Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2023

Tô Thuỳ Yên – Kinh khổ

Từ Thức

Tô Thuỳ Yên ra đi ngày 21/5/2019.

Những lúc lạc lõng, không biết mình đang ở đâu, đi đâu, nhiều người quay về với thơ phú, với thi sĩ. Nhất là một thi sĩ, ngoài cái ngổn ngang tâm sự riệng, còn chia cái đau chung của đồng bào. Một thi sĩ chứng nhân của một cơn ác mộng, một thời đại khủng khiếp, một thi sĩ mang cái đau của mình để nói lên cái đau chung của cả một dân tộc. Dùng ngôn ngữ rất riêng tư, cái nhìn rất riêng tư, để nói thay những người đau, nhưng không biết diễn tả cái đau của mình.

Có người nói sách để đọc một vài lần, thơ để đọc cả đời, càng đọc càng thấm, mỗi lần đọc tìm thấy một cảm giác lạ, một xúc động mới. Nhất là khi thơ đã đạt, như thơ Tô Thuỳ Yên.

Thơ Tô Thuỳ Yên không phải để “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” (Cảm xúc) như Xuân Diệu.

Thơ Tô Thuỳ Yên là chứng nhân của một cuộc bể dâu, là một lời xưng tội, một tụng niệm giải oan cho những trầm luân của một kiếp đoạ đày. Một kinh khổ.

Đúng là kinh khổ, bởi vì thơ Tô Thuỳ Yên rất gần với tư tưởng nhà Phật, thấy đời là bể khổ, nhưng rất zen, rất thiền, không một chút oán thù.

Đọc Ta về, bài thơ dài Tô Thuỳ Yên viết về ngày ra khỏi trại cải tạo, (Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống/Giải oan cho cuộc bể dâu này), tưởng như nghe Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du:

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên

Nếu tình yêu dễ diễn tả qua thơ hơn là văn vần, hơn là diễn văn, cái đau thương uất nghẹn cũng vậy. Phải bao nhiêu trang mới nói được tất cả cái đau đớn trong hai câu thơ Tô Thuỳ Yên, diễn tả cuộc chạy giặc:

Xứ khổ, thêm chi mùa thảm khốc

Than ôi trời đã bỏ rơi dân

(Mùa hạn)

Hay tia hy vọng le lói trong bể khổ:

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

(Ta về)

Đọc Tô Thuỳ Yên, nhiều khi nghĩ tới thơ Quang Dũng, cái hình ảnh ghê rợn về chiến tranh trong thơ Quang Dũng:

Mẹ già tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

(Mắt người Sơn Tây)

Quang Dũng mơ ước: Bao giờ tôi gặp em lần nữa/Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca/Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/Em có bao giờ em nhớ ta?, Tô Thuỳ Yên thề nguyền, cam kết: Ta về dẫu phải đi chân đất/Khắp thế gian này để gặp em (Ta về).

Người Việt làm thơ rất nhiều, nhưng thi sĩ, rất hiếm. Thi sĩ một mình một chiếu như Tô Thuỳ Yên còn hiếm hơn nữa.

Thanh Tâm Tuyền nói Tô Thuỳ Yên là một nhà thơ miền Nam. Vừa đúng vừa sai.

Đúng, bởi vì thơ Tô Thuỳ Yên không hề có căm thù, kêu gào chém giết như thơ miền Bắc “xã hội chủ nghĩa”. Đúng là tâm hồn của một miền Nam hiền hoà, độ lượng, của một xã hội nhân bản, trong đó tình người là cái đáng quý trọng nhất.

Tô Thuỳ Yên là sĩ quan tâm lý chiến của Việt Nam Cộng hòa, nhưng không hề nhìn người khác là ta, là địch, chỉ thấy một dân tộc đoạ đày

Mi su như nưc sông

Chy hoài mà chng cn [...]

Gi làm gì đau thương

(Đêm qua bc Vàm Cng)

Sai, bởi vì mặc dù sinh ra ở miền Nam (Gò Vấp, Tân Định), ngôn ngữ Tô Thuỳ Yên không phải là ngôn ngữ dễ dãi và dễ thương của miệt vườn, nhưng là ngôn ngữ rất cầu kỳ của một nhà thơ miền Bắc, đài các của một nhà thơ Huế.

Về ngôn ngữ, thơ Tô Thuỳ Yên chững chạc, cổ điển như thơ Đường, nhưng mới lạ, táo bạo hơn thơ mới. Đạo mạo như một người đứng tuổi, một ông đồ già, từng trải, ngồi nhâm nhi bên tách trà, ngẫm nghĩ về nhân tình thế thái, về cuộc đời dâu biển:

Ta ngn ngơ trông tri đt cũ

Nghe tàn cát bi tháng năm bay

Ch có thế. Tri câm đt nín

Đi im lìm đóng váng xanh xao

(Ta v)

nhưng trẻ, mạnh, vũ bão như thanh niên vào đời, muốn yêu, muốn thương, muốn nhớ. Muốn sống.

Những yếu tố chính của thơ là từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, và tư tưởng; thơ Tô Thuỳ Yên có đủ:

Bao gi, cho đến bao gi na

Em gánh vui v hp ch đông

(Mùa hn)

Trong các yếu tố đó, quan trọng hàng đầu là từ ngữ. Thi sĩ Pháp Mallarmé dứt khoát hơn nữa: Không phi vi ý tưng ngưi ta làm thơ, nhưng vi t ng (Ce n’est pas avec des idées qu’on fait des vers; c’est avec des mots).

Tô Thuỳ Yên cũng nghĩ như vậy, và cực kỳ trân trọng với từ ngữ. Ông nói, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Nguyễn Mạnh An Dân: “Tôi rt d b ray rt, dn vt, ch vì mt t chưa n, mt ch chưa đc.

Theo Tô Thuỳ Yên:

Thơ biến cái tht thành không tht… Bt c nhà thơ nào cũng s dng và đng thi chi nhn ngôn ng. S mi m đc đáo trong thơ trái vi các b môn khác trong văn chương là không nm trong đ tài (đ tài trong thơ thưng khi rt thông thưng và đưc coi như hng cu). Thi sĩ nhìn thy cái đp nhng cái tm thưng. (Phát biểu của Tô Thùy Yên trong cuộc thảo luận “Nói chuyện về Thơ Bây Giờ” trên tạp chí Sáng tạo, tháng 8, 1960 – Văn Việt)

Từ ngữ Tô Thuỳ Yên đài các nhưng gần gũi, sáng tạo cực kỳ nhưng tưởng như dễ dãi. Vừa lạ, vừa thực. Vừa xa vừa gần gũi. Chuyện đó không phải dễ. Có người dùng chữ lạ, câu lạ, nhưng không thực, chỉ lộ cái lập dị, giả tạo. Có người rất thực, nhưng nhàm, nếu không thô tục, bởi vì cái thực trong nghệ thuật, nó khác với sự thực ngoài đời.

Về tư tưởng, thơ Tô Thuỳ Yên đau xót, bi quan nhưng bao dung; đứng ngoài, đứng trên cái thù hận, để thấy cái bát ngát của đất trời, cái giới hạn của kiếp người.

Muốn nói được phần nào cái đau thương, uất hận, cái mệt mỏi, cái chịu đựng vô hạn, cái sức sống lạ kỳ trong đại hoạ của dân tộc Việt, phải có những nhà văn dài hơi, với tầm vóc Tolstoi, Pasternak mà chúng ta chưa có. Hay một thi sĩ như tác giả Ta v.

Ta v như bóng ma hn ti

Lc li thi gian kiếm chính mình

Ta nht mà thương tng phế liu

Như tng hài ct sp vô danh

Nằm tù cải tạo ra, gia đình chia ly, cuộc đời tan nát, nhà cửa quê hương tang thương, nhưng cái ghê rợn nhất đối với thi sĩ là một xã hội không còn nhân phẩm, đánh mất lương tri. Ông nói: “Chiến tranh, nht là chiến tranh u nhim huynh đ tương tàn, bao gi li chng gây thương tn nng n cho nhân phm”.

Đôi khi tôi hoài nghi khả năng của văn chương Việt Nam trong việc diễn tả cái kinh hoàng cùng tận của một cuộc đổi đời, nhưng hoàn toàn tin là thơ Việt Nam có đủ khả năng đó. Tô Thuỳ Yên là một bằng chứng.

Nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: văn chương chỉ có ở một vài nước, nhưng thơ thì cùng khắp. Jorge Luis Borges không nói gì khác: “Trong mi trưng hp, thơ đến trưc văn vn: hình như ngưi ta hát [hay khóc] trưc khi biết nói (Dans tous les cas, la poésie est antérieure à la pose: on dirait que l’homme chante avant de parler).

Tháng 5/1019, Tô Thuỳ Yên ra đi, bỏ dở thiên trường ca về nỗi đoạn trường của một dân tộc. “Ta tiếc đi ta sao hu hn/ Đành không tri hết đưc li ta”.

Sáng dậy, nghe tin Tô Thuỳ Yên “đi xa”, cứ muốn tin là một fake news, một chuyện không có thực.

Đi xa như lc trong tri đt

Thy tn, sơn cùng xí xoá ta

Cõi chiu đng li, khóc như liu

Có tht là ta đã đi xa?

(Đi xa)

Sơn cùng, thủy tận xí xóa người, nhưng sẽ bó tay, làm sao xóa được Ta v, Chiu trên Phá Tam Giang. Làm sao xoá được Tô Thuỳ Yên?

Edgar Allen Poe nói: “Nếu thơ chưa xé nát tâm hn ca bn, bn chưa biết thơ là gì” (If a poem hasn’t ripped apart your soul, you haven’t experienced poetry). Nhờ Tô Thuỳ Yên, nhiều người đã biết thơ là gì.

Paris, Tháng Năm 2023

Từ Thức

 

Ta về

Tô Thùy Yên

Tiếng biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang


Ta về - một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt xạm soi khe nước
Ta hoá thân thành vượn cổ sơ

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu...

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ

Một đời được mấy điều mong ước?
Núi lở sông bồi đã lắm khi...
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi?

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta, ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức nghe buồn tận cõi xa

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa, người ơi!

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm, người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?
Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?

Lời thề truyền kiếp còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm, ta vẫn cứ là ta

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương khó quá, sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa...

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Hãy kể lại mười năm mộng dữ
Một lần kể lại để rồi thôi

Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già như vậy
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu...

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều, một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Hạt lệ sương thầm khóc biến thiên

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát...
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm

Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa
Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Bước chạm khua từng nỗi xót xa

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui
Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng
Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi

Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen

Ta về như nước tào khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất?
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa

Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc, ôi ngày một một hao

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian, kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh

Ngồi đây, nền cũ nhà hương hoả
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức?
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta


7-1985