Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 20 tháng 10, 2023

Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ (kỳ 4: Paul Lake và Sydney Lea)

Khế Iêm

IMG-3e6d8d64c1dc0921aade4cafc486c98b-V_thumb

Paul Lake

__________________________

 

BLUE JAY

 

A sound like a rusty pump beneath our window

Woke us at dawn. Drawing the curtains back,

We saw – through milky light, above the doghouse –

A blue jay lecturing a neighbor’s cat

So fiercely that, at first, it seemed to wonder

When birds forgot the diplomacy of flight

And met, instead, each charge with a wild swoop,

Metallic cry, and angry thrust of beak.

 

Later, we found the reason. Near the fence

Among the flowerless stalks of daffodils,

A weak piping of feathers. Too late now to go back

To nest again among the sheltering leaves.

And so, harrying the dog, routing the cat,

And taking sole possession of the yard,

 

The mother swooped all morning,

I found her there

Still fluttering round my head, still scattering

The troops of blackbirds, head cocked toward my car

As if it were some lurid animal,

When I returned from work. Still keeping faith.

As if what I had found by afternoon

Silent and still and hidden in tall grass

Might rise again above the fallen world;

As if the dead were not past mothering.  

 

CHIM GIẺ XANH

 

Âm thanh giống như tiếng máy bơm khàn

khàn đánh thức chúng tôi vào lúc rạng

sáng. Vén bức màn chúng tôi thấy – qua

ánh sáng sớm mai, trên cái chuồng chó –

một con chim giẻ xanh đang quang quác

dữ dội với con mèo hàng xóm, ban

đầu, chúng tôi phân vân hình như những

con chim đã quên mất sự khôn ngoan

là nên bay đi hơn là đánh nhau

và thay vì cứ bổ nhào giận dữ,

với tiếng kêu chát chúa, và nhát mổ

dữ dội. Sau đó chúng tôi khám phá

 

ra lý do. Gần hàng rào giữa những

cuống hoa thủy tiên vàng, một con chim

non yếu ớt. Con chim non quá yếu

để có thể bay về chiếc tổ bị

che khuất giữa những tàn lá. Và vì

vậy con chim mẹ – quấy chó, đuổi mèo,

độc chiếm chiếc sân, và bổ nhào suốt  

 

buổi sáng. Khi trở lại tôi thấy con

chim mẹ còn đó, vẫn vỗ cánh trên

đầu tôi, vẫn làm cho lũ chim két

bay tán loạn, chu mỏ về phía chiếc

xe của tôi, như thể chiếc xe là

con vật ghê gớm nào đó. Con chim

mẹ quyết bảo vệ chim con. Như thể

tôi đã thấy vào lúc trưa, một thứ

gì đấy, im lặng và tĩnh lặng và

ẩn nấp trong cỏ, có thể trồi lên

từ bên kia thế giới, như thể kẻ

chết được dỗ ngọt trở lại với đời.

 

A MIDNIGHT DAWN

 

When tinkling glass

Rang in my ear,

I walked the hall

Where Chanticleer

Had crowed up dawn

With crackling mirth,

Red feathers flashing

From his perch,

While from the breach

In the ceiling swung

Our chandelier

Like a felon strung,

Legs wildly kicking,

Until my eyes

Spied red tongues licking

Toward the skies.

Then as engines

Flashed and roared

To save our roof,

The rooster soared

Passed blackened beams

And joists that left

The acrid scent

Of dragon’s breath.  

 

HÉ RẠNG NỬA ĐÊM

 

Khi mặt kính leng keng

rung lên bên tai

tôi đi bộ ở hành lang

nơi chú Gà trống

thức suốt đêm với tiếng lục cục

tươi vui, với bộ lông đỏ

lóe sáng nơi chỗ đậu,

trong khi từ một lỗ hổng

trên trần nhà đung đưa

chùm đèn treo giống như

một tội nhân bị treo cổ

đôi chân quẫy đạp cuồng dại

cho đến khi mắt tôi

nhìn thấy chiếc lưỡi đỏ thè ra

hướng lên trời.

Lúc đó như những động cơ

vụt sáng và nổ đùng đùng

để tránh cho mái nhà của chúng tôi,

con gà trống bay lên

qua khỏi sườn nhà đã hóa đen

và những cái rầm nhà còn rơi lại

mùi cay sè của hơi thở rồng.

 

* Paul Lake (1951–2022) was an American poet, essayist, and professor at Arkansas Tech University. Another Kind of Travel won the Porter Fund Award for Literary Excellence. In addition, he won the Richard Wilbur Award for poetry in 2006. He grad­uated from Towson University with a B.A. and from Stanford University with an M.A. He had served as the poetry editor for First Things.

* Paul Lake (1951–2022), nhà thơ, nhà tiểu luận và giáo sư ng­ười Mỹ tại Đại học Công nghệ Arkansas. Tác phẩm của ông, Một Loại Hình Du Lịch Khác, đã giành được Giải thưởng của Quỹ Porter về Văn học Xuất sắc. Ngoài ra, ông đã được Giải thưởng Richard Wilbur về thơ vào năm 2006. Ông tốt nghiệp Đại học Towson với bằng Cử nhân và bằng thạc sĩ tại Đại học Stanford. Ông đã từng là nhà biên tập thơ cho First Things.

 

Sydney Lea

__________________________

 

THE WRONG WAY WILL HAUNT YOU

                                                (Shouting a hound)

 

Spittle beads as ice along

her jaw on this last winter day.

And when I lift her, all her bones

are loose and light as sprigs of hay.

 

For years her wail has cut the woods

in parts, familiar. Host of hares

have glanced behind as she ploughed on

and pushed them to me unawares.

 

Now her muzzle skims the earth

as if she breathed a far dim scent,

and yet she holds her tracks to suit

my final, difficult intent.

 

For years with gun in hand I sensed

her circle shrinking to my point.

How odd that ever I should be

the center to that whirling hunt.

 

Here a yip and there a chop

meant some prime buck still blessed with breath,

and in the silences I feared

she’d run him to her own cold death.

 

The snow that clouds my sights could be

a trailing snow, just wet and new

enough to keep a scent alive,

but not so deep that she’d fall through.

 

* Sydney Lea is an American poet, novelist, essayist, editor, and professor, and was the Poet Laureate of Vermont (2011–15).

 

ĐIỀU KHÔNG HAY THƯỜNG ĐẾN

                                    (Tiếng kêu một con chó săn)

 

Những hạt nước dãi như băng giá dọc

theo quai hàm con chó săn vào ngày

cuối đông. Và khi nhấc lên xương cốt

nó lỏng lẻo và nhẹ như một cọng

 

cỏ khô. Suốt năm tiếng kêu quen thuộc

của nó đã cắt khu rừng thành từng

phần. Bầy thỏ liếc nhìn phía sau không

biết nó đã rẽ và đẩy chúng tới

 

tôi. Bây giờ mõm nó là đà dưới

mặt đất, như thể sự thính mũi của

nó đã lờ mờ xa, và lúc này

ý định giữ vòng săn đáp ứng mục

 

tiêu với nó là khó. Suốt năm, với

cây súng trong tay tôi có cảm giác

nó đã bắt đầu già. Tôi chưa bao

giờ trông chờ tôi là trung tâm cuộc

 

săn cuồng quay đó. Đây là tiếng sủa

và kia là con mồi, có nghĩa là

vài con nai tơ vẫn sống, và trong

yên lặng tôi sợ việc đuổi theo đã

 

mang tới cái chết lạnh cho chính nó.

Tuyết phủ tầm nhìn của tôi có thể

là tuyết vẽ thành vệt, ướt và mới

đủ để giữ sự thính mũi tồn tại,

nhưng không sâu rằng nó đã thất bại.

 

* Bài thơ trích trong tuyển tập thơ “Rebel Angels” (Những Thiên Thần Nổi Loạn), 25 nhà thơ tân hình thức, do Mark Jarman và Davis Mason chủ biên, Story Line Press xuất bản 1998.

* Sydney Lea (1942 –), nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, biên tập viên người Mỹ. Ông cũng là một giáo sư đại học, và nhà thơ đoạt giải Vermont (2011–15).

Ngoài ra, ông cũng là nhà sáng lập và cựu chủ biên tờ “The New England Review”. Tuyển tập thơ của ông bao gồm Searching the Drowned Man, The Floating Candles, No sign, Prayer for Little City và The Blainville Testament. Ông sống ở Newbury, Vermont, USA.

(Còn tiếp)