Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 13 tháng 10, 2023

Thơ Mỹ-một thời đáng nhớ (kỳ 3: Julia Alvarez và Marilyn Nelson)

Khế Iêm

IMG-3e6d8d64c1dc0921aade4cafc486c98b-V_thumb

 

Julia Alvarez

________________

 

WOMAN’S WORK

 

Who says a woman’s work isn’t high art?

She’d challenge as she scrubbed the bathroom tiles.

Keep house as if the address were your heart.

 

We’d clean the whole upstairs before we’d start

downstairs. I’d sigh, hearing my friends outside.

Doing her woman’s work was a hard art

 

to practice when the summer sun would bar

the floor I swept till she was satisfies.

She kept me prisoner in her housebound heart.

 

She’ shine the tines of forks, the wheels of carts,

cut lacy lattices for all her pies.

Her woman’work was nothing less than art.

 

And, I, her masterpiece since I was smart,

was primed, praised, polished, scolded and advised

to keep a house much better than my heart.

 

I did not want to be her counterpart!

I stuck out … but became my mother’s child:

A woman working at home on her art,

Housekeeping paper as if it were her heart.

 

* Julia Alvarez (born March 27, 1950) is an American New For­malist poet, novelist, and essayist. She rose to prominence with the novels How the García Girls Lost Their Accents (1991), In the Time of the Butterflies (1994), and Yo! (1997). Her publications as a poet include Homecoming (1984) and The Woman I Kept to Myself (2004), and as an essayist the autobiographical compi­lation Something to Declare (1998). Many literary critics regard her to be one of the most significant Latina writers and she has achieved critical and commercial success on an international scale.

 

CÔNG VIỆC NGƯỜI ĐÀN BÀ

 

Ai nói công việc của một người đàn bà không là nghệ thuật cao?

Bà thử thách trong lúc cọ rửa gạch men phòng tắm.

Giữ căn nhà như thể định vị là trái tim bạn.

 

Chúng ta lau sạch toàn thể trên lầu trước khi lau sạch dưới lầu.

Tôi thở dài, nghe tiếng những bạn tôi ở ngoài đường.

Làm công việc đàn bà của bà là một nghệ thuật khó

 

thực hành khi ánh mặt trời mùa hè giăng trên

sàn nhà tôi đã quét dọn cho đến khi bà được vừa lòng.

Bà giữ tôi như một tù nhân trong căn nhà đường biên trái tim.

 

Bà đánh bong những cái răng nĩa, những vành xe đẩy,

chạm cắt viền mắt cáo tất cả những chiếc bánh nướng.

Công việc đàn bà của bà không khác gì một nghệ thuật.

 

Và, tôi, kiệt tác của bà từ khi tôi khôn khéo,

đứng đắn, được ngợi khen, đánh bong, la rầy và khuyên bảo

để giữ cho ngôi nhà tốt hơn trái tim của tôi  

 

Tôi không muốn trở thành bản sao của bà

Tôi thóat ra… nhưng đã trở thành đứa con của mẹ tôi:

Một người đàn bà làm việc ở nhà qua cái tài khéo của bà,

Báo cáo quản gia như thể nó là trái tim của bà.

 

* Julia Alvarez (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1950), nhà thơ, tiểu thuyết gia và nhà tiểu luận theo trường phái Tân hình thức Mỹ. Bà trở nên nổi tiếng với các tiểu thuyết How the García Girls Lost Accents (1991), In the Time of the Butterflies (1994) và Yo! (1997). Các ấn phẩm của bà với tư cách là một nhà thơ bao gồm Homecoming (1984) và The Woman I Kept to Myself (2004). Với tư cách một nhà viết tiểu luận, bà viết cuốn tự truyện Something to Declare (1998). Nhiều nhà phê bình văn học coi bà là một trong những nhà văn Latina quan trọng nhất, và bà đã đạt được thành công về mặt phê bình và thương mại trên quy mô quốc tế.

 

Marilyn Nelson

_________________

 

THE BALLAD OF AUNT GENEVA

 

Geneva was the wild one.

Geneva was a tart.

Geneva met a blue-eyed boy

and gave away her heart.

Geneva ran a roadhouse.

Geneva wasn’t sent

to college like the others:

Pomp’s pride her punishment.

She cooked out on the river,

watching the shore slide by,

her lips pursed into hardness,

her deep-set brown eyes dry.

They say she killed a woman

over a good black man

by braining the jealous heifer

with an iron frying pan.

 

They say, when she was eighty,

she got up late at night

and sneaked her old, white lover in

to make love, and to fight.

First, they heard the tell-tale

singing of the springs,

then Geneva’s voice rang out:

I need to buy some things,

so next time, bring more money.

And bring more moxie, too.

I ain’t got no time to waste

on limp white mens like you.

Oh yeah? Well, Mister White Man,

it sure might be stone-white,

but my thing’s white as it is.

And you know damn well I’m right.

Now listen: take your heart pills

and pay the doctor mind.

If you up and die on me,

I’ll whip your white behind.

They tiptoed through the parlor

On heavy, time-slowed feet.

She watched him, from her front door,

walk down the dawnlit street.


Geneva was the wild one.

Geneva was a tart.

Geneva met a blue-eyed boy

and gave away her heart.

 

* Marilyn Nelson (born April 26, 1946) is an American poet, translator, and children’s book author. She is a professor emeritus at the University of Connecticut, and the former poet laureate of Connecticut, She is a winner of the Ruth Lilly Poetry Prize, the NSK Neustadt Prize for Children’s Literature, and the Frost Medal. From 1978 to 1994 she published under the name Mari­lyn Nelson Waniek.


KHÚC CA VỀ DÌ GENEVA

 

Geneva dữ dằn. Geneva

cáu gắt. Geneva gặp đứa

con trai mắt xanh và trao trái

tim cho hắn. Geneva

điều hành một quán ăn bên đường.

Geneva không được học đại

học như những người khác: Thái độ

cao ngạo hành hạ bà. Bà nấu

ăn trên sông, ngắm nhìn bãi biển

lướt trôi, môi mím chặt, đôi mắt

sâu màu nâu ráo hoảnh. Họ nói

bà đã giết một người đàn bà

vì người đàn ông da đen tử

tế bằng cách đập vỡ đầu con

bê cái đáng ghét đó với một

cái chảo chiên bằng sắt. Họ nói

 

khi tám mươi, bà thức dậy trong

đêm và dấu già, đón người tình

da trắng vào làm tình, và gây

gỗ. Đầu tiên, họ nghe được tiếng

hát như suối reo, rồi giọng

Geneva vang lên: tao cần

mua vài thứ, lần sau, nhớ mang

thêm tiền, và sinh động lên. Tao

không muốn mất thì giờ với những

gã đàn ông yếu ớt như mày.

Ôi? Tốt thôi, ông trắng, có thể

cái đó của mày trắng nhưng cái

ấy của tao cũng trắng vậy. Và

mày biết rõ là tao đúng mà.

Bây giờ lắng nghe: hãy uống những

viên thuốc trị tim của mày và

nghe theo lời dặn bác sĩ. Nếu

mày chết sớm trên bụng tao, tao

sẽ quất vào cái lưng trắng của

mày. Họ nhón bước qua phòng đợi,

những bước chân chậm rãi và nặng

nề. Bà ta đứng ở cửa trước

nhìn theo hắn bước xuống đường trong

ánh bình minh hé rạng. Geneva

 

dữ dằn. Geneva cáu gắt.

Geneva gặp đứa con trai

mắt xanh và trao trái tim cho

hắn.

* Bài thơ trích từ tuyển tập “Rebel Angels, 25 Poets of The New Formal­ism” (Những Thiên Thần Nổi Loạn, 25 Nhà Thơ tân Hình Thức), được viết theo thể Ballad, là một bài hát, kể một câu chuyện. Trong thơ, Ballad viết thành từng đoạn thơ 4 dòng. Dòng đầu và dòng thứ ba, có 4 âm tiết nhấn, và vần ở cuối dòng. Dòng 2 và 4, có 3 âm tiết nhấn. Trong bài dịch, chúng tôi dùng thể thơ không vần Việt. Bài thơ kể về câu chuyện của Ge­neva, một người đàn bà da đen chanh chua và ít học. Chữ “mens” không có s. “Tell-tale” <adj>: audible (nghe được). “Up and die”: chết sớm. “có thể cái đó của mày trắng / nhưng cái ấy của tao cũng trắng vậy.” Thật quá quắt, trong đêm tối, trắng hay đen thì làm sao phân biệt? “Parlor”: Phòng đợi, có thể ở một chung cư (!). Và cuối cùng, xin bạn đọc đọc nguyên bản, để nghe nhịp điệu thơ vang lên.

 

* Marilyn Nelson (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1946), nhà thơ, dịch giả và tác giả về sách thiếu nhi người Mỹ. Bà là giáo sư danh dự tại Đại học Connecticut, và là cựu nhà thơ đoạt giải thưởng Connecticut. Bà thắng Giải thưởng thơ Ruth Lilly, và Giải thưởng NSK Neustadt cho Văn học dành cho trẻ em , đồng thời đạt giải Huy chương Frost. Từ năm 1978 đến năm 1994, Bà xuất bản dưới tên Marilyn Nelson Waniek.

 

Kh. I