình trong đời. Ðáng yêu, đáng cười, nhưng cũng đáng nhớ. Ngày đó khi Xuân ra đời một trời bình minh có lũ chim vui. Có lứa đôi, yêu nhau rồi, hẹn rằng còn mãi tươi môi. [7] Tôi thấy Thanh Tâm Tuyền đáng yêu làm sao. Là một kẻ bị cầm hãm, nhưng ông đã sống trong tù như một hành giả, như một thiền sư. Vì tình. Và tình yêu con người ấy đã cứu sống ông để trả ông về với cuộc đời, với những người thân yêu và những gì trìu mến mà ông, như mỗi một người trong chúng ta, đều có và đều thiết tha trân quý.

Tình yêu ấy cứu sống ông trong những lần bị bầm dập, theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen, mà cuộc sống vứt đẩy ông vào:

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi

Chết điếng toàn thân trong giây lâu […]

Mưa giăng tấm lưới trắng dầy khít […]

Gió lạnh tái tê bó liệm chặt

Lả thiếp người quên bẵng xước đau

Ðầm mình trong hạnh của ẩn mật

Mắt hoen nhoà hứng giọt thiên thâu

Dò dẫm lối về đêm tối mịt

Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?

(Ngã trên núi Việt Hồng ở Yên Báy khi đi vác nứa)

Hạnh của ẩn mật. Cái “ẩn mật” riêng trong lòng Thanh Tâm Tuyền. Chính cái ẩn, cái được giấu kín, cái riêng tư, và cái bí mật của riêng mình ấy, đã là những hạnh phúc nhỏ nhoi nhưng bền vững, giúp nhà thơ vượt qua được tất cả mọi khổ đau, khốn khó, để giữ vững lòng mình. Nhà thơ hẳn đã có một “bí quyết”, một cái mã riêng, một cách thế sống ở đời, để nhìn thấy hay tìm được những hạnh phúc “ẩn mật” kia khi vấp phải những gai góc, khổ nạn trong đời.

Tôi nhớ đến những bài thơ xuôi ông làm cho con gái của mình. Một cô con gái ngây thơ, hồn nhiên, chín tuổi, đôi khi đối với bố mình lại như một bà cụ non. Nhưng cô ta lại chính là những gì mà cả đến ngọc ngà và châu báu cũng không thể đánh đổi được. Ông viết trước, trong tù, chờ tặng cho con gái lớn lên:

[…] Chiều xẩm, nhập nhoạng bóng mờ. Mắt tôi như còn vướng mắc quáng loá ban trưa. Con gái tôi ẩn hiện loanh quanh như vệt sáng di động trên nền vách đất đang toả mát (…) Bố không biết làm gì để có món quà cho con gái. Bố chỉ biết làm những bài thơ […]

Cô sinh vào mùa hạ, ngày cuối tháng năm, ở thành phố miền núi.

Mùa hạ. Mùa hạ đó. Mùa nắng ửng cỏ mướt. Như sóng dồi biển gió động, thông rừng nô nức. Muốn bay biến. Nắng đùa nhảy, tuôn nhầu, luông tuồng, từ núi thẫm ngàn rú xuống vực lục diệp rối bời. Trong vườn tược rậm rịt lối, lúc trưa bằn bặt như sẽ chẳng khi nào thức giấc giữa ráo riết gió nắng, trĩu rớt quả chín. Ô, trái quả nồng cay hương lửa tinh mật.

Mùa hạ. Mùa hạ cháy im ắng bất tuyệt.

[…] Bao giờ cô trở lại thành phố miền núi? Hãy về đúng ngày sinh của cô, thiếu nữ thân tình và lạ hoắc với thành phố như những ánh mặt trời xa tít tắp lóng lánh trong mắt cô. Trở về cùng lúc với gió nắng trải óng mượt và bóng rợp lượn lờ triền núi. Mưa rào, giông lốc sẽ vẫn đúng hẹn, tưng bừng. Sẽ vẫn những trò hội xưa, điệu hát cổ đại của thông rừng, những thung cây trái bát ngát chào đón…

Hạnh ngộ.

Cô thủng thẳng bước trong chiều mưa mờ đục. Không trú ẩn. Nước đẫm gương mặt tương tư trầm tĩnh. Ðường phố của mình cô. Cô choàng áo màu đêm núi tím than hay che mái dù màu trăng úa? Cô có nhớ đeo sợi dây treo mặt đá đen quanh vòng cổ, như tròng mắt chết thời chiến tranh mà bố cô, chú cô bị giạt đắm? Cô có nhớ đeo chiếc vòng tay bằng vỏ đạn khắc trạm nhũ danh và dàn nhạc đại hoà tấu? Nhạc khúc Sinh Mệnh bi tráng bố cô từng nghe, nghe thấu hết thảy mọi nỗi trong cõi đày ải. Cô có nghe? […]

Có lẽ những hình ảnh như thế, cùng những hình ảnh khác nữa, đã neo giữ mỗi một chúng ta lại trong cuộc đời này. Nó làm chúng ta kiên nhẫn hơn, dẻo dai hơn, biết chịu đựng hơn. Cương quyết hơn. Và sống con người hơn.

Trong cái tâm thế “thiền lao” (để đối với “thiền hành”, “thiền toạ”) ấy, người tù lao động thân xác nhưng tâm trí ông bay đến những nơi rất xa. Ðọc lại bài “Tháng Mười cấy rau lấp”, câu đầu, Bước xuống ruộng hồn bỏ trên bờ. Ông để hồn trên bờ cho những làn gió hay những bè mây trên cao kia neo giữ? Ở đây, đọc câu cuối của bài thơ, gió hớp hồn bay đỉnh núi mờ, ta thấy yêu mến ông quá. Ta nhớ Hàn Mặc Tử cũng đã để cho hồn mình bay… tứ tung như vậy. Tôi dìm hồn tôi xuống một vũng trăng êm… / Rồi bay lên cho tới một hành tinh / Cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình. Thân xác ông đang cấy rau lấp vào tháng Mười, nhưng tâm hồn ông đã bay xa mất hút. Tôi mong ông gặp được những điều yêu dấu của cuộc đời trong những chuyến để hồn bay xa như thế.

Nếu không để hồn bay xa, Thanh Tâm Tuyền lại có cái phong thái thơ mộng đáng yêu của Juan Ramon Jimenez, nhà thơ xứ Andalusia, Tây ban nha, đoạt giải Nobel văn chương vào năm 1956. Jimenez có tập thơ xuôi Platero y Yo (Con Lừa và Tôi) thật tuyệt vời, trong đó, nhà thơ lang thang, rong ruổi khắp nơi với con lừa của mình. Nhà thơ làm bạn với đủ các loài vật như bướm trắng, chim én, chim sẻ, vẹt, ngựa, lừa, chó, dế, vịt, chim thuý yến, v.v., cũng như với bao nhiêu trẻ con, các bé trai và các bé gái. Ðọc cuốn sách ấy, tôi nghĩ ai cũng yêu thương Jimenez. Qua bài thơ sau đây, cũng lại là một bài thơ tù, Thanh Tâm Tuyền làm tôi thấy ông cũng đẹp đẽ và đáng yêu như người thi sĩ xứ Andalusia kia:

trưa, tù và bướm

trưa bốc cháy loà đồng đất rung

chênh chao khói nắng bướm bay vờn

bướm dại quẩn quanh bên tay cuốc

đáp đậu bàn tay xoè ngửa không.

Bài thơ chỉ có bốn câu mà nhà thơ cho thấy được cái đối cực giữa cơn nắng nung người của đồng đất và cái không gian mường tượng ra là có vẻ êm mát vì có cánh bướm vờn bay. Nếu không gian đó không thật sự êm mát thì, với cánh bướm được thả để bay vào bài thơ như thế, Thanh Tâm Tuyền đã làm cho cái không gian ấy như có tiếng gió nhẹ. Mát và thơm thơm mùi phấn hoa. Có lẽ tiếng gió đã phát ra từ đôi cánh bướm mỏng manh kia. Nắng bốc cháy loà khiến cho đồng đất phải rung lên, như miếng sắt nguội đang được đưa vào lửa. Nhưng hai âm “chênh chao” nhẹ hẫng và như muốn bay lên ở câu thơ thứ hai kia đã làm cho không gian bỗng như nhẹ thênh lên, không còn bị cái nắng cháy loá kia đè xuống nữa. Từ đó, cánh bướm len lén bay vào chấp chới bên tay người tù đang cuốc đất hay cuốc cỏ giữa đồng. Hình ảnh này làm cho tôi nhớ đến một nhân vật luôn được những cánh bướm bay theo trong Cien Anos de Soledad (Trăm năm cô đơn) của Gabriel Garcia Marquez.

Câu cuối, đáp đậu bàn tay xoè ngửa không, mang biện pháp tỉnh lược thật đẹp. Thanh Tâm Tuyền đã dùng thủ pháp cắt bớt đi một vài nét của bức ảnh, khiến cho nó trở nên hơi nhoè mờ đi, hợp với ấn tượng mà ông đã tạo nên qua từ “loà” và “quẩn quanh” trong những câu thơ trước đó, khiến tất cả tạo nên một hiệu ứng nhoè mang đầy nét ấn tượng nghệ thuật. Câu cuối, nếu là văn xuôi, có thể được viết thành: [Cánh bướm] đáp [xuống và] đậu [trên] bàn tay xoè ngửa [lên] không [của tôi]. Cũng có thể nói đó là biện pháp giấu đi liên từ và giới từ của nhà thơ. Biện pháp này Thanh Tâm Tuyền đã dùng trong thơ của mình suốt từ những năm ’50 với những bài thơ tự do đầu tiên của ông cho đến mãi sau này. Ðây là một thủ pháp đặc biệt mà Trịnh Công Sơn cũng hay làm với những ca từ và hình ảnh của mình.[8]

Thanh Tâm Tuyền là một người biết cách làm thế nào để sống còn khi phải sống trong cuộc đầy ải. Ông biết sống tỉnh thức để thấy được những nét đẹp, dù là nhỏ nhoi, của cuộc đời. Ông biết chấp nhận, chịu đựng, kìm nén, kiên nhẫn để vượt qua. Ông biết tách thân xác và tâm hồn mình làm hai để tâm hồn có thể vẫn vươn lên và, cuối cùng, cứu được cái thân xác thường bị đày ải và có lúc hẳn là cũng phải đắm chìm trong cuộc lâm luỵ kia. Một trong những cách để “bay lên” và “bay xa” là tạo ra mộng. Tạo ra mộng trong cách ngắm nhìn của mình đối với hiện thực, hoặc tạo ra mộng bằng cách biến hiện thực, trong những lúc có thể, thành ra những nét mộng. Những điều này đôi khi cũng có thể nhoè lẫn vào nhau. Như bài thơ dưới đây:

bến mộng

trờ tới bến sông

loã vầng trăng bạc

vằng vặc đáy nước

lặng lờ bầu không

bờ xa hiện hoặc

trời tạnh buông lung

một dải sông khác

lạnh trăng khoả thân

trong suốt trời sông

vô vàn bóng nguyệt

đêm lộng gương tạc

nhẹ thênh hình dung

Loã vầng trăng bạc. Loã, là một cách nhìn về hiện thực. Hiện thực đây là con trăng nơi bến sông. Trăng khoả thân thì lại là một cách biến hiện thực thành một hình ảnh khác. Có giống như Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa / Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô , hay Mây chết đuối trong dòng sông vắng lặng / Trôi thây về xa tận cõi vô biên, hay Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm / Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe, hay Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Ðầy mình lốm đốm những hào quang của Hàn Mặc Tử không?

Còn với bài lục bát dưới đây, tặng một người bạn hoạ sĩ, thì, mặc dù tả một hiện thực rất đời thường, rất thiết tha, ta thấy rõ là Thanh Tâm Tuyền đã nhìn cái hiện thực tầm thường ấy với cặp mắt rất riêng, rất nhậy cảm và đầy nét nghệ sĩ của mình. Một hiện thực đang từ chỗ rất tầm thường là một cơn mưa trong khu phố nhỏ, với những ánh chớp và tiếng sấm rền, trong một không gian co quắp, nhá nhem và u tối buồn, bỗng trở nên một bức tranh sinh động đầy ắp tình nghĩa. Hơn nữa, nó còn biến cái hiện thực tối và ướt ấy thành một không gian tuyệt vời thơ mộng. Thanh Tâm Tuyền, trước hết đưa vào bức tranh một ánh mắt. Ánh mắt nhìn của người nghệ sĩ. Sau đó, điều quan trọng hơn, ông đưa vào trong bức tranh ấy một quả tim. Quả tim của riêng ông. Và, từ đó, người ta đã nhìn ra được bao nhiêu bóng dáng ân tình của kỷ niệm, của quá khứ, của mộng và mơ, lần lượt bước về. Lay gọi.

trú mưa trên phố hoà hưng

đột nhiên rào trận thiết tha

lạc trên phố bạn nhớ nhà thân quen

trú chân hiên dột ướt mèm

cửa sau lưng đóng nhá nhem mưa dầm

mưa như xưa xối âm thầm

réo um gió bạt nhoè câm bóng hình

cố tri trời dội vong tình

âm u sấm lảng nhạt dềnh chớp khuya

đạp xe lặn lội đường về

lênh đênh cây cối bộn bề gió lay.

Thật là một bức tranh mưa, nhoè nhạt nước và nhá nhem hình. Một cơn mưa với sấm chớp và rất nhiều tiếng gió. Vậy mà tất cả hình như vẫn vô thanh và rất âm thầm trong tim. Cơn mưa như những tiếng mưa xưa, âm thầm, ướt xối và dầm chan, trong trái tim một người. Câu réo um gió bạt nhoà câm bóng hình là một câu thơ thật hay. Hình ảnh câm và nhoà của không gian, vạn vật, đã ôm chặt và cất giấu vào lòng nó những âm thanh của thế giới hiện tượng kia. Những từ “lảng” và “nhạt dềnh”, để nói về sấm và chớp, mang đậm màu sắc âm nhạc và hội hoạ trong chúng. Như những bệt màu chỗ nhoà nhạt, chỗ loé sáng, trong tranh của J.M. William Turner. Trong thơ của Thanh Tâm Tuyền, những hình ảnh ấy như nửa gợi tả nửa ấn tượng, Sấm chớp ở đây như có một linh hồn. Một linh hồn thao thiết. Và chính là sự thao thiết của đất trời, của thiên nhiên như thế đã làm cho cuộc trở về, sau cơn mưa, của thi sĩ không còn nằm trong bình diện của hiện thực nữa. Nó lênh đênh chìm nổi với những lớp sóng của gió và lá bập bềnh bao quanh. Và nó vất đẩy thi sĩ vào một thế giới như đang muốn bay lên với gió lá và những vì sao có lẽ vừa xuất hiện trở lại trên trời cao kia sau cơn mưa. Tôi chắc hẳn là người thi sĩ, lúc ấy, có cảm giác như đang đạp xe lên trời, trong mầu xanh lênh đênh của cây lá và gió lộng, chứ không phải là đạp xe trên những con đường nhá nhem và lầy lội dưới đất nữa.

3

Ðọc thơ Thanh Tâm Tuyền, những ngày xưa, thời ông còn đầu cao mắt sáng vào đời, ta đi vào đời bằng thơ tự do, bằng sự cởi bỏ tất cả những lề luật, những khuôn mẫu trói buộc, những thể thức mệt nhoài, để lên đường đi tìm một dải đất mới, đến những ngày ông đi vào giữa cơn lâm luỵ và vượt lên, vượt qua hết tất cả những gian truân, xót xa, đau khổ, với sự chịu đựng, nhẫn nhục, kiên cường và thơ mộng của mình, tôi cảm thấy yêu thương ông thật nhiều. Sau những ngày giương cao ngọn cờ của tuổi trẻ để đi tìm và khám phá cho mình một dải đất mới, ông đã trở về với những gì thâm trầm, u nhã, cổ điển, đằm thắm và sâu xa nhất trong những vẻ tầm thường và giản dị của nó. Ông dùng lại những thể thức cũ, nhưng cái ngôn ngữ và tinh thần khai phá, làm nên con người của Thanh Tâm Tuyền, vẫn luôn còn ở đấy. Trong khoảng trên mười lăm năm tỵ nạn ở Mỹ, ông đã giữ lại cho mình sự im lặng. Lúc ấy, thơ trở thành vô thanh. Giờ đây, ông thực đã đi hết con đường trần gian của mình.

Ðọc lại hầu như tất cả những bài thơ của ông, từ những ngày xa xưa, cho đến những bài cuối cùng mà ông đã làm, tôi thấy rõ Thanh Tâm Tuyền là một thi sĩ, đã hẳn, tôi còn thấy ông giống như một nhà tiên tri. Ông đã nhìn thấy những điều trước khi chúng xảy ra. Chẳng hạn khi ông viết, trong Liên-Ðêm-Mặt Trời Tìm Thấy, đoạn 4:

[…]

Chúng tước lấy tiếng nói

Giam tôi trong bóng tối

Tôi khóc không ra lời

Và tôi đi lang thang

Tôi đi tìm tiếng nói

Cho cổ họng của tôi

Tôi nhìn người tuyệt vọng

Tôi nhìn người khẩn cầu

Linh hồn tôi rách nát

Lời nói còn ở đâu …

Bây giờ, sau “thời đại động”, chúng ta đã thấy ra là những điều ông viết chính là từ một cái nhìn linh cảm, nếu không muốn nói là tiên tri, về sự thực. “Thi sĩ”, trong tiếng La-tinh, là “Vates”, một nhà tiên tri thấu thị, nhìn ngắm và chiêm nghiệm các tư tưởng siêu nhiên về vũ trụ, về thế giới; đồng thời, từ này cũng mang nghĩa “sáng tạo” trong nó. Tất cả mọi thi sĩ, nhìn ở một khía cạnh nào đó, đều là những nhà tiên tri. Nhưng với Thanh Tâm Tuyền, tôi thấy điều đó lại càng đúng. Chỉ có điều, ông không phải là một nhà tiên tri sống xa rời quần chúng, xa rời con người. Ông đã sống lăn lộn giữa chúng ta, cùng khóc cười hò hét hân hoan cũng như đã cùng chảy những giọt lệ sầu thảm với tất cả mọi người. Ông đã đi vào cơn lâm luỵ, và rồi đã đi ra khỏi nó, có lẽ, cũng với rất nhiều xót xa và đau khổ. Như rất nhiều người trong chúng ta. Có lẽ, qua những cuộc lâm luỵ của mình, ông cũng đã được thanh tẩy, như một số người trong chúng ta đã tìm thấy điều đó. Và ông đã để lại những bài thơ. Những bài thơ có lẽ là những bằng chứng đẹp đẽ nhất về một cuộc đời tha thiết mà ông đã đi qua. Và đã để lại. Nó có như một tấm áo mà người ta có thể cởi ra và để lại với đời?

Tôi chợt nhớ đến Almustafa, kẻ tiên tri của Kahlil Gibran. Ngày rời bỏ thành Orphalese để về trở lại hòn đảo, nơi người đã chào đời, Almustafa đã nghĩ gì?

Làm sao ta có thể ra đi thanh thản, bình an, mà không chút buồn đau? Làm sao ta có thể rời bỏ thành phố này để lên đường mà không phải gánh chịu một vết thương trong hồn mình?

Dài làm sao là những ngày khổ đau mà ta đã gánh chịu giữa những bức tường thành này, và dài làm sao là những đêm tối cô đơn. Có kẻ nào lại có thể đang tâm rời bỏ những nỗi đau và sự cô đơn của mình mà không xót xa nhớ tiếc?

Biết bao nhiêu mảnh hồn mình ta đã thả vung vãi trên các đường phố này, và biết bao nhiêu những đứa con của khát vọng ta đã bước đi trần truồng giữa những ngọn đồi này. Ta sẽ không thể rời xa chúng mà không cảm thấy nặng lòng đau đớn.

Chẳng phải là một tấm áo mà ta cởi bỏ ra ngày hôm nay, nhưng đó là một lớp da mà ta tự tay lột xé.

Chẳng phải là một ý tưởng mà ta bỏ lại phía sau, nhưng là một trái tim mà đói khát đã làm cho trở thành dịu ngọt. [9]

Có phải thế không, hỡi người thi sĩ. Có phải là Thanh Tâm Tuyền cũng đã từng có tâm trạng như thế trước khi ra đi. Trước khi lên đường trở về nơi mà từ đó ông đã đến với chúng ta, với cuộc đời này.

4

Thanh Tâm Tuyền, cuối cùng, cũng đã thực hiện được cuộc lên đường có lẽ cũng đầy khó khăn của mình như kẻ tiên tri, như vị ngôn sứ kia. Và cũng như mỗi một chúng ta, có thể ông cũng còn có quá nhiều thiết tha yêu dấu đứng bên đời vẫy gọi mà ông – cũng như mỗi một người trong chúng ta – cảm thấy vẫn chưa trả hết ân tình. Người thường đã vậy, một nghệ sĩ, một nhà thơ có thể còn đầy ắp những nỗi thiết tha hơn. Mong là cuộc ra đi, hay cuộc trở về, của ông giống như những gì ông đã nhìn thấy, như trong một tấm tranh, mà ông đã viết để tặng một người bạn hoạ sĩ nhiều năm trước:

Trở về dịu dàng điệu màu sắc

Vàng xa gợn gió rét hoang mang

Xanh thất thần xanh ngây hạnh phúc

Mặt tình nhân tươi rói kinh hoàng

Trên lối mòn quanh chìm bất giác

Gió bay lả tả bụi thời gian

Thanh thoát cơn say rũ tro mộng

Rừng đêm bùng cháy rỡ mây hồng.

(Bài Tặng Hoạ Sĩ)

Thi sĩ, hãy lên đường thanh thoát. Thanh thoát như những tiếng mưa rơi rất nhẹ ngày xưa, ta cười đổ mưa một mình, trong những buổi sớm mai Sàigòn rất nhiều bóng lá. Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát / Sớm mai khua thức nhiều nhớ thương. Thanh thoát như những tiếng kèn đồng tinh khôi ta thổi cho cuộc lên đường.

Thanh Tâm Tuyền, lần cuối, xin từ biệt anh.

Hãy khép mắt khép mắt thật khẽ

Có thấy chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu vào những giấc mơ

Hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu… [10]

Tustin Ranch, Calif.

30.III.2006

Nhuận sắc: 2023

___________________________________________________

Chú thích:

(*) Xem thêm tiểu luận “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền” của Bùi Vĩnh Phúc. Cùng với bài này, “Cái Tôi ẩn mật và Dương bản Thiên nhiên ngày vây hãm trong Thơ ở đâu xa của Thanh Tâm Tuyền, cả hai được viết, quấn quít và nương tựa nhau trong một tổng thể (mặc dù có vẻ khác nhau trong phong cách và hướng triển khai), với hy vọng phản ánh được một cái nhìn tương đối đầy đủ từ nhiều góc cạnh, trong mắt riêng của người viết, về một đời thơ của Thanh Tâm Tuyền.

[1] Thơ Pablo Neruda:

[…] cuando desde lo alto

se avecina la noche, cuando el solitario poeta

a la ventana oye correr el corcel del otono

y las hojas … pisoteado crujen en sus arterias,

hay algo sobre el cielo…

(Vuelve el Otono)

[2] Thơ Phùng Quán:

Có những giây phút ngã lòng

Tôi đã vịn câu thơ mà đứng dậy.

[3] Bài viết này, gần 40 năm sau đó, đã được phát triển, bổ sung và mở rộng (với tựa đề khác là “Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền”), từ bài viết gốc năm 1986, với tựa “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, theo tinh thần tựa đề “L’Homme, cet Inconnu” (1935) (Con Người, kẻ Xa Lạ ấy) của Alexis Carrel (Nobel 1912). Một vài chủ đề đã được đưa vào, hay tô đậm, qua một cái nhìn hồi cố và tái thẩm, để làm đầy đặn và làm rõ hơn các đường nét về thơ Thanh Tâm Tuyền, vốn, trong bản gốc nguyên thuỷ, đã được vạch ra nhưng chưa được khai thác kỹ.

“Kỳ”, trong “kỳ việt”, có thể được hiểu là “kỳ dị”, “kỳ quái”, hay “kỳ khôi” (“khôi”, theo nghĩa “ngọc quý”, hay “lớn lao”), “kỳ bí”, “kỳ diệu”, một cái gì lạ lùng, khác với, hoặc đi xa hơn, vượt khỏi cái bình phàm, cái thường tình. Còn “việt”, xin hiểu theo nghĩa là “vượt qua, băng qua, vượt lên” như trong “việt dã” (băng đồng), “siêu việt” (vượt lên trên), hay “phiên san việt lĩnh” (翻山越嶺 trèo đèo vượt núi).

[4] Về mặt ngôn ngữ, đơn vị ngữ âm âm đoạn (segmental) nhỏ nhất là âm (âm tố), sau đó là âm tiết, âm tự, âm cú. Các đơn vị âm đoạn này luôn gắn với các âm vị siêu âm đoạn (suprasegmental) là thanh điệu, ngữ điệu, trọng âm. Thanh điệu được miêu tả bằng hai tiêu chí là cao độ và đường nét. Về mặt cao độ, trong tiếng Việt, có thanh điệu cao (ngang, ngã, sắc) và thanh điệu thấp (huyền, hỏi, nặng). Về mặt đường nét (âm điệu), có thanh bằng phẳng (ngang, huyền) và thanh không bằng phẳng hay thanh trắc (ngã, sắc, hỏi, nặng). Thanh trắc lại chia thành thanh gãy (ngã, hỏi) và không gãy (sắc, nặng).

[5] Trong bài này, để nói gọn, trong những hoàn cảnh thích hợp, một số từ “âm” được dùng để thay cho từ “âm tiết”.

[6] Thơ Tô Thuỳ Yên:

… Nên ta phó mặc cho trời đất

Trời đất vô ngôn lại bất nhân

Nên ta lẳng lặng đi đi khuất

Trong lãng quên xanh hút thời gian…

(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)

[7] Khúc Hát Thanh Xuân, nhạc ngoại quốc (One Day). Phạm Duy đặt lời Việt.

[8] Xem thêm phần phân tích về nghệ thuật ngôn ngữ của TCS của tác giả bài này trong chuyên luận Trịnh Công Sơn, Ngôn Ngữ & Những Ám Ảnh Nghệ Thuật, California: Văn Mới, 2005.

[9] Thơ Kahlil Gibran:

“How shall I go in peace and without sorrow? Nay, not without a wound in the spirit shall I leave this city.

Long were the days of pain I have spent within its walls, and long were the nights of aloneness; and who can depart from his pain and his aloneness without regret?

Too many fragments of the spirit have I scattered in these streets, and too many are the children of my longing that walk naked among these hills, and I cannot withdraw from them without a burden and an ache.

It is not a garment I cast off this day, but a skin that I tear with my own hands.

Nor is it a thought I leave behind me, but a heart made sweet with hunger and with thirst…”

(Kahlil Gibran, The Prophet. New York: Alfred-A-Knopf, 1979. Phần tiếng Việt tại đây do tác giả bài này dịch.)

[10] Những câu thơ trong bài, in nghiêng, không ghi chú thích, là thơ của Thanh Tâm Tuyền.

Vài bài thơ nên đọc thêm trong tập Thơ ở đâu xa trước khi chấm dứt bài này

chiều nắng hanh trên đồi hương nhu

Tuốt những chùm bông hạt già úa

Ðộng nhánh cành trơ trụi xác xơ

Hè cháy rụi sót hoa nám lửa

Chiều gió hanh con mắt im ngơ

Thoáng hương gắt bắt nhớ tha thiết

Mái tóc ẩm dầy đầu thềm rũ hong

Ðồi đột ngột rực nắng mê mệt

Ðêm lạnh về thao thức theo trăng.

ngã trên núi việt hồng ở yên báy khi đi vác nứa

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi

Chết điếng toàn thân trong giây lâu

Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới

Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu

Duỗi xoải chân tay gối trên nứa

Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau

Tưởng chừng thi thể ai thối rữa

Hồn viển vông chẳng chút oán sầu

Mưa giăng tấm lưới trắng dầy khít

Làng xóm dưới núi ở phương nào?

Gió lạnh tái tê bó liệm chặt

Lả thiếp người quên bẵng xước đau

Ðầm mình trong hạnh của ẩn mật

Mắt hoen nhoà hứng giọt thiên thâu

Dò dẫm lối về đêm tối mịt

Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?

bài ru tháng năm

Tháng Năm mưa núi nhộn nhịp phố

Khúc dạo xanh tươi mở vào hạ

Hè cao nguyên chín mùi độ xuân

Dòng nhạc tuôn tràn điều niềm nở

Tháng Năm nắng trong ủ mật hương

Óng biếc sau mưa những rừng thông

Thiếp mê tình tứ trên đồi cỏ

Ngày nhởn nhơ khoác áo huy hoàng

Tháng Năm nườm nượp gió xa lạ

Rủ rê mặt trời về hớn hở

Trong vườn nhốn nháo giọng trăm miền

Ngất khuya còn nỉ non hàn huyên

Tháng Năm ghé tạt cánh bão tố

Giông trốt buông thùa đến suồng sã

Thú dữ từng bầy động cỡn đêm

Hoan lạc reo quần thảo rừng điên

Tháng Năm về dặt dìu quên nhớ

Mưa sao trút sáng biển soi im

Tháng Năm về nhặt khoan điệu cũ

Mây bão xô lồng trăng lênh đênh

Tháng Năm về đong đưa tâm sự

Võng đưa trầm bổng vực thời gian

Tháng Năm về du dương sầu khổ

Sinh nhật con mẹ khóc mơ màng

5/81

 

Văn Thanh Tâm Tuyền:

Nghệ Thuật Đen (trích đoạn)

Một Chủ Nhật Khác (trích đoạn)

 

Nghệ Thuật Đen (trích đoạn)

[…] Nghệ thuật trước hết là một lối nhận thức đời sống. Nhận thức nào cũng bắt đầu bằng sự chia lìa cần thiết giữa một ý thức và đối tượng của nó. Cấp độ của sự nhận thức cao thấp là tùy theo sự chia lìa ấy sâu xa hay hời hợt. Hằng ngày người ta sinh sống trong một thế giới nhân loại được xếp đặt quy định trong một trật tự được tự nhiên hoá không nghi ngờ không dò hỏi, người ta sống yên ổn thoải mái với những thói quen, tiếp nhận hạnh phúc cũng như sự phiền muộn như những trái cây ngon ngọt hay đắng chát của Tạo Hoá ban cho, nhưng rồi một cơ hội nào đó trật tự kia bị xô lệch bởi những người khác, người ta có thể ngạc nhiên rồi quên đi khi trật tự vãn hồi, người ta có thể hoảng kinh vì không quên được trước cái trật tự giả tạo. Người ta cảm thấy từ đấy sự chia lìa giữa mình với đời sống xung quanh, giữa mình với mình, người ta tự hỏi, người ta cố gắng tìm cách trả lời, người ta hoài nghi. Như một cơn địa chấn – nói theo Nietzsche – con người lúc bấy giờ thấy mặt đất điên đảo dưới chân mình, một mình mình gánh nặng cả đời sống trên hai vai, nỗi hoảng kinh thất thần của chàng Roquentin trong tác phẩm của Sartre lan tràn ra bên ngoài như thế đó, chàng nhìn lọ mực để trên bàn, nhìn bàn tay của mình, cái mặt cái miệng của kẻ khác, cái rễ cây nơi công viên, những sinh vật hết sức tự nhiên đối với mọi người trở nên hãi hùng đối với chàng.
Nghệ thuật đen bắt đầu bằng một ý thức chia lìa ghê gớm đó. Chia lìa ghê gớm thế nghĩa là gì? Đó là một bệnh trạng của trí thức thời nay chăng? Không. Đó là khởi nguyên của ý thức là mầm mống của thay đổi, của sáng tạo. Sự chia lìa ghê gớm kia là điều kiện cho một nhận thức sâu xa hơn về đời sống, rũ bỏ những huyễn ảnh của kẻ bấy lâu ngồi trong hốc đá chỉ nhìn những bóng chiếu in trên vách mà tưởng là sự thật. Triết lý luôn luôn là một sự khởi đầu, kẻ tới sau muốn lật đổ áp lực người thuở trước. Nghệ thuật đối với các tác giả lớn cũng là một sự khởi đầu. Nghệ thuật gần gũi với triết lý ở điểm này. Bởi thế không lấy làm lạ thứ nghệ thuật tầm thường là thứ nghệ thuật không có một nhận thức về đời sống, hay nhận thức đời sống theo những giản đồ được quy định từ trước. Khi Dostoievsky nói người ta chỉ sáng tạo được trong đau khổ, hãy hiểu nỗi đau khổ ấy là sự chia xé tan hoang của một ý thức tận trong phần sâu hút của nó bơ vơ trơ trọi ngoài đời sống muốn trở về gia nhập nhưng không thỏa mãn với trật tự hiện hữu và chưa nhìn thấy cái trật tự tìm kiếm.
Sự khác biệt giữa lối nhận thức nghệ thuật và lối nhận thức triết lý là: lối nhận thức thứ nhất thiên về cụ tượng, cố gắng thâu tóm lấy sự toàn thể của thực tế lúc xuất hiện trong một ý thức khởi nguyên thông suốt – một thứ trực giác, theo ngôn ngữ thông thường –; lối nhận thức thứ hai thiên về quan niệm, cố gắng vượt từ những kinh nghiệm riêng tư đạt tới những ý tưởng chân xác phổ biến nhờ sự can thiệp của lý tính trong ý thức bằng sự sử dụng luận lý. Lối nhận thức của nghệ thuật, so với lối nhận thức triết lý, tất nhiên là mơ hồ hẹp hòi, nhưng lại giữ được tính cách cụ thể mạnh mẽ xúc động, tránh xa sự trừu tượng, cuộc phiêu lưu tách rời khỏi thực tế của một ý thức mãi đuổi theo sự tuyệt đối mà ra khỏi thế giới nhân loại lúc nào không biết. Nhận thức triết lý về đời sống ở một triết gia bao giờ cũng đến sau một nhận thức theo lối nghệ thuật đen ở nơi người ấy, nghĩa là một sự đột khởi xé toang ý thức dìm nó vào một cơn khủng hoảng đảo điên trong một thời khắc đặc biệt nào mà một kinh nghiệm rất nhỏ bé đơn giản hiện lên tóm thâu cả ý nghĩa của một đời một cách chập chờn kỳ lạ, trong bóng tối đen đặc của giao động đã rực rỡ ánh sáng; nhận thức triết lý sau này tới để phân giải để khơi sáng cái nhận thức khởi đầu ấy. Như thế sẽ không ngạc nhiên khi thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của Lão Trang trong nguồn cảm hứng của thi ca xưa – bởi lối nhận thức của hai triết gia này rất gần với lối nhận thức của Sartre là người có “khiếu thực tế” (sens du réel) bởi bên cạnh những tác phẩm triết học công trình xây dựng thuần trí thức, ông thường quay về với lối nhận thức khởi đầu bằng những tác phẩm văn chương.
Vậy nghệ thuật là một lối nhận thức đời sống riêng, có nguồn giống triết lý, những nghệ thuật lớn từ ngàn xưa vẫn phảng phất cái không khí siêu hình là thế. Nhưng từ đây có thể nhìn rõ sự phân ly giữa nghệ thuật đen và nghệ thuật xưa.
Bởi nghệ thuật gần gũi với triết lý, chỉ cần một bước cố gắng của ý thức là có hy vọng tới (nhưng là một bước tự sát của nghệ thuật) nên nghệ thuật xưa có khuynh hướng muốn đồng hoá với triết lý. Phải đặt sang bên hội họa và âm nhạc, những nghệ thuật mà sự đồng hoá với triết lý là điều không thể quan niệm nổi, những người trong hai ngành này có thể có ý thức siêu hình nhưng sự thể hiện qua những chất liệu đặc thù là màu sắc cùng âm thanh đã giới hạn rõ ràng phạm vi của họ; chỉ còn văn chương vì cùng sử dụng ngôn ngữ nên sự tràn lấn giữa hai phạm vi thật dễ dàng. Nhưng ngay trong lĩnh vực văn chương, cái tham vọng của nhà văn muốn đồng hoá văn chương với triết lý bao giờ cũng dẫn tới sự thất bại trên bình diện nghệ thuật – không kể đến thứ vạch đồng hoá với luân lý hay với chính trị là thứ phản-văn-chương, bởi nó chẳng mang tới một nhận thức nào về đời sống, nó chỉ minh họa cho một nhận thức đã được quy định giản lược từ trước.

[…] Nghệ thuật đen chính là cái ý thức siêu hình trước những cảnh ngộ trong đời sống hôm nay, là biểu thị sự tự do của những con người bằng xương thịt trong những tình thế có thực của kiếp người, là lời kêu gọi cất lên cùng mọi người trong cuộc hành trình lịch sử phải sống.
Bởi đó nó bi đát phẫn nộ, nó suồng sã dục tình, nó vô luân trắng trợn. Tại sao vậy?
Đã có một thời nghệ thuật chỉ là ý thức thưởng ngoạn trước đời sống. Người làm nghệ thuật tách mình ra khỏi đời sống để nhìn ngắm nó một cách khách quan tìm lấy cái lý tuyệt đối vượt ngoài tính cách vô thường của vạn vật. Nghệ thuật này thường tìm về gần với tạo vật thiên nhiên vì ở đấy người ta tìm được một trật tự tự nhiên, dẹp được nỗi bàng hoàng của ý thức, thả cho ý thức được thảnh thơi ghi nhận lấy những vẻ Đẹp kín đáo vẫn có sẵn ở quanh mình. Nếu trước thiên nhiên tạo vật nỗi kinh hoàng của ý thức vẫn trỗi dậy, bước thêm bước nữa nghệ thuật này tìm tới tôn giáo, ở đấy những lý lẽ tuyệt đối tạo trong một trật tự đời đời không còn phải hoài nghi nữa. Tóm lại, nghệ thuật thoát từ đời sống cụ thể ra ngoài tự nhiên rồi bay bổng lên trời. Từ cái ngôi cao vút nhìn xuống đời sống – bởi nghệ thuật này vẫn không quên nổi đời sống – nghệ thuật làm hiển hiện cái lý tuyệt đối, tinh lý của đời sống chỉ là phản ảnh của cái thế giới tuyệt đối trên kia mà thôi. Người làm nghệ thuật bấy giờ đứng ở quan điểm Tạo Hoá, từ nhận thức cho đến cách thể hiện. Người ta đặt những quy luật chặt chẽ cho nghệ thuật, tìm ra những ước lệ – những yếu tố lý tưởng vĩnh viễn – mà ở nơi ấy đời sống bị tước bỏ nghèo nàn chỉ còn là một mớ ý niệm ký hiệu xếp đặt theo một khuôn mẫu bất biến. Ở nghệ thuật này, đời sống thường nhật, những sự vật nhỏ nhặt cụ thể, những cá nhân hèn mọn, những con người có xúc cảm có bản năng chỉ là những sinh vật mang theo những ước muốn những khát khao sát trên mặt đất, bị khinh bỉ, bị gạt bỏ. Nếu đôi lúc nghệ thuật có nhìn tới nơi này, là với một lòng xót xa của kẻ bề trên, nghệ thuật này có diễn tả sự xấu xa ghê tởm của xã hội cũng cố tạo những rung động thuần khiết, nhưng rung động có tác dụng đẩy thêm con người xa lìa sự sống hiện hữu, một rung động rất Đẹp. Người làm nghệ thuật không còn là một tự do biểu diễn đời sống, với một nhận thức thành nề nếp hoá ra không còn là nhận thức nữa, hắn chỉ còn biết theo đuổi cố gắng đạt tới bằng mọi xảo thuật cái thế giới lý tưởng, thế giới Nghệ Thuật (viết hoa), thế giới Đẹp không dính dáng tới cái kiếp người hèn mạt của chính hắn và của người quanh hắn. Nếu chẳng may trong thời kỳ này, một vài hiện tượng đặc biệt xảy ra: Có những người ngoảnh mặt với cái thế giới tuyệt đối kia để nhìn thẳng vào đời sống đang ngọ nguậy xung quanh da thịt mình, thì thái độ của những kẻ bảo vệ thứ nghệ thuật viết hoa nói trên hoặc là mang con ngáo ộp luân lý ra để nạt nộ hoặc không thể chối cãi được về giá trị của công trình sáng tạo, họ chỉ còn cách kéo nó vào cái thế giới Đẹp của họ và làm ngơ trước cái sự sống ghê tởm (theo ý họ) chứa đựng trong nó.

[…] Cái tính chất đen đầu tiên của nghệ thuật hiện nay là sự bi đát đến phẫn nộ ít thấy ngày trước. Đừng giải thích vội vàng bằng sự bệnh hoạn của cá nhân, cũng không hẳn hoàn toàn là một tâm trạng của thời đại. Cũng đừng vội chê trách nghệ thuật đen là thứ chỉ đưa ra sự bế tắc, một thứ thuốc độc giết mòn tinh thần của người đọc. Khi nghệ thuật đen nhất định trói mình vào trong đời sống thực, nhất định trung thành với cái ý thức siêu hình phát động nguồn sáng tạo; không chịu dấn thân vào cuộc phiêu lưu thuần lý để đi tới chốn tự sát trong triết lý, nhận thức trực tiếp toàn diện một cảnh ngộ cụ thể bằng ý thức khởi đầu ấy, tất nhiên đối với những người vẫn quen tìm ở nơi nghệ thuật sự biểu diễn một trật tự sẵn có hay tìm thấy, một lời giải đáp minh bạch – nói theo tiếng thông dụng trong giới văn nghệ ngày nay: một lối thoát, tính cách xây dựng lành mạnh của nghệ thuật – thì nghệ thuật đen là bi quan lạc lõng. Nhưng nếu người ta chịu hiểu sâu xa hơn một chút rằng nhận thức nào cũng là một sự khẳng định và trong sự khẳng định đã giúp cho con người tìm lấy những phương tiện thích ứng để hoạt động trong thế giới sự vật – ngay sự nhận thức một tình thế tuyệt vọng qua tác phẩm cũng là sự khẳng định đối đầu với thực tế phũ phàng đòi tìm cách ứng phó, không trốn chạy bằng những ngõ ngách quắt quéo của cái thói tự gạt mình vô ích. Sở dĩ nghệ thuật đen không đưa lại một lời giải đáp thì chỉ có tính cách cá nhân của tác giả, là một trong rất nhiều lời giải đáp khác nhau, không thể tìm tính cách chung bởi như thế phản nghệ thuật. Nói rõ: nghệ thuật đen đứng lại là một lời kêu gọi, ý thức siêu hình sáng tạo của nó cố gắng đạt đến một nhận thức càng rộng rãi đầy đủ bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, phô bày qua tác phẩm những thực kiện phức tạp cho thật cụ thể chân xác, nỗ lực trong nhận thức triệt để về một cảnh ngộ là đã mở ra những tầm chân trời để tùy sự lựa chọn từng cá nhân đường lối thích hợp cho riêng mình giải phóng mình khỏi cảnh ngộ. Đối với xã hội, nghệ thuật đen giữ vai trò là một ý thức dò hỏi phát hiện những vấn đề có liên quan đến kiếp sống con người, một ý thức siêu hình luôn luôn thức tỉnh hoạt động trong phạm vi của nó, không có tham vọng giải quyết. Giải quyết thuộc phần vụ của các ngành hoạt động khác trong xã hội nhân loại, nói cho đúng là công trình của cả một xã hội trong sự vận dụng hết mọi khả năng của xã hội ấy. Làm sao lại bắt người làm nghệ thuật, một cá nhân chỉ có năng khiếu dễ gần gũi gắn liền với thực tế xã hội trong một đời sống văn minh phát triển ghê gớm về mọi mặt như ngày nay phải có được sự hiểu biết thông thái về mọi ngành để đúc kết tiên đoán về tương lai, phải làm một việc vượt ngoài khả năng của hắn? Người làm nghệ thuật hôm nay rất khiêm nhượng không muốn khoác cái bộ dạng lố bịch của một người thầy đời bằng những câu giải đáp nông cạn lý tưởng vô ích và hào nhoáng chỉ lòe được đám học sinh hay bọn trí thức một dúm; hắn biết rõ hắn chỉ là một cá nhân hèn mọn, cái kiến thức chuyên môn về các địa hạt tinh thần khác, nếu có, chỉ là một mớ kiến thức phổ thông sơ đẳng so với những bậc thức giả mỗi ngành, trước mắt các bậc ấy những câu giải đáp của hắn chỉ là một trò múa rối của kẻ tự kiêu ngu ngốc, hắn tự định rõ vị trí của hắn trong hoạt động tinh thần nhân loại là tận dụng hết năng khiếu thực tế của mình để biểu diễn cái đời sống tầm thường hiện thực hằng ngày nơi ấy vẫn ẩn nấp trong mỗi thời khắc những vấn đề siêu hình (vẫn hiểu theo nghĩa rộng) mà ngày nay ảnh hưởng tới từng khía cạnh vụn vặt nhất của cuộc sinh hoạt. Nghệ thuật đen là ý thức siêu hình của xã hội, có thể là thô sơ, nhưng chắc chắn là thực tế nhất.

[…] Nghệ thuật đen là một ý thức siêu hình về đời sống thế tục, ý thức ấy có những nguồn mạch chằng chịt hút xuống trái đất. Nghệ thuật lý tưởng của một thời – là ý thức thưởng ngoạn bay bổng ngoài cõi tục – đã loại trừ ra khỏi nó cái đời sống mà nó cho là ô trọc, cụ thể, “vật chất”. Trong nghệ thuật này người ta khinh bỉ sợ hãi cái “xác thịt”, những “thực phẩm của địa cầu”, tất cả những gì còn mang nặng cái chất của một sự sống hữu hình, e rằng những thứ ấy là những vật nặng cản trở sự tinh tuý của ý thức đang muốn bay bổng lên cõi hư không. Bởi thế những quy luật chặt chẽ, những ước lệ kiểu mẫu trong phép thể hiện của nghệ thuật lý tưởng là những màng lọc cái chất sống tầm thường đến ghê tởm bám ý thức không cho lọt vào, tính cách nghiệt ngã của hình thức chỉ bằng lòng cho phép nhập nội cái phần tinh tuý của ý thức đã bị tước lược hết hình hài còn lại là những ý niệm.
Nhận thức, nhất là nhận thức bằng nghệ thuật, không phải là công trình của một năng khiếu thuần lý. Không có ý thức nói trống không bay lượn trong không không, nói ý thức là nói ý thức của một người, người bằng xương bằng thịt với những điều kiện sinh hoạt trong xã hội trong lịch sử và trong cảnh ngộ. Ý thức phát động để cấu thành nhận thức tiếp xúc ngoại vật không độc nhất bằng đường lối tư duy; bởi ý thức của một người chính là người ấy với mắt mũi chân tay đầu tóc cho nên một người có thể ý thức và nhận thức, một cách mù tối nhưng cụ thể nguyên vẹn hơn, bằng da thịt bằng cảm xúc giác quan. Nghệ thuật đen chuộng sự cụ thể, trong phép thể hiện của nó thường dùng lối nhận thức thô sơ này bởi ở đấy ngoại vật còn giữ được nguyên hình thể, tính chất của nó. Do đó trong nghệ thuật đen dẫy đầy những xúc cảm đứng lại ở giác quan còn thô kệch xù xì khó chịu, ý thức “thuần tuý” băng hoại bám vào mở rộng ngoài da thịt thành một thứ dục tình [2] suồng sã.

[…] Dục tình trong nghệ thuật đen là một phương cách của nhận thức siêu hình, hiển nhiên không phải là phương cách độc nhất. Nếu nghệ thuật đen có thường dùng đến luôn chỉ bởi phương cách ấy từ xưa vẫn bị nghiêm cấm khinh rẻ, dục tình trong nghệ thuật ở xứ ta là một khu đất hoang chưa được khai thác trong khi thật sự nơi ấy, cũng như ở những hình thái sinh hoạt nhân loại khác, tiềm ẩn cái ý nghĩa siêu hình của kiếp sống mà nhận thức nghệ thuật có thể phơi mở. Không tuyệt đối tin theo Freud rằng cuộc sinh hoạt nhân loại bị quy định thầm kín bởi dục tình bởi bản năng – sự sai lầm hư hỏng của Freud là muốn biến khoa tâm phân bệnh học của ông thành một triết lý toàn diện giải thích tất cả – nhưng cũng không thể chối rằng bản năng, dục tình không giữ vai trò gì đáng kể trong cuộc sinh hoạt nhân loại. Nghệ thuật đen không ngoảnh mặt với đời sống, đối diện với nó trong mọi mặt xuất hiện để theo đuổi dò hỏi ý nghĩa của nó. Hơn nữa, dục tình lại là điểm phát khởi của đời sống nhân loại lúc sơ khai và còn dự phần mãi mãi trong đời sống ấy, trong nó có chứa đựng cái ý nghĩa siêu hình thiết thực của thế tục. Không nhận thức nào cụ thể mạnh mẽ hơn về sự sầu khổ hay hân hoan bằng sự sầu khổ, hân hoan hiển hiện trong da thịt của một người, người ta không còn thể chối cãi rằng đó chỉ là tưởng tượng. Đáng thương cho những kẻ mà sự nhận thức mới nằm trong địa hạt của lý tính trong con người, nó làm cho họ trở thành kẻ lạ mặt giữa cuộc sống, kẻ lạ mặt trong chính thân xác họ. Đối với một vài cảnh ngộ, dục tình còn có thể là sự yêu mến tất cả. Trong dục tình người ta yêu cái chết cùng một lúc với sự sống. Nói như Sartre, “dục tình ném con người vào trong lòng sôi sục của tự nhiên và đồng thời nâng nó vượt khỏi tự nhiên do sự khẳng định cái quyền hạn của nó không được thỏa mãn” [3] .
Chính từ khởi điểm nghệ thuật đen cố gắng là một nhận thức sâu xa linh động về sự vật, vượt ngoài những khuôn sáo tĩnh chết đã bị thực tế chối bỏ, nên nó chấp nhận dục tình xưa nay bị nghiêm cấm làm phương tiện trong công cuộc theo đuổi khám phá ý nghĩa của sự vật. […] Cái ý thức siêu hình phát khởi nghệ thuật đen không kèm theo một ý thức luân lý để giới hạn nó lại trong sự thâu tóm ghi nhận cảnh ngộ, bởi cái ý thức trên có thể là khởi điểm cho một ý thức luân lý mới, nhưng nghệ thuật đen không muốn tiến tới đó. Sự sử dụng luân lý trên những đòi hỏi mới của con người là công việc của nhà luân lý học. Riêng đối với người tiếp thu nghệ thuật, nghệ thuật đen mở rộng tầm chân trời để tùy cá nhân nhận định lấy trong phần cá biệt của mình cái luân lý của một cảnh ngộ nhất định – sự thực vấn đề này chỉ là một phần trong vấn đề nhận thức mà không tiến đến kết luận của nghệ thuật đen đã nói đến ở trên. Vậy nghệ thuật đen là biểu thị một tự do trước cảnh ngộ, kêu gọi những tự do khác trong cuộc gặp gỡ xúc tiếp. Có thể bảo nghệ thuật đen là phi luân lý thì đúng.
Nói kết lại nghệ thuật đen đóng vai trò khích động sự thức tỉnh của xã hội trước những câu hỏi cụ thể thúc bách thế tục, ném sự dò hỏi trâng tráo vào giữa mắt mọi người vẫn ngủ mê trong sự tin tưởng vu vơ trừu tượng ở cõi tuyệt vời càng ngày càng mất hút, kêu gọi mọi người trông thẳng vào cảnh ngộ đang sống, vận động trước hết cho một ý thức dũng cảm táo bạo nhận thức cho đầy đủ thực tế.
Và sau đó chiều hướng của lịch sử, ý nghĩa của một kiếp sống tìm thấy vươn tới, là thuộc về mọi người định đoạt thực hiện.
Gọi nghệ thuật đen không phải vì những ý nghĩa suy đồi lầm lạc người ta gán cho nó. Gọi nghệ thuật đen bởi liên tưởng tới một màu da của nhân loại, màu da đen. Đen có thể là một màu đẹp như đêm tối trong suốt vô cùng, như tròng mắt của người thiếu nữ Á Đông. Nhưng hiện thời đen tiêu biểu hết nghĩa cho một cảnh ngộ trong ấy con người chịu đựng sức nặng đè ép của sự vật, của một trật tự mấy nghìn đời.
“Cớ sao tôi xanh, tôi sầu và tôi đen thế này?”. Hãy nghe tiếng kêu ấy của chàng nhạc sĩ da đen, hãy nghe những âm thanh đổ vỡ lổng chổng hay mệt mỏi thê thiết của chàng như hình ảnh của một thế giới dục tình bi đát.
Danh từ nghệ thuật đen được tạo thành từ hình ảnh một màu da lại luôn luôn là thân phận của người, một thân phận mọi. Bởi thế nghệ thuật đen chính là nghệ thuật hôm nay vậy.


[2] Chữ dục tình hiểu theo nghĩa rộng như chữ Désir của tiếng Pháp.
[3] …Du désir qui (…) replonge l’homme au sein bouillonnant de la Nature et l’élève en même temps au-dessus de la Nature par l’affirmation de son droit à l’insatisfaction (Situations, trang 255).

Nguồn: Tạp chí Sáng Tạo, bộ mới, số 3, ra ngày 1-9-1960, trích từ trang 35 đến 48.

Bản điện tử do talawas thực hiện.

(BVP trích đoạn và hiệu chính chú thích 3 theo “Orphée noir” của Jean-Paul Sartre.)

Một Chủ Nhật Khác (trích đoạn)

Thời tiết đang độ giao mùa. Tháng Tư, mùa xuân rắc mưa bụi. Trời nguyên vẹn sắc xanh trong. Những đám mưa thưa, viển vông thoáng chốc. Nắng mát mẻ, tươi thắm ngay cả khi trời đang mưa.

Những rừng cây biếc lục trên các triền núi cao phía Tây thành phố hiện rõ. Những đỉnh trọc phơi mầu đá. Đêm tỏ ngời.

Cuối tháng tư, gió êm ngát trong ngày thỉnh thoảng nổi cơn lộng vào ban trưa hoặc ban chiều. Nắng reo vang trên đồi, trong các rừng thông, lá rộn rịp và trái khô rụng. Mầu nắng rực rỡ, chất nắng óng quyện như mật no ứ gió và phấn thông.

Kiệt bị ho mất tuần lễ có lẽ vì không khí đầy phấn thông.

Đầu tháng năm, đôi lúc ban ngày mưa rào nặng hạt, ngắn ngủi, báo hiệu mùa hè. Đã có sương mù ban đêm. Những buổi sáng trời quang tạnh, gió hẩy hẩy đón nắng. Từ đây cho đến ngày đổ những trận giông lấp kín trời đất, gió còn ngả ngớn giữa nắng, mưa êm dịu.

Kiệt êm tĩnh lạ. Êm tĩnh đủ mọi thứ. Những ngày làm việc trôi chẩy. Thư từ tin tức gia đình đều đặn. Giấc ngủ không bị khuấy động. Mặc dù chung quanh không vậy.

[…] Những buổi chiều thật đẹp. Gió thấp, gió cao, trùng trùng như nắng trên những quãng rộng. Kiệt bắt gặp mình mơ màng hắt hiu. Như thể gió cuốn bay mọi ý nghĩ ra ngoài trời. Kiệt húng hắng ho khi bất chợt hớp phải một ngụm gió lùa.

[…] Nằm trong đêm, Kiệt chờ giấc ngủ.

Chàng nghe lại những đoạn nhạc, nhìn lại những ảnh tượng. Chàng thấm nỗi tang thương vật vã của khúc nhạc ngoài mọi kỷ niệm. Chàng lặng trong ánh lửa bên triền núi tưởng đến một tảng đá bị nung đốt. Một lúc, những âm thanh tán loạn dượt đuổi nhau như những chấm sáng bay mù tít theo nhịp nở dãn riêng không sao kiềm chế, kết hợp. Để trấn áp, Kiệt tập trung tư tưởng, gợi nhắc một vài ảnh tượng liên quan đến Beethoven. Ngôi nhà ẩn náu lúc cuối đời của nhạc sĩ, chàng đã tới chiêm ngưỡng ở Heiligenstadt.

Chàng tưởng tượng nếu như mình điếc đặc hay mù tịt. Rồi chàng mơ màng mường tượng ngọn đại thụ trơ vơ giữa cơn giông tố. Một con dị điểu tên găm đầy mình lao vút, ngã đâu trên chín tầng trời thanh thản. Và chàng hát trong đầu, đề nhạc thiết tha của Hòa Tấu Khúc số 9, những lời trào dâng không rứt của khúc Hoan Ca.

[…] Một thiếu nữ ngồi trên lối bực đá từ dưới lộ dẫn lên cư xá ngay trước mặt nhà. Tóc ngắn lưng áo vàng. Chính mầu áo nổi rực giữa bờ cỏ rậm trên khu đồi chi chít những gốc thông già hoang tịch vào lúc nửa chiều đập mạnh mắt Kiệt. Mầu vàng tươi lóe trong đám xanh rối.

Trong khoảnh khắc Kiệt choáng váng, lóng ngóng như hệt trong chuỗi ngày đông ảm đạm bỗng một buổi sáng trên đường đi mắt chàng bắt gặp những đóa hoa vàng dại lan tràn khắp bờ bụi. Mầu hoa giống như những tiếng chuông reo mừng giữa cơn buốt giá báo trước anh đào sắp nở. Bởi không lâu sau khi giống hoa dại biến trụi không sót cánh nào – cũng đột ngột như lúc xuất hiện thừa mứa - những đốm hồng quý phái bắt đầu trổ mọc trên các cành trơ trụi. Mầu hồng rập rờn trên những cây anh đào thấp bé giữa cảnh rừng núi xanh ngắt như khúc ru kín ẩn nồng nàn trong tiết đông hàn tê tái. Nhưng Kiệt vẫn ngoái tưởng đến mầu vàng của giống hoa dại, như đoạn khai mở rộn rã mê mẩn rồi chấm dứt mau lẹ.

Lúc này Kiệt cũng nghe động hồi chuông vang lừng ngân nga.

Thiếu nữ ngồi lọt giữa bờ cỏ bị cắt lìa một quãng. Cỏ cao hơn đầu nàng. Những cành thông giăng đan cao hơn. Nàng quay mặt xuống đường. Một cột đèn trồng bên rìa đường nhô ngang tầm đầu. Thấp hơn đường, xa hơn cột đèn hiện mảng mái ngói nơi nhà kho hoang phế của ga xe lửa.

[…] Đêm kỳ ảo, cửa ngõ của cõi mộng mị hoang đường, như phóng từ trí tưởng viển vông bị đầu độc bao giờ không hay, hiển hiện. Kiệt ở trong. Không phải một mình mà cùng với một người khác. Với Oanh. Cõi sáng láng và tối tăm, tưng bừng và lạnh vắng, huy hoàng và điêu tàn, gần gũi và vời vợi. Cõi hiện tại phù du vĩnh viễn bất tuyệt, người ta sống không kịp thấy mình đang sống. Thời gian núp ẩn đâu sau lưng hoặc đón đợi bên ngoài.

Gọi đó là cơn huyễn hoặc của những tâm trí bất thường cũng đúng. Oanh rồi có thể lúc nào tỉnh táo sẽ bảo mình đã mê. Cả Kiệt nữa, sẽ giận dữ, cay đắng với mình nhiều lúc, coi mình là kẻ bệnh hoạn khiếm khuyết tật nguyền. Nhưng lúc đó chưa tới.

[,,,] Trời chưa rạng nhưng từ dưới chân dốc Kiệt đã trông thấy Oanh đứng bên vệ đường. Suốt đêm Oanh không ngủ. Nàng sửa soạn xong hành trang từ năm giờ sáng. Còi dứt giới nghiêm nàng đã ra đứng trước cổng nhà trọ. Người bạn ở chung còn ngủ. Oanh mang theo một chiếc vali và chiếc sắc du lịch.

[…] Buổi sáng khác thường. Không khí ẩm iu. Tiếng gió vi vu lạ lẫm. Nước hồ sóng sánh, gợn đục. Những đỉnh núi khuất trong sương. Cây cỏ đã thức, nặng trĩu. Lại bão rớt. Kiệt hít hà. Trời biệt ly, trời cũng lãng mạn, trời đất váng vất, ngơ ngác. Kiệt nói to những ý nghĩ khơi khơi. Sau khi gửi hành lý Kiệt trở về nhà cất xe. Oanh theo chàng. Họ đi thêm lần nữa trên dải đường trong cư xá, thanh thản như hai kẻ vừa thức dậy dạo chơi ban mai.

[…] Xe xuống đèo trong trận mưa trắng xóa. Rừng lũng ngun ngút. Kiệt vẫn chỉ biết ôm đầu Oanh trong ngực, vuốt ve mái tóc, nhấm nhấm những sợi tóc bay. Chàng ngậm kín lời, thỉnh thoảng bắt gặp thoáng mắt ngước lên của Oanh, chàng cười. Đoạn đường từ thành phố xuống phi trường dài hơn hai mươi cây số, quãng mưa, quãng tạnh. Một khúc đường đang được một đơn vị công binh Việt Nam tiếp tục sửa sang mở rộng để nối với xa lộ do quân đội Mỹ làm dở dang. Những người lính lem luốc đứng bên đường rừng. Ngày làm việc chưa bắt đầu. Xe ủi đất bỏ ngang giữa lộ.

Hết đèo nắng hửng dần.

[…] Những ngày kế tiếp, trời động bão, mưa lây nhây rỉ rả đêm ngày. Gió thốc tạt. Trời xỉn cũ, từ sáng đến chiều một mầu, đôi lúc xập xuống như sắp cạn tuyệt ánh sáng. Không khí chùm hụp, bưng bít, mốc meo, trong ngoài không chừa chỗ nào. Người nào cũng trùm áo mưa, chụp nón, lúi cúi lúp xúp. Chỗ nào lúc lép nhép, trơn trượt, bẩn thỉu.

Thoạt tiên chỉ tưởng cơn trở trời trái gió một hai buổi là tan. Chưa đến tháng gió mùa thổi, không hiểu sao bão đã tới. Những ngày này như đã vào tháng bẩy, tháng tám, như mùa hè đã qua và mùa thu của miền cao đang về.

Những ngày mưa thối cỏ thối cây dứt, gió sẽ bắt đầu cất tiếng ca trên đồi, dưới lũng, bài hát ảo não của mùa mặt trời lảng trốn bên kia núi, dưới đèo.

[…]