Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2023

Góp nhặt sỏi đá

Inrasara

Thử nhặt các nhầm lẫn lặp đi lặp lại trong nhìn nhận về thơ hôm nay.

Các loại thơ thử nghiệm dị hợm – Trào lưu lỗi thời đã bị thải ở phương Tây – Chúng hoàn toàn xa lạ với truyền thống văn hóa Việt Nam – Không thể vượt qua rào cản của người đọc – Thơ cần tự nhiên, giản dị và thành thật – Vài sự sáo mòn đồng bộ của sáng tác trẻ – Các nỗ lực cách tân nhưng chưa tới – Bất cập và tùy tiện của nhận định – Phê bình “lập biên bản” của Inrasara – Thừa và thiếu của Văn nghệ trẻ – Nỗi chưa đủ cô đơn nhảm nhí.

Hội nghị Những người viết văn trẻ vừa qua tại Quảng Nam, một bạn thơ tuyên đầy hãnh tiến rằng không đọc bất kì cái gì trong nước mà chỉ đọc các sáng tác nước ngoài trên mạng. Nghe mà phát hoảng. Càng hoảng hơn khi bạn trẻ khác tự nhận là không thèm biết đến “văn học già” Việt Nam. Nữa: chỉ cần đọc một, hai bài cũng đủ hiểu ngay tác giả nói cái gì (cứ như một thiền sư đắc đạo)! Còn một nhà thơ khá danh giá tự nhận là dù được tiêu chuẩn tem phiếu ba loại báo của Hội Nhà văn nhưng đã không nửa lần ngó ngàng tới chúng. Vân vân ví dụ điển hình và không điển hình.

Đó là điều trớ trêu của sinh hoạt văn học Việt Nam hôm nay.

Chưa vội bàn chuyện văn học nước nhà có cái gì đáng đọc hay không mà vấn đề là, chính thái độ đà điểu đó đẻ ra nỗi trớ trêu khác: các ý tưởng (lớn/ bé) giẫm đạp lên nhau mà không biết. Trong đó không ít người viết trẻ (tự nhận) cấp tiến vô tình giẫm lên dấu chân của cánh (anh/ chị ta cho là) bảo thủ và cả người cùng thế hệ. Ba đoạn trích dưới đây là minh chứng sáng giá cho sự giẫm đạp tréo ngoe ấy.

Riêng tôi, tôi theo dõi khá kĩ những Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Văn nghệ Dân tộc, Nhà văn để cuối cùng, ngoài nhận biết hiện tình văn nghệ nước nhà ra, còn là đụng phải bao nhiêu là hời hợt và đồng bộ của ý tưởng, bất cập và tùy tiện của nhận định, thói ta đây với xu phụ của phê bình, nỗi lặp lại sai lầm không biết mệt mỏi của phát biểu.

Câu hỏi & trả lời, là câu hỏi thường được đặt ra với/ đáp ứng của người viết rải rác đây đó dăm năm qua, trong các cuộc trao đổi, phỏng vấn, các buổi nói chuyện về thơ với sinh viên, câu lạc bộ thơ, hội văn học nghệ thuật các tỉnh, thành phố. Nhận định cũng vậy, là nguyên văn phát biểu của người cùng thời được lượm nhặt rải rác trên các trang viết và phản hồi của người viết. Ở đây, tôi sắp xếp lại cho nề nếp để tiện theo dõi.

Inrasara

image

 

- “Chủ nghĩa “hậu hiện đại”, chủ nghĩa “Tân hình thức” ngày nay cũng đang ế khách và tàn lụi dần ở phương Tây [...]. Theo một bài báo của một GS Mĩ thì hàng năm mới có một người mua sách này ở các hiệu sách (!?). Còn ở ta nó là một món hàng mới, không dễ gì nó vượt qua rào cản người đọc ở nước ta”(1)

- “Tôi rất ghét cái gọi là phương pháp nghệ thuật. Những thứ như nghệ thuật viết đơn tuyến, đa tuyến, cấu trúc, sắp đặt… rồi những hậu hiện đại hay sau hậu hiện đại… đều khá buồn cười. Tôi nhận thấy các bạn trẻ hiện nay hay học đòi cách viết lạ (nhưng lạ với mình mà cũ rích với thế giới) mà quên đi rằng: Phương pháp nghệ thuật có kiểu cách thế nào đi chăng nữa vẫn thua sự giản dị. Vì người viết có giản dị tự nhiên mới có được tác phẩm Thật”.(2)

- “Nhiều bạn trẻ đồng hành của tôi mải mê dồn sức lực dồi dào và quý giá nhất đời người vào những cách tân đã lỗi thời ở nước ngoài [...] như “hậu tân thi trào” đã được chôn vùi ở Trung Quốc từ thập niên 80 của thế kỉ trước [...] hay hình thức thơ đã thải hồi ở phương Tây như “thơ hậu hiện đại”, “thơ dự phóng”, “thơ trình diễn” [...] hoàn toàn xa lạ với văn hóa người Việt cặm cụi chịu thương chịu khó”(3)

1. Được xem “là một trong những nhà thơ cách tân nhất hiện nay”, và đã có nhiều thành tựu về sáng tác và phê bình; nhưng xin mạn phép hỏi tại sao nhà thơ lại đi ca ngợi và cổ xúy các sáng tác thiếu nghiêm túc hay các thể nghiệm dị hợm, như nhóm Mở Miệng hay phong trào tân hình thức, hậu hiện đại chẳng hạn?

– Đây là câu hỏi nhỏ và vừa, mang tính thời sự; nó đụng đến bản chất sinh hoạt văn học Việt Nam hôm nay và, biết đâu đấy – quy định khuôn mặt văn học Việt Nam ngày mai. Bởi nó đang là thời sự văn học nên ta thử một lần nghiêm túc thảo luận, nếu không muốn nó trợt khỏi tầm tay.

Trước hết, xin hỏi vặn lại bạn: Bạn đã tìm hiểu thấu đáo mĩ học của tân hình thức, hậu hiện đại chưa? Chắc chưa và, chắc không, phải không? Bởi ngay cả các nhà thơ Việt sinh sống tại Hoa Kỳ vài chục năm qua vẫn còn hiểu và đánh giá các phong trào văn nghệ này đầy sai biệt cơ mà! Cứ xem các nhà thơ tranh luận về tân hình thức trên diễn đàn Talawas.org vào cuối năm 2002, cũng đủ biết. Mỗi người tiếp cận phong trào tân hình thức theo cách/ ý của mình. Đó là họ có điều kiện hơn (tôi nói có điều kiện hơn, bởi người sống ở phương Tây chắc chi đã hiểu rõ, đúng một phong trào văn chương thịnh hành ở đó hơn kẻ khác, nếu không dành cho nó sự quan tâm đúng mức), và chỉ giới hạn ở một phòng trào là thơ tân hình thức.

Riêng chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu phát triển mạnh, ảnh hưởng rộng khắp, nếu không muốn nói nó trở thành xu thế chung của thế giới thì càng khó nắm bắt hơn nữa. Có người nhận định chủ nghĩa hậu hiện đại như thể “cơn kịch phát của của chủ nghĩa hiện đại”, là ý chí cắt đứt với tính hiện đại duy lí của thế kỉ Ánh sáng (Luc Ferry, 1990); và cũng có nhà lí thuyết xem nó “vừa là sự tiếp nối vừa là sự siêu việt hóa của chủ nghĩa hiện đại, là một thứ hỗn hợp mang tính chiết trung của bất cứ truyền thống nào với những gì vừa mới qua” (Ch. Jencks, 1996). Dù gì thì dù, đó là trào lưu văn nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ từ châu Âu, châu Úc cho đến châu Mỹ Latin và cả châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc,…

Hầu hết các nước trên thế giới đều có đại biểu nhà văn hậu hiện đại sáng giá, trong đó lực lượng tác giả xuất thân từ các quốc gia thuộc thế giới Thứ ba góp mặt đông đảo(4). Bạn có thể tìm đọc các tiểu luận về Tân hình thức trên tạp chí Thơ xuất bản tại Hoa Kỳ (từ năm 2000 trở đi) hay các cuộc thảo luận về phong trào sáng tác này trên diễn đàn Talawas.org(5).

Dài dòng như vậy để thấy rằng, ta rất dễ bút sa gà chết nếu chưa điều kiện (muốn, khả năng) hiểu thấu đáo sự thể nào đó mà đã vội phán. Đấy là nói chuyện lí thuyết. Còn thực tiễn Việt Nam thì sao? Theo tôi biết, bạn vẫn chưa đọc hết các sáng tác thuộc hai phong trào này, phải không? Chưa đọc, chưa biết chúng tròn méo thế nào thì làm sao dám cho chúng là dị hợm? Đâu phải loại thơ nào khác với thơ mình, lối viết nào xa lạ lối viết lâu nay ta nhìn nhận thế mới là thơ, thì đều dị hợm. Thơ Mới chẳng đã từng chịu bị các cụ Đồ mỉa là gì!

Bạn trách tôi cổ súy, chớ hỏi cổ vũ sự chuyển động trong văn học có gì là xấu, khi chuyển động đó khả năng làm thay đổi thơ Việt, đẩy nền thi ca đang ì ạch hôm nay nhích tới? Không giả vờ khiêm tốn đâu: tôi đã học được bộn cái hay ở hai phong trào văn nghệ này. Sau Lễ Tẩy trần tháng Tư (2002), tôi tắc và chính tân hình thức đã cứu tôi tạm thời vượt qua giai đoạn bế tắc đó. Còn hậu hiện đại, tôi thường xuyên ghé viếng thăm nó.

2. Đồng ý, tôi không đọc nhiều. Thật ra không có nhiều để đọc, và cũng không cần thiết đọc nữa. Đơn giản: mới lướt qua khoảng chục bài thơ với vài “tác giả”, tôi cũng đủ hiểu đó không gì hơn “trò lừa mị” câu khách rẻ tiền và, tắc tị! “Tác phẩm” photocopy với văn chương số, tôi không xem chúng là một tác phẩm đúng nghĩa như các Nhóm này rêu rao thế!

– Đó là quyền của bạn. Mặc thế giới thay đổi, mặc thơ ca dưới gầm trời này chuyển động, còn bạn cứ yên trí đứng lại hay thậm chí, thụt lùi, cũng là quyền của bạn nữa! Thế bạn nghĩ sao về các tập thơ in photocopy được mọi người chuyền tay đọc hay sao chụp nhân bản, trong lúc các tập có giấy phép đàng hoàng, in đẹp, lượng “phát hành” lên đến con số ngàn mà có biếu cũng không chạy? Cái nào xứng danh “tác phẩm” hơn cái nào?

Và, tại sao bạn dị ứng với Internet? Thế điều tra của báo Figaro, rằng 86% người Pháp sử dụng Internet cho biết họ có đọc thơ, hơn nữa phần lớn trong số họ có làm thơ(6) không đáng gờram mỡ dưới mắt bạn ư?

Nếu bạn không lang thang trên mạng tìm đọc các tác giả nước ngoài, bạn có chút cơ may tiếp cận với thơ người thiên hạ không? Bởi trên thực tế, văn học dịch của ta còn èo uột, sách ngoại văn mới có mặt lác đác trong vài hiệu sách ở các trung tâm văn hóa lớn. Với thế giới, văn chương ta vẫn cứ he hé cửa. Trong khi Internet là lối thoát duy nhất giải quyết nỗi tụt hậu của ta, sao bạn lại đi chối bỏ phương tiện thế kia chứ!

3. Các trào lưu văn chương mọc lên ở phương Tây như nấm sau cơn mưa. Các bạn thơ trẻ xu hướng chạy theo phong trào thời thượng ấy cứ tưởng là mới lắm! Thực ra, tân hình thức với hậu hiện đại “đang ế khách và tàn lụi dần ở phương Tây”, đã bị các nhà thơ phương Tây vứt bỏ mấy chục năm qua rồi. Nghĩa là nó “cũ rích với thế giới” rồi.

– Lạ! Khi có vài trí thức phương Tây làm chuyến “Hành trình về phương Đông” hay đi tìm “Địa đàng ở phương Đông” thì ta mừng rơn, như thể phương Đông đang lên giá ghê gớm lắm, nên Tây phương đổ xô đi học lại giá trị văn hóa cổ truyền của phương Đông. Còn ngược lại, ta vội la lên rằng con cháu hôm nay chối bỏ quá khứ với lai căng, mất gốc.

Tuy nhiên, thế nào là vứt? Các phong trào văn nghệ nảy nở, phát triển rồi suy tàn có phải là vĩnh viễn bị chôn vào nghĩa trang văn chương như lâu nay ta nghĩ một cách thích thú mỉa mai đầy ngây ngô không? Phong trào siêu thực thực sự chết khi thế chiến thứ hai bùng nổ, nhưng bút pháp siêu thực vẫn còn được nhà thơ các nơi vận dụng dài dài, không đáng sao!

Nữa: thế nào là cũ? Phong trào tân hình thức và chủ nghĩa hậu hiện đại, với tư cách là lí thuyết, chỉ mới ra lò ở phương Tây hai, ba mươi năm nay, và đang thịnh hành (cũng có thể “đang tàn lụi”, như vị giáo sư đã tuyên như thế). Trong khi ấy, các nhà thơ thế hệ Thơ Mới học từ chủ nghĩa hiện thực, lãng mạn hay tượng trưng Pháp, cũ gần thế kỉ, vẫn làm nên cuộc cách mạng lay chuyển nền thơ ca Việt Nam.

Tại sao sợ học, sợ ảnh hưởng? Có cái gì mà không lai căng? Nếu không “lai căng” thì làm gì có chuyện tiếp biến văn hóa? Ôm khư khư cái mình có, có phải là đậm đà bản sắc? Bạn thử ra ngoài đường mà ngó quanh mình.

Cạnh ta, Trung Hoa chẳng hạn, công chúng văn học biết đến vài cuộc thay đổi lớn. Các trường phái triết học hình thành và phát triển qua các thời kì khác nhau hoặc xuất hiện cùng thời và cạnh tranh quyết liệt; thêm các biến động kinh tế-xã hội,… kéo theo sự chuyển biến của văn học. Người viết tiếp nhận tư tưởng mới, đáp ứng đòi hỏi của thời đại cũng như nhu cầu làm mới tự thân, chắc chắn đã có những lối thể hiện mới, khác. Nói như Lưu Hiệp, văn chương thay đổi theo thời: thời tự. “Từ thời Trung hưng về sau, các người tài hơi đổi lối văn”, “thời Hán Hiến Đế (189-220) nhường ngôi, văn học chuyển nhanh”, “Thời Giản Văn Đế (371-372) văn học nổi lên đột ngột”, “từ Minh Đế trở xuống, văn lí thay đổi”(7). Người đọc, tùy gu hay não trạng, chọn lựa thứ văn chương hoặc tác giả mình yêu thích. Cứ thế…

4. Tôi không dị ứng với cái mới và có thể nói, luôn ủng hộ giới trẻ tìm tòi, cách tân thơ. Nhưng tôi thấy “sự tìm tòi này chưa tới đâu cả”. Chắc chắn các sáng tác phẩm dị hợm ấy sẽ bị độc giả phản ứng, tẩy chay. “Không dễ gì nó vượt qua rào cản người đọc ở nước ta”. Đó là sự thật. Sự thật đó đã và đang xảy ra, nhà thơ không nhận ra sao?

– Tới đâu là tới đâu? Một nghệ sĩ sáng tạo nếu biết mình tới đâu thì có còn hứng thú sáng tác không? Và nếu có sẵn “định hướng và đích đến” – thì hết là sáng tạo rồi còn gì. Ngay nhóm Sáng Tạo, khi bắt đầu cuộc cách tân thơ ở miền Nam trong những năm 1960, đâu biết mình làm mới từ đâu và tới đâu. Mới, theo họ đơn giản là cắt đứt với cái đã có. Mới trong thơ Sáng Tạo là phải khác với “mới” của Thơ Mới. Mới trong thơ hôm nay là tìm lối khác lối đi thế hệ trước đã đi hôm qua.Chớ nói to tát: chôn phứt quá khứ để lên đường. Mỗi thế hệ hãy nỗ lực làm khác đi. Thế thôi.

Riêng bạn bảo độc giả phản ứng. Độc giả là ai? Mà độc giả nào? Mắc mớ gì họ phản ứng? Thường thì ta hay lôi độc giả ra để làm bình phong cho chủ quan của mình. Và số đông quay ngược lại tin vào bình phong đó. Thế mới kẹt. Thói quen thơ: từ thể thơ: lục bát, 5-7-8 chữ, hay thơ tự do có vần điệu cho đến hệ mĩ học: cổ điển (Trung Quốc), lãng mạn, hiện thực quy định lối thưởng thức thơ của ta. Bài hay tập thơ nào vừa vặn với tầm mong đợi thì được cho là hay.

Câu hỏi đặt ra, thế nào là hay? Tại sao các thế hệ/ trường phái thơ không thể chấp nhận nhau? Tôi đã có lần trả lời phỏng vấn ở Tạp chí Thơ số Mùa Xuân 2006: người đọc cần phải được đào tạo! Bởi, thật sự các thế hệ độc giả hôm nay chưa được chuẩn bị tinh thần đón nhận cái mới, thế nên mỗi lần đọc phải cái xa lạ là giật mình thột. Nữa, thông tin đại không công nhận (in, đăng báo, giới thiệu) các sáng tác mới, thì người đọc không thể tiếp nhận chúng, chẳng có chi lạ.

Đâu phải cái mới nào cũng hay. Phải qua bao nhiêu cuộc sàng lọc mới đọng lại vài cái đáng lưu kho. Qua thẩm định của người đọc đặc tuyển, nghĩa là kẻ được trang bị vốn hiểu biết về hệ mĩ học văn chương đó, đánh giá hay/ dở từ số lượng khổng lồ các tác phẩm thuộc hệ mĩ học đó. Và còn phải qua thẩm định của thời gian nữa.

Ngoái lại nhìn xem các cụ đồ Nho đối xử với Thơ Mới như thế nào cũng đủ biết. Dám trách các cụ không? Thế hệ các cụ đồ chưa biết gì về thơ phương Tây. Qua lối nghĩ, lối nói hoàn toàn xa lạ với những gì các cụ từng biết, từng quan niệm về thơ.

Và khi phong trào Thơ Mới nở rộ, thơ mới tràn lan mặt báo, để trong hơn mười năm thế hệ nhà thơ đó cho ra đời hàng mấy vạn bài thơ (mới), mấy trăm tập thơ được in để chỉ còn trăm bài sáng giá được Hoài Thanh - Hoài Chân cho đăng kí hộ khẩu thường trú trong Thi nhân Việt Nam.

Còn hôm nay thì sao? Ta tiếp đãi các sáng tác tân hình thức với hậu hiện đại như thế nào? Đó là chưa nói kẻ phiêu lưu làm mới có nhiều nhặn gì đâu. Số lượng thua xa thời Thơ Mới, trong khi dân số Việt Nam lên gấp bốn lần, số người đi học lại gấp bốn mươi lần. Mà ít người làm mới, thì làm sao đủ số lượng để sàng lọc. Sao cứ đòi thơ tân hình thức hay ngay từ buổi đầu chập chững ngơ ngác? Ngoài xã hội, ở mọi lĩnh vực, số người thất bại chiếm tỉ trọng khủng. Văn học cũng thế, thất bại ấy rất cần thái độ khích lệ tương tự từ phía xã hội.

Và, sao lại có cả chuẩn bị tinh thần? Kinh nghiệm đọc của một nhà phê bình thơ bậc thầy như Hoài Thanh hay nhà thơ tài hoa như Xuân Diệu đã cho ta bài học. Không chấp nhận với sáng tác thuộc hệ mĩ học khác mình: tượng trưng (phần nào siêu thực) của Đinh Hùng, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh. Khía cạnh này, có thể viện đến não trạng hay gu thưởng thức thơ. Bởi, ai dám cho Xuân Diệu, Hoài Thanh chưa hề biết tới tượng trưng hay siêu thực?

Điều đáng nói là chớ vì thế mà có ý định loại trừ các sáng tác khác lạ ra khỏi đời sống văn chương. Hãy để cho các hệ mĩ học sáng tạo cùng tồn tại, cạnh tranh và phát triển. Cuộc cạnh tranh thơ ca hôm nay cần một môi trường lành mạnh, để các giọng thơ, các trào lưu, hệ mĩ học khác nhau cùng tồn tại và tranh đua, đẩy nền thơ ca Việt dấn tới.

5. Nhưng nói gì thì nói, theo tôi, sáng tác tân hình thức với hậu hiện đại không phù hợp với truyền thống Đông phương, cụ thể hơn: truyền thống văn hóa Việt Nam. Đâu chỉ có tôi, ngay cả một tên tuổi trong làng thơ trẻ “viết đang lên tay” cũng đã nhận rằng chúng “hoàn toàn xa lạ với văn hóa người Việt cặm cụi chịu thương chịu khó” cơ mà!

– Lại truyền thống với bản sắc. Bạn hiểu truyền thống thế nào?

Riêng về thơ, thử hỏi thơ Đường luật trước đó có là truyền thống Việt? Hay Thơ Mới thời Tiền chiến? Bản sắc thơ Việt có cái nào na ná thơ tự do của nhóm Sáng Tạo không? Hoặc như áo dài, mới có lịch sử chưa tới trăm năm, thì trước đó áo gì là bản sắc? Những ngày đầu tiên của áo dài có là bản sắc?

Về vụ này, quả thật tôi không thể nói hay hơn, nên xin nhường lời cho vị khách mời.

“Biểu hiện của chủ nghĩa mình-thì-khác rất dễ nhận thấy. Nó bàng bạc ở khắp nơi.[...] Ở đâu giọng điệu của nó cũng khá giống nhau. [...] Về phương diện nghệ thuật, người ta hết lao vào thử nghiệm này đến thử nghiệm khác khiến thế giới sáng tạo lúc nào cũng trăm hoa đua nở ư? Ừ, thì cũng hay, nhưng... mình-thì-khác. Về phương diện văn học, từ lâu người ta đã bước vào giai đoạn hậu hiện đại chủ nghĩa với những quan niệm mới mẻ và vô cùng lý thú ư? Ừ, thì cũng hay, nhưng... mình-thì-khác. Thậm chí, cả đến thơ tự do vốn đã phổ biến khắp nơi trên thế giới, ở Việt Nam nó vẫn còn bị rất nhiều người, kể cả giới cầm bút, xem không phải là thơ. Lí do? Tại... mình-thì-khác…

Thứ chủ nghĩa mình-thì-khác ấy làm tắt nghẽn mọi nỗ lực vận động cách tân, và cùng với nó, mọi thiện chí tranh luận. Những tín đồ của chủ nghĩa mình-thì-khác hiếm khi nào dám thẳng thắn phản đối hay đặt nghi vấn đối với những giá trị đã được nhìn nhận ở những nơi khác.”(8).

6. Nhưng thi pháp hiện thực và lãng mạn là thực, rất gần với tâm hồn người Việt Nam, nên khi tiếp nhận nó, các nhà thơ ta đã làm nên một cuộc cách mạng lớn trong nền thi ca Việt Nam. Còn tân hình thức với hậu hiện đại hay gì gì nữa,… tôi không tin lắm. Thơ chỉ có thể cảm, đâu cần phải hiểu? Cần gì đến cái gọi là “phương pháp nghệ thuật” kia chứ? Cứ viết thật lòng mình, “viết giản dị tự nhiên” và viết cho hay đâu cần phải hết thử nghiệm này sang thử nghiệm nọ?

– Này nhé! Bạn thử quá bộ vào một phòng triển lãm tranh Cổ điển. Dù trình độ nghệ thuật hạn chế tới đâu bạn cũng có thể mơ hồ nhận ra bức này đẹp (giống), bức kia xấu (không thật). Sau đó bạn thử dời gót sang phòng tranh lập thể, chắc chắn bạn sẽ rối lên mà coi! Một khi bạn chưa biết gì về hệ mĩ học của trường phái lập thể, bạn không thể hiểu, không thể thưởng thức thì có gì đáng trách đâu. Trách chăng khi bạn đứng giữa phòng triển lãm kia và la lối rằng bọn họa sĩ phương Tây vẽ rối mò, cái nào cũng như cái nào, tôi chẳng hiểu gì sất!

Đâu phải cả trăm bức tranh mới lạ kia đều đẹp. Muốn thưởng thức nó, và nhất là muốn biết nó đẹp/xấu thế nào, bạn phải được kinh qua trường lớp, bằng tiếp xúc thường xuyên, nhất là qua giới thiệu phân tích của các nhà phê bình tay nghề cao. Không thể khác! Nhìn từ hướng ngược lại, chính bởi người đọc chưa được trang bị tri thức căn bản về phong trào văn nghệ mới, nên họ mới dễ bị kẻ cách tân dỏm lừa mị.

Trường hợp của lãng mạn và hiện thực cũng thế, không tiếp xúc liên tục và thường xuyên, bạn đâu có được sự tự nhiên đến ấu trĩ và bảo thủ như ngày nay.

Thử điểm vài giọng thơ Việt thế hệ qua và phản ứng của các đại biểu của chúng. Tại sao các thế hệ thơ (thuộc hệ mĩ học khác nhau) không thể chấp nhận nhau, dù họ đều là trí thức hàng đầu ở thời đại họ? Nhà thơ hàng đầu nữa! Huỳnh Thúc Kháng, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Quang Thiều, Đinh Linh cho đến tận hôm nay: Lý Đợi, Bùi Chát, Lê Vĩnh Tài.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng đòi nọc Lưu Trọng Lư ra đánh roi; và trong lúc Xuân Diệu cho thơ Nguyễn Đình Thi lủng cà lủng củng, thì Tố Hữu chẳng chút ngần ngại khi thò tay sửa nát bét tập thơ thi sĩ tài hoa đậm tính cách mạng này. Cũng chớ quên vụ nhà thơ Trần Mạnh Hảo kêu đích danh thơ Nguyễn Quang Thiều là “toàn thơ Tây giả cầy, thơ dịch”! Đinh Linh là nhà thơ Việt hải ngoại sáng giá, thế mà không ít nhà thơ trong nước kêu đó không phải là thơ. Cứ thế, tiếp tục chương trình…

Thứ hai, sao lại sợ phương pháp sáng tác? Và thế nào là hay? E. Pound: Không có bài thơ hay nào được sáng tác bằng phong cách đã hiện hữu cách nay ba mươi năm! Chớ tìm đâu xa, cứ nhìn vào tiến trình thơ Việt Nam cũng thấy. Chỉ nói về thể thơ thôi: đâu phải cứ Lục bát truyền thống với Hát nói mà cày! Chưa đầy một thế kỉ, các thế hệ nhà thơ Việt đã biết đến thơ tám chữ, sáu chữ, tự do có vần và không vần, rồi thơ xuôi. Riêng lục bát, đâu phải mỗi lục bát dân gian Nguyễn Bính mà còn có lục bát hiện đại của Huy Cận; bên cạnh thi pháp lục bát huyền ảo mơ hồ sương khói nhà Phật của Phạm Thiên Thư còn có thi pháp lục bát hậu hiện đại sơ kỳ của Bùi Giáng; rồi lục bát vắt dòng, ngắt nhịp bằng dấu gạch chéo, dấu gạch ngang của Du Tử Lê nữa.

Sợ phương pháp sáng tác, ta cứ dậm chân tại chỗ, không bao giờ nhích lên cõi sáng tác chuyên nghiệp được là cái chắc.

Và “thật” là gì? Thế nào gọi là tự nhiên? “Tự nhiên” hôm nay của bạn không gì hơn là quả cấu thành từ bao nhiêu nhân trước đó: Nền giáo dục ta tiếp nhận, cuốn sách ta đọc, giao tiếp với anh em bạn bè ta, di truyền từ cha mẹ ta, môi trường tự nhiên ta sống. Hãy dám là mình: cái mệnh đề lâu nay các bạn thơ trẻ hót như vẹt ấy, thời thượng và hời hợt ơi là hời hợt! Về sáng tác thơ, nỗi “tự nhiên” với “thật” của ta chắc chắn chỉ là tàn tích rơi rớt lại đâu từ thời Thơ Mới hay Thơ của nhóm Sáng Tạo miền Nam để lại mà không hay không biết!

7. Trở lại luận điểm ban đầu: thế đã rõ là nhà thơ là người ủng hộ sự thể nghiệm, bất kì thể nghiệm nào? Và như thế: Theo nhà thơ cứ để cho bọn trẻ tự do!?

– Đúng, cứ để cho họ dọc ngang thoải mái thể hiện: sáng tác, ra sách, giao lưu trao đổi, hay trình diễn thơ gì gì khác. Thứ nhất, cấm chỉ gây thêm tò mò cho người đọc; thứ hai, ở đó mà cấm với chả cấm trong thời buổi bùng nổ thông tin này!

Chuyến đi Đức đọc thơ của Nguyễn Hữu Hồng Minh vào cuối năm 2005 là một minh chứng khá hùng hồn cho sự vụ. Ví Nhà nước cấm không cho nhà thơ này đi, thiệt hại trước tiên thuộc phía Nhà nước: cánh trẻ (và cả “bọn xấu”) sẽ kêu đích thị Việt Nam thiếu dân chủ; sau đó người đọc chịu thiệt: không biết thơ trẻ hay ra răng, mới lạ tầm cỡ nào mà bấy lâu bị lực lượng “bảo thủ” ngăn cản ghê quá; và sau cùng là thiệt thòi về phía kẻ sáng tác: Nguyễn Hữu Hồng Minh (và…) không biết được mình đứng ở đâu trong dòng chảy của thi ca hôm nay. Ngược lại, nếu cho thoải mái – lợi tất!

Kinh nghiệm nhóm Mở Miệng với Nguyễn Hoàng Tranh (nhà thơ sống tại Úc) đọc và nói chuyện về thơ đương đại tại Lớp cử nhân tài năng ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh vào năm 2004 cũng thế. Thơ họ “bị sinh viên tôi phản đối quá, muốn tẩy chay luôn” (lời vị giảng viên phụ trách lớp). Hoặc thế đứng Nguyễn Thúy Hằng trong buổi ra mắt sách tại Viện Goethe ở Hà Nội cuối tháng 3-2006 cũng vậy.

Nêu ba sự kiện thả cửa hiếm hoi trên để thấy rằng, dù sau trận đem thơ đánh xứ người, Nguyễn Hữu Hồng Minh đã “tự tri tự ngộ” tới đâu, hay vụ “phản đối, tẩy chay” nhóm Mở Miệng bởi những nguyên nhân nào, hoặc nỗi “mất hút” Nguyễn Thúy Hằng ra sao chăng nữa, là vài kinh nghiệm quý hơn vàng, và phải được xem như tín hiệu tốt lành cho văn chương Việt Nam trong thời kì hội nhập. Còn cứ một mực cấm chợ qua cắt giấy phép nhóm Mở Miệng đọc thơ ở Viện Goethe rồi là ngăn sông Ngựa Trời ra mắt Dự báo phi thời tiết tại thủ đô, thì xin hỏi có ơn ích ai không cơ chứ!?

Hãy để các thế hệ trẻ quyền đánh giá và chọn lựa nhau. Tuy nhiên trước hết, hãy trang bị cho họ tri thức cơ bản để họ đủ khả năng đánh giá và chọn lựa. Bởi chính họ chứ không phải ai khác là kẻ viết lịch sử văn học Việt Nam, ngày mai. Để cho bạn thơ trẻ tự do (kể cả tự do buông tuồng), nếu họ “không đi tới đâu” hay dị hợm vô lối thì chính họ sẽ tự đào thải. Người đọc thời hiện đại đủ khôn lớn để không dễ dãi với trò rác rưởi, nhố nhăng, nhảm nhí! Từ đó, cái mới-hay sẽ tồn tại, như một giá trị-mới làm nên truyền thống-mới của văn học Việt Nam.

8. Nhưng dù gì thì gì, tôi thấy các sáng tác cách tân hôm nay cứ na ná nhau sao ấy! Đâu phải chỉ có tôi nhận ra sự vụ đó. Cả làng đều biết. Thử đọc một đoạn nhé:

“Tôi tự hỏi điều gì đã khiến Nguyễn Thuý Hằng và một số người viết thế hệ chị cứ mãi quẩn quanh với những “hạt kinh nguyệt không đồng đều”, những “hạ bộ mặt trời”, những “bọt khí”, “chấm đen đầy máu” hay “não chảy dịch vàng”, “lớp nhầy mưng mủ”, những “tụt quần”, những “mở khoá quần”...”(9).

– Chúng ta đã nửa lần bàn lướt qua vấn đề này ở trên rồi. Chỉ xin kể chuyện vui: Thuở lên tám chăn trâu, có bạn chăn mới suốt ngày mải lo tách đàn trâu năm, sáu con của mình khỏi bầy khoảng vài trăm con. Hắn nơm nớp sợ nếu cho ăn lẫn, chiều về không biết đâu là trâu nhà để lùa về chuồng. Cả tôi cũng vậy, với lũ trâu thì không vấn đề gì, chớ với đám dê, tôi cứ mở to con mắt kinh ngạc khi ông già kia tách đàn cả mấy chục con nhà mình giữa cả ngàn con kia. Dê như dê mà! Với lính Mỹ cũng chẳng khác gì, bọn chăn trâu chúng tôi cứ tò mò muốn biết làm sao ông trung sĩ kia phân biệt được chú lính này với chú lính khác mà kêu tên!

Trình độ chưa qua sơ cấp về nhân chủng của chúng tôi đã ra nông nỗi ấy.

Với hội họa lập thể, trừu tượng hay thơ thể nghiệm cũng không khác mấy. Đâu biết đâu là đâu! Câu cú dài ngắn chẳng ra thể thống gì cả; từ ngữ thì rối rắm, lắm lúc thô tục; vần chẳng thấy đâu; nhịp điệu trúc trắc gồ ghề; rồi là các dấu, đủ thứ dấu; con chữ khi to khi nhỏ, lúc viết bông lúc thì không; cấu trúc bài thơ vô trật tự, ý tưởng nhảy cóc như lũ khỉ, đang nói chuyện này nhảy sang việc khác; rồi thì có tay còn cướp cạn (nhại giễu) thơ kẻ khác làm thơ mình nữa chớ! Vân vân. Nghĩa là không thể hiểu được bọn tự vỗ ngực là tiền vệ nói cái gì, bài giống bài, tập như tập, tác giả hệt tác giả.

Không đâu vào đâu, chủ yếu là do thói quen thơ của ta. Thói quen làm với thói quen đọc. Một khi ta chịu dịch chuyển suy tư sang chiều hướng khác, chịu chấp nhận cái khác mình, mọi sự sẽ thay đổi.

Không phải cái mới hôm nay đã không lặp lại mình, nhiều nữa là khác! Sự lười nhác tư duy thơ hay cả lao động nghệ thuật khiến không ít khuôn mặt mới rập khuôn bạn thơ ở ngay thế hệ mình(10).

9. Như vậy, qua đối thoại tôi mới hiểu là nhà thơ chê nhiều chứ có cỗ vũ hay ca ngợi cánh trẻ như bị đồn thổi vậy đâu! Nhưng dẫu sao tôi cứ ngờ ngợ nhà thơ đang bơi lấp lửng giữa mới và cũ, giữa khen và chê, truyền thống với hiện đại. Vậy xin hỏi: đâu là quan điểm chuẩn của nhà thơ và, đâu là phương pháp phê bình Inrasara?

– Tôi từng nói tôi sống và viết ở đường biên! Có khen chê đâu. Nhà thơ chứ trẻ nít đâu mà vòi roi vọt hay bánh kẹo. Tôi cũng không quan tâm đến lối phê bình được mệnh danh phê bình bắt sâu hay thưởng hoa. Điều tôi muốn làm là “lập biên bản” (như cảnh sát giao thông lập biên bản hiện trường tai nạn) các sự biến văn chương (nhấn vào thể loại thơ) đang xảy ra trong thời đại tôi đang sống, con người đang làm việc và sáng tạo cùng thời với tôi. Có chú cảnh sát nào dám bỏ sót tai nạn, nếu chú ta làm thiệt, không muốn bị kiểm điểm. Người sống thời sự văn học nào cũng hành xử vậy, nếu hắn không muốn bị tụt hậu hay không chấp nhận lỡ tàu thời đại.

Lập biên bản nghĩa là phơi mở sự việc như nó là thế mà không áp đặt một lối nhìn nào bất kì. Dù đó là lối nhìn nhân danh truyền thống hay bản sắc văn hóa dân tộc, một chân lí đinh đóng hay cái đẹp vĩnh cữu. Cũng không phải từ lập trường văn học trung tâm nào, từ chủ thuyết văn chương thời thượng nào. Tôi đã cố giữ nguyên hiện trường như thế với nhóm Mở Miệng, với phong trào tân hình thức Việt và mọi tác giả ý hướng cách tân đơn lẻ khác. Diễn đạt bằng ngôn từ giản đơn nhất có thể các quan điểm sáng tác, qua đối chứng với chính sáng tác phẩm của họ đặt trong tiến trình phát triển thơ Việt trong thời đại toàn cầu hóa.

Các quan điểm sáng tác ấy chưa hẳn đã cùng lối nghĩ tôi hay tôi đã đồng tình hoàn toàn với nó, nhưng tôi cố gắng nhìn nhận nó như là thế.

Tình trạng phân hóa của hệ mĩ học và quan niệm sáng tác xảy ra từ dăm năm trước, ngày càng rõ nét. Mỗi ngày, cả trăm bài thơ nóng hôi hổi được bắn lên mạng. Hằng năm, mấy trăm tập thơ xô đẩy nhau xuất lò in, cả lò photocopy. Không ai tự nhận quán xuyến tất cả các sáng tác khác lạ và cả khác nhau ấy. Thế nên, một nhà phê bình chỉ có thể chọn lựa một quan điểm thẩm mĩ nhất quán, để làm phê bình.

Nhìn tới nhìn lui, rất ít (nếu không nói là chưa có) nhà phê bình nào chịu đồng hành với thơ đương đại (cụ thể hơn: thơ hậu đổi mới) để có thể song thoại sòng phẳng. Có, nhưng chỉ để trù dập hay tán tụng. Chưa có ai dấn thân trọn vẹn với các trào lưu sáng tác mới, để có thể nắm bắt, cả phần sáng lẫn bề tối của chúng. Qua đó, khai mở cơ sở văn hóa, nền tảng triết học hình thành các loại thơ kia. Các nhà phê bình rất ngại đi vào vùng xoáy dễ sa sẩy của sáng tác mới, của hôm nay. Tinh thần ngại phiêu lưu khiến các nhà phê bình luôn tìm chốn trú ẩn an toàn trong miền sáng tác thuộc hệ mĩ học đã được thời gian thẩm định và lưu kho.

Thời cuộc thay đổi. Thơ đã thay đổi. Và, cách nhìn nhận thơ cũng phải thay đổi. Một hệ mĩ học sáng tạo chỉ có thể được vượt qua bằng phê bình tác phẩm đại diện xuất sắc thuộc hệ mĩ học đó, chứ không phải ngược lại. Thế nhưng, phê bình hôm nay đang thiếu, thiếu và thừa lớn. Thiếu tư thế tự do cần thiết nên thừa sự tránh né, cả nể. Không đủ cô đơn cho… phê bình, nghĩa là thiếu giữ một khoảng cách cần thiết với đối tượng nên phê bình dễ tạo cảm giác thừa tinh thần phe nhóm, cánh hẩu. Thiếu thẩm quyền chuyên môn, do đó, các nhận xét đều thừa ý kiến vừa xu thời vừa bất cập, tùy tiện. Cuối cùng, thiếu hiểu biết về lao động nghệ thuật cùng lòng say mê nghề nghiệp, nên thừa bài viết theo sơ đồ sáo ngữ được làm sẵn, ở đó hoàn toàn vắng bóng suy tư (11).

10. Đã có quá nhiều bài tụng ca ca ngợi vống lên vài tên tuổi mới xuất hiện chưa có thành tựu đáng kể nào, lại ca ngợi không đặt trên nền tảng nào, thiếu dẫn chứng thuyết phục từng đã tạo dị ứng trong dư luận người đọc, nhà thơ không sợ mình vướng vào hệ lụy đó sao? Ở phía khác: chụp mũ với trù dập.

– Chúng ta đã bàn qua rồi: sự lẫn lộn giữa văn chương (đích thực) và (văn chương) báo chí đã tạo ra bao nhiêu ngộ nhận tệ hại. Người ta dễ dãi bày ra cái nhãn “nhà thơ siêu hình” khi chưa cho người đọc hiểu món siêu hình là nỗi gì, hay “biểu tượng giải phóng phụ nữ trong văn học” mà chưa hề trình tâu câu thơ nào khả dĩ minh họa cho phán quyết bạo phổi đó, hoặc “cách tân táo bạo” dù không dẫn ra một so sánh tối thiểu với cái từng xuất hiện trước đó – tất cả chỉ là phát ngôn bất cập và tùy tiện của không ít người làm phê bình (cảm nhận), thời gian qua. Thế mà cái nhãn kia được nhà thơ vốn nhẹ dạ cả tin viết vào giấy dán ngay lên… cột tập thơ mình! Tung hứng đánh đu qua lại như thế, làm sao người đọc không quay lưng với thơ cơ chứ. Có thể gọi đó là món kí sinh văn nghệ. Trước tiên, đàn em kí sinh tên tuổi đàn anh/ chị mà leo lên; sau đó, sự kí sinh phát triển theo chiều ngược lại!

Ngoài sự thiếu tư thế tự do và thiếu hiểu biết về lí thuyết mới, sự chưa đủ cô đơn cho phê bình như không giữ khoảng cách cần thiết với đối tượng, là một trong những lí do khiến vài ngòi bút đàn anh/chị sa lầy trong thẩm định tác phẩm. Sự phán quyết thiếu vật chứng ấy sinh ra bao nhiêu là hệ lụy.

Đấy là nói chuyện “khen”, riêng chê thì xin miễn bàn. Tại sao ư? Đơn giản, có ai thấy các tập thơ của Bùi Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, hay Dự báo phi thời tiết (thơ của năm tác giả nữ, NXB Hội Nhà văn, H., 2005) được “chê” bao giờ và ở đâu đâu?

Bởi ta chưa có diễn đàn tự do thật sự nên người đọc chỉ được nghe một chiều. Các đối tượng bị oan không có tí ti cơ hội nào mà đánh trống kêu. Do đó, mọi thiệt thòi đều đổ về phía người đọc, hay nói to hơn là: văn học Việt Nam.

11. Nữa: xin nhà thơ cho biết đâu là lối thoát cho thơ hôm nay? Năm ngoái nhà thơ đã từ chối trả lời câu hỏi rất thẳng của tôi. “Tôi không nhất trí với sự chạy trốn trách nhiệm này, khi nhà thơ nêu nhưng không giải quyết được vấn đề”.

Chớ mà dại dột tự kí phép cho mình làm thầy lang bốc thang thuốc xuyên tâm liên chữa bách bệnh cho nền thơ Việt Nam. Chỉ xin thành thật với nhau một điều là: cần thiết phải có diễn đàn văn học tự do. Diễn đàn, ta không thiếu: Văn nghệ, Văn nghệ trẻ… Tuy nhiên, các tờ báo chuyên văn học của Hội Nhà văn chưa mạnh dạn chấp nhận tiếng nói khác mình hoặc ý tưởng đa chiều. Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu hay trước nữa, “Vụ Hoa thủy tiên” chẳng hạn, người đọc chỉ được cho nghe một bề “phê”, chứ chưa thấy đâu ý kiến ngược. Thì làm sao dư luận rộng đường? Hiện tượng nhóm Mở Miệng hay Ngựa Trời xôm tụ là thế, có bao giờ Văn nghệ, Văn nghệ trẻ hạ cố dành cho ít trang gọi là? Chỉ có vài tờ báo không chuyên “đặc trị” chúng.

Hội nghị những người viết văn trẻ vừa qua, khá nhiều ý kiến phê phán Văn nghệ trẻ. Theo thông tin lóm được, bạn trẻ tập trung chê Văn nghệ trẻ “không trẻ”, vì báo chỉ chuyên đăng các sáng tác già cỗi, cũ mèm. Đó là một phê phán đúng nhưng thiếu và, không cao tay. Bởi ranh giới cũ mới, dở hay trong sáng tác, nhất là thể loại thơ thì cực mơ hồ, có bàn đến tận thế cũng không xong.

Đánh giá Văn nghệ trẻ vài năm qua, Nguyễn Quang Thiều dù cố gắng nhỏ nhẹ cũng phải kêu lên một tiếng: “Tôi nghĩ Văn nghệ trẻ đang rời xa đối tượng cơ bản nhất của mình”(12). Nguyễn Quang Thiều đã không cụ thể. Theo tôi, cái dễ thấy nhất ở tờ báo là nó đã và đang mang vác một thứ thừa và ba cái thiếu. Thừa và thiếu nghiêm trọng.

Thừa: bổn phận của Văn nghệ trẻ có phải dành đến bảy, tám trang báo để đa mang chuyện xã hội hay đánh tiêu cực? Đánh tiêu cực xã hội, Văn nghệ trẻ cạnh tranh nổi với Thanh niên hay Pháp luật chắc? Trong khi báo ta lại đem bỏ chợ đứa con đẻ (nhiệm vụ chính) của mình.

Thiếu: đó là thiếu về sự trình bày lí thuyết, trào lưu văn nghệ đương đại. Trình bày không mang tính hàn lâm, mà qua con mắt của nhà sáng tạo: đầy đủ, chính xác với lối nhìn khách quan và nhiều chiều. Để thế hệ nhà văn trẻ của ta bớt đi nỗi lạc hậu tình hình văn chương người thiên hạ.

Thiếu thứ hai là thiếu về giới thiệu các khuôn mặt xuất sắc của văn chương khu vực và thế giới, nhất là các khuôn mặt mới. Để bạn văn trẻ biết mình đang đứng ở đâu trong dòng chảy của văn chương thế giới, tránh sự hợm mình kiểu cóc ngồi góc mâm.

Thiếu thứ ba là Văn nghệ trẻ chưa bao giờ dũng cảm giới thiệu đến nơi đến chốn trào lưu, hiện tượng thơ văn trong nước gây xôn xao (cả thật lẫn giả) dư luận. Để người đọc nhận chân giá trị của các sáng tác đó. Và, nhiều thứ khác nữa.

Đó là nỗi không làm tròn bổn phận của tờ báo chuyên, một không làm tròn tưởng vô thưởng vô phạt nhưng thật sự đã tác hại không nhỏ đến phát triển của văn học hôm nay và cả mai sau.

Tóm lại, tuần báo Văn nghệ, tạp chí Văn (TP Hồ Chí Minh) lâm trọng bệnh gần mấy năm qua rồi, mãi hôm nay vẫn chưa có dấu hiệu ngoi ngóp. Như vậy, chỉ còn hi vọng Văn nghệ trẻ, Văn nghệ “hãy là mình”, “dám là mình” và, “đừng rời xa đối tượng cơ bản nhất của mình”, như kẻ đã từng nuôi lớn nó mong mỏi thế.

12. Câu hỏi cuối: Tôi nhớ cách nay vài năm, khi vừa xuất hiện với tư cách người làm lí luận phê bình, nhà thơ đã có hàng loạt bài “Để thơ đến với bạn đọc”? Như vậy, ta bắt đầu từ đâu? Cụ thể hơn: làm thế nào để người đọc trở lại với thơ?

Thơ đang mất độc giả, là thực tế. Thơ ca ngày càng xa rời quần chúng và đánh mất lớp công chúng trung thành. Nhà thơ hôm nay đang sống co cụm, cày cuốc và cãi cọ trong đám ruộng nhỏ bé của mình. Làm sao giành lại người đọc đã mất và chinh phục người đọc mới. Bắt đầu từ đâu?

Dana Gioia trong tiểu mục: “Nhà thơ làm thế nào để được biết đến”, đã “nêu lên sáu đề nghị khiêm tốn”. Trong thực tiễn sinh hoạt thơ Việt nam, tôi thử rút bớt còn ba:

“Khi nhà thơ đọc thơ trước công chúng, nên bỏ ra một phần của chương trình để đọc thơ người khác”. Đây là yêu cầu dễ thực hiện hơn cả, vậy mà đa số nhà thơ Việt Nam ít khi làm được. Lạ! Ta luôn tranh thủ cơ hội xuất hiện trước công chúng với tần số cao nhất có thể, không để làm gì cả, ngoài trả lời phỏng vấn, thổ lộ hoàn cảnh ra đời của bài thơ rồi, đọc các bài thơ… cũ mèm của mình. Trên màn ảnh nhỏ hay sân khấu, hội trường. Đọc thơ là để tôn vinh thơ chứ không phải tôn vinh nhà thơ. Ồ, nếu các nhà thơ ta dứt bỏ được “tâm thế” chuyên đọc thơ mình trước công chúng thì thơ sẽ được nhìn nhận khác đi nhiều lắm lắm.

“Nhà thơ cần viết nhiều về thơ hơn, vô tư hơn và công hiệu hơn”. Bởi thơ (hậu) hiện đại hãy còn xa lạ với người đọc. Đã lâu lắm rồi, các trào lưu thơ thế giới không được giảng dạy trong các trường đại học. Nhà thơ sáng tác theo khuynh hướng mới, cần thuyết lí về hệ thẩm mĩ của mình, dĩ nhiên, bằng ngôn từ giản đơn có thể. Ở các báo chuyên lẫn không chuyên. Và, khi viết về thơ của người cùng thời, nhà thơ cần viết với tinh thần trong sáng, vô tư. Không bài xích kẻ không cùng quan điểm sáng tạo, không phủ định sạch trơn các sáng tác mình chưa hiểu; sẵn sàng ca ngợi và biết ca ngợi các bài thơ hoặc thi phẩm độc đáo. Công hiệu, tại sao? Bởi đã không ít kẻ ủng hộ cái mới, nhưng do hạn chế ở thẩm định và diễn đạt, các lời lẽ đề cao thành phản tác dụng: người đọc càng dị ứng với cái mới hơn!

“Các nhà thơ biên soạn thi tập – hoặc chỉ đưa một danh sách đọc – nên thành thật một cách thận trọng, chỉ gồm những bài thơ họ thật tình hâm mộ”. Thời gian qua, ta đã làm nhiều thi tuyển, đủ kiểu. Theo đề tài, theo thời đoạn, theo giới cũng có mà theo nghề nghiệp cũng xong, khuynh hướng sáng tác lẫn quen biết bạn bè cũng không chừa. Để làm phong trào, để giải ngân hay để gì gì nữa. Người tuyển luôn mặc cho cảm tính, cảm tình hay dáng vẻ của các tên tuổi thao túng. Dù ở “lời nói đầu”, Ban tuyển bao giờ cũng tuyên vô tư khách quan đáo để. Như thể phân phối tem phiếu vậy. Thì làm sao hàng trăm bài thơ trong mấy tuyển kia đủ sức lay động tâm hồn người đọc, kích thích họ trực tiếp tìm đến thi phẩm của các tác giả riêng biệt?

P.S.

Lẽ ra Góp nhặt sỏi đá tạm ngưng tại đây, như nhiệm vụ nó đặt ra cho mình ban đầu: thu lượm các nhầm lẫn lặp đi lặp lại trong nhìn nhận về thơ Việt. Xong việc, nghỉ là đúng phép nhà. Bất chợt một bạn có lẽ còn ấm ức nên, đã hăng hái chất vấn ngoài lề. Đây là hỏi trả lời muộn hơn cả(13). Tôi tạm dùng nó làm phần kết cho Đối thoại giả định-thật này.

13. Đó là yếu tố khách quan, còn chủ quan của người sáng tác? Trong "Chân dung cát", nhà thơ viết: "Càng hiếm hoi hơn nữa con người tuổi trẻ của ngày hôm nay chịu suy tư trong cô độc hơn là thích làm nổi bật mình nơi đám đông". Trong tập tiểu luận có cái tên rất gợi: "Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo", nhà thơ cũng nói rằng: "Không phải người viết văn làm thơ hôm nay chưa thâm nhập đầy đủ vào thực tiễn cuộc sống của quần chúng lao động; không phải do ta dốt, không đọc nhiều, kém tri thức về các trào lưu văn chương thế giới; không phải bởi thế hệ mới còn quá mỏng kinh nghiệm; càng không phải thời hiện đại bận rộn tiêu mất quá nhiều thời gian của người viết, mà thiếu, nguyên nhân chính sâu xa và nền tảng hơn, như là nguyên nhân của nguyên nhân - do kẻ sáng tạo chưa đầy đủ cô đơn. Cô đơn đầu tiên và cuối cùng. Sự cô đơn cần thiết để tạo nên tác phẩm chiều sâu...". Vậy chúng ta phải “phấn đấu” cô đơn mới có sáng tạo mới hay sao?

Mô phật! Tôi phân cấp “cô đơn” của kẻ sáng tạo làm ba lô khá là rành rọt: Thời kì tìm ý thai nghén mang nặng, giai đoạn tập trung viết tác phẩm (chính xác hơn: kì gian ngồi trước trang giấy/màn hình không chữ) và, sau khi tác phẩm mở mắt chào đời. Do mãi nhăm nhăm vào lô thứ nhất: nhà văn tách khỏi sinh hoạt tập thể, xã hội và cộng đồng nghề nghiệp mình, từ đó đã có vài ngộ nhận không đáng có. Đó mới là cô đơn ở cấp độ thứ nhất, chính danh – “cô độc”. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, nó chỉ dừng lại ở quả vị A-la-hán, dẫu đã sang bờ bên kia, chưa quay trở lại làm bố tát cứu độ chúng sinh! Và tôi cũng không đặt nặng nó cho lắm. Có thể nói, vài phản ứng vụn từ khi bài viết xuất hiện xung quanh “cô đơn” chỉ mon men ngoài hè hay mới dừng lại ở cửa mà chưa bước lên chánh điện. Lạ vậy chứ!

Cô đơn LÀ tự do LÀ sáng tạo. Khi tôi chết đi mọi thiên kiến, mọi lo âu thường nhật; khi tôi chết đi mọi âm thanh và cuồng nộ của cuộc người; nhất là, khi tôi chết đi mọi sợ hãi – là tôi cô đơn.

Cô đơn đầu tiên và cuối cùng, đấy là bắt chước lối nói của J. Krishnamurti (The First and Last Freedom). Là khoảng rỗng nơi tâm thức kẻ sáng tạo. Không phải tôi sở hữu nó như thể trẻ con sở hữu hòn bi, mà chính nó chiếm hữu tôi, ném tôi vào khoảng rỗng vô định và đầy bất an của nó. Trước trang giấy trắng hay màn hình xanh nhạt (mèng, có ai ngồi trước tờ giấy trắng một cách “tập thể” đâu!), tôi không còn nghe một giọng mơ hồ nào đó răn đe, thoát khỏi mọi nhắc nhở phải thế này hay không nên thế kia. Tôi LÀ một sinh thể tự do. Như thiền sư đạt đạo thơ ca, “thõng tay đi vào chợ, thong dong giữa miền cuộc đời”. Dẫu lang thang vào các làng Cham Phan Rang cháy nắng hay ngược xuôi giữa nhộn nhịp đường phố Sài Gòn, hội nghị họp hành của Hội Nhà văn hoặc nhậu nhẹt bù khú anh em vỉa hè, tôi vẫn cô đơn. Cư ngụ trong khoảng rỗng đó, sáng tạo sẽ tuôn tràn.

Còn ở lô thứ ba: sau khi tác phẩm được ném ra ngoài mưa gió cuộc đời, hãy cứ mặc nó ra sao thì ra và đừng lo tìm cách bảo vệ nó trước búa rìu dư luận, nếu có. Nhớ rằng, tự quảng bá tác phẩm hay bảo vệ tác quyền không đồng nghĩa với đứng ra bảo vệ tác phẩm mình. Đây là điều ít nhà văn trẻ hôm nay làm được. Tôi gọi đó là chưa cô đơn khi tác phẩm đã ra đời. Một chưa đủ cô đơn cực kì nhảm nhí!

Sài Gòn, tháng 7-2006.

____________________________________

Chú thích

(1) Mai Quốc Liên, “Một vài nhận thức về lí luận văn nghệ hiện thời”, báo Văn nghệ, 22.04.2006.

(2) Từ Nữ Triệu Vương trả lời phỏng vấn, Tạp chí Nhà văn, số 05.2006.

(3) Lê Thiếu Nhơn, “Giải mã ảo giác thơ trẻ”, báo Thế thao - văn hóa, số 84, 15.07.2006.

(4) Xem thêm: “Hậu hiện đại và Thơ hậu hiện đại Việt”, http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/hau-hien-dai-tho-hau-hien-dai-viet-mot-phc-hoa/.

(5) Riêng chủ nghĩa hậu hiện đại, có thể tìm đọc Tạp chí Việt (1998-2001, 8 số cả thảy) do Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn chủ trương, xuất bản tại Úc và: Văn học hậu hiện đại thế giới (2 tập): Những vấn đề lí thuyết và Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới,, NXB Hội Nhà văn, H., 2003.

(6) Evan.vnexpress.net, 4.2004.

(7) Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB Văn học, H., 1999, tr. 254-257.

(8) Nguyễn Hưng Quốc, Văn hóa văn chương Việt Nam, NXB Văn mới, Hoa Kỳ, 2002, tr. 21-22.

(9) Nguyễn Thanh Sơn, “Câu chuyện chú mèo và cuộn len hay về Thời hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lý của Nguyễn Thuý Hằng”, Talawas.org, 06.04.2006.

(10) Xem thêm: “Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố ‘nữ’”, https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tho-nu-trong-hnh-trnh-cat-dui-hau-to-nu-2/.

(11) Xem thêm: Theodor W. Adorno, “Về khủng hoảng của phê bình văn học”, Trương Hồng Quang dịch, Talawas.org.

(12) Văn nghệ trẻ, ngày 25.06.2006.

(13) Báo Thể thao - Văn hóa, 14.07.2006.