Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2022

Hương biển

Truyện Nguyễn Thị Thanh Bình

Người đàn ông đó lâu lâu vẫn lai vãng trong những giấc mơ của tôi. Nơi một bãi biển hoang vắng, đôi chân trần của ông ta thường để lại trên cát ướt những câu thơ thật buồn mà hình như chỉ mình tôi đọc được. Những câu thơ ấy lắm khi bị sóng cuốn đi rất nhanh, như ông ta cũng lướt đi quá nhanh cùng với những ngày biển trở mình dông bão.

Đêm qua tôi lại mơ thấy ông ta lần nữa và sáng nay thức dậy tôi bỗng ngơ ngác như đang kiếm tìm một điều gì đó sắp sửa xảy ra. Một điều gì đó hết sức thần diệu rồi sẽ cuốn phăng tôi đi. Tôi sẽ ngủ thật ngoan hiền trong vòng tay ôm của biển.

Trong những dự cảm mơ mơ màng màng ấy, hình như tôi thấy sự sống đang bắt đầu trở về trong tim. Hơn bao giờ hết, tôi muốn vất tất cả những lọ thuốc ra ngoài ô cửa. Ôi, sao nắng bỗng lung linh từng sợi nhỏ và đến cả từng hạt cát thảy thảy cũng đều lung linh. Có phải lúc này tôi chẳng cần một thứ gì nữa cả, những lọ thuốc hay những mũi chích đối với tôi giờ vô hiệu, ngoại trừ một chút nắng trong đôi mắt của người đàn ông ấy.

Buổi sáng tôi lang thang trên biển. Buổi chiều tôi cũng âm thầm ra biển, trung bình một ngày hai bận. Cả tuần lễ nay không ngày nào là tôi không ra thăm biển. Người đàn ông đã hứa sẽ mang về cho tôi những chiếc rương bí mật vớt từ lòng đại dương sâu thẳm. Tôi sẽ tiếp tục sống và chờ đợi ông ta, cho dù càng lúc tôi càng giật mình vì khuôn mặt xanh mướt của mình trong gương. Vị bác sĩ săn sóc sức khỏe vẫn làm tôi có cảm tưởng như sắp được giải thoát tới nơi. Tôi sẽ không còn phải chịu đựng những đớn đau hủy diệt của thể xác. Những ngày đi đổi gió và được sống gần biển, tôi như quên đi những ám ảnh về một giấc ngủ thiên thu nào đó. Căn phòng lấp lánh kính phản chiếu từng rặng phi lao xanh ngắt, lồng trong một mảnh trời biếc như ngọc thạch thênh thang mây trắng; trông giống cảnh vật của một động thiên thai nào bỏ ngỏ. Chưa bao giờ tôi thấy say mê đất trời và ao ước được bay bổng cùng ai đó lên cao, lên cao mãi như thế. Nhưng ông ta ở đâu, hay suốt đời tôi chỉ có thể bắt gặp người đàn ông ấy trong giấc mơ?

Xung quanh chẳng ai chịu nổi những nắng mưa ủ dột thất thường của tôi. Tôi là đứa con gái cô độc, chưa bao giờ biết cảm tạ những ân sủng của tình yêu.

Hình như tôi không mấy được Thượng Đế thương yêu. Người ta bảo tôi hệt như con búp bê vô cảm. Tôi chẳng hôn ai và được ai hôn.

Vẫn như thường lệ, sáng nay tôi lại ra biển độc thoại. Bao giờ một mình cũng buồn cả. Tôi đi lơ ngơ bỏ lại đằng sau những dấu chân cát lạnh hệt con nhỏ thất tình. Nhìn biển bất ngờ nổi cơn thịnh nộ, tôi mới hoàn hồn sực tỉnh. Mới sáng sớm hôm qua ra thăm biển lúc mặt trời thức dậy, trông biển hiền hòa và lóng lánh như ẩn chứa hàng ngàn con mắt lay động. Chiều hôm qua biển vẫn còn nắng ấm nồng nàn. Vậy mà trước mặt, biển đã biến hình. Nhắm mắt lại thấy biển, mở mắt ra cũng thấy biển nhưng biển bây giờ đã trở nên dữ dằn, hung hãn. Nghe nói có một cơn bão rớt sắp đi qua. Thảo nào nhìn vẻ đẹp cuồng nộ của biển, tôi mới nhận ra sự vắng lặng không ngờ của bãi biển hôm nay. Không còn ai dám quanh quẩn, kể cả chú “lifeguard” canh chừng cũng đã bỏ đi, nên tôi tha hồ được ngắm biển kỹ hơn. Chính những lúc này tôi mới chia sẻ được sự cô độc đồng cảm giữa mình và biển. Biển vắng bóng thuyền, như tôi vắng vòng tay ôm bên cạnh. Sáng hôm đó tôi trở về phòng khóc một trận vô cớ. Tự nhủ tôi sẽ yêu biển cho đến chết. Ờ nhỉ, không phải mọi điều quan trọng trong đời tôi đều có biển làm chứng cả sao?

Chiều đến tôi lại vờ quên áo ấm để được co rút trên biển. Tôi vẫn không thể không ra thăm biển khi chiều vừa xuống. Những sợi tơ chiều màu tim tím khi được rụng bay cùng sóng biển trông ảo diệu làm sao! Những lúc ấy tôi có cảm tưởng như ngoài khơi kia, biển vẫn thích chọn thời khắc này để ghé sát rong rêu thầm thì. Và chừng như ở nơi bờ cách xa chân mình vài gang tay, tôi cố nghe nỗi xao động ấy của biển vọng lại để đập cùng tôi những ngọn sóng triều tâm tư. Tôi bắt đầu muốn viết cho biển những câu thơ, rồi bỗng nhớ vô cùng những con dã tràng tuổi nhỏ ở một bờ biển xa tắp quê nhà.

Sự xuất hiện của một giọng đàn ông rất trầm đối với tôi lúc đó tưởng như là một tai họa. Tôi không tin trên biển vào lúc này vẫn còn có một ai khác, ngoài mình. Tôi chỉ muốn được yêu biển và giữ lấy biển cho riêng mình. Nhưng tiếng nói ấy đã phát ra như ấp ủ từ một bờ ngực ấm:

- Chào cô nhỏ.

Tôi ngước lên, chợt hoa mắt khi vừa bắt gặp thứ đốm sáng quen thuộc trong đôi mắt của người đàn ông. Không thể cảm thấy có một ánh nhìn nào ấm áp như vậy, nếu tôi chưa từng được gặp ông ta lần nào. Điều này làm nỗi sợ hãi trong tôi bỗng biến mất, nhường lại cho nỗi thích thú không tên.

Có thật là ông ta đây không? Người đàn ông đã từng đi xuyên qua những giấc mơ của tôi. Thật tình tôi muốn hét, muốn kêu lên một điều gì đó nhưng môi tôi như cứng lại, tê dại trong những cảm xúc thật bàng hoàng và hỗn loạn.

Người đàn ông nhìn sửng vào mắt tôi. Một lần nữa tôi lại bị hai vũng nắng lung linh tuyệt vời ấy lan tỏa vào tim óc xao xuyến. Đôi mắt của ông ta. Những trao gởi bí mật trong những giấc mơ tảng sáng. Đôi mắt ấy bây giờ cũng chợt biết nói thứ ngôn ngữ không lời. Một bày tỏ óng ánh niềm vui:

- Thật là một điều kỳ dị. Sao tôi lại được gặp cô nhỏ ở đây trong một ngày biển vắng như thế này chứ.

Tôi đáp không một chút nghỉ ngợi, như một người vừa được vặn đúng tần số:

- Thật là một điều kỳ dị. Em cũng nghĩ như ông vậy. Sao lại có một người xuất hiện trong một ngày biển vắng như thế này nhỉ.

- Tôi nằm phục ở đây cả nửa hôm rồi, để chờ quay và chụp vài tấm hình của biển trong ngày bão rớt ấy mà. Tin khí tượng đôi khi chẳng đúng đâu, nhưng tòa soạn cần thì mình cứ phải chờ thôi.

- A, hóa ra ông là phóng viên nhiếp ảnh à?

Tôi vừa thoáng để ý tới những thứ máy móc trang bị lỉnh kỉnh trên tay lẫn trên vai ông ta. Dáng người đàn ông to cao, cơ hồ như cả vòm trời muốn phủ xuống bao chở lấy tôi – một tôi lướt thướt và yểu mệnh như vệt nắng chiều tà. Ông ta đó, nói nói cười cười như tôi vẫn thường mơ thấy. Chỉ khác một điều là ở ngoài giấc mơ, tròng mắt liếc nhìn đong đưa ấy được trời đất lúc này pha màu xanh lơ, như màu mắt biển vào ngày hè nắng đẹp:

- Vâng, một cái nghề không mấy thú vị cho một cái tổ ấm. Tôi phải nay đây mai đó khá nhiều.

- Ông nói như có vẻ than vãn một điều gì. Nhưng mà không phải đàn ông là người lúc nào cũng thích chờ đón những cái mới, những thay đổi bất ngờ cả sao?

Ông ta nheo mắt, dịu dàng như chưa bao giờ:

- Có những thay đổi làm đảo lộn cả đời sống không phải của riêng ta, mà của cả những hệ lụy tới mình nữa cô nhỏ ạ. Ví dụ như những tình cờ...

Người đàn ông bỏ lửng câu nói, chỉ nhìn sâu vào mắt tôi. Một cái nhìn táo tợn, hớp hồn người đối diện. Hình như cả tôi và ông ta đều ngỡ ngàng. Tự nhiên tôi thấy mình bị quặn thắt ở ngực. Sao những điều quá đẹp vẫn hay làm tôi đau tim bất tử. Lẽ nào ông ta sẽ là của tôi? Không, người đàn ông có đôi mắt đẹp lạ lùng như thế này chỉ có thể gặp gỡ trong những giấc mơ. Diễm ảo và diễm ảo.

Không nhiên tôi hốt hoảng rủ rê những cơn ho trở về. Tôi vẫn thường bị nghẹn thở, điều này chẳng có gì lạ. Chỉ tội nghiệp là ông ta chưa hề được báo trước điều này. Càng lúc vẻ luống cuống lo âu của người đàn ông càng như xoáy thêm những cơn ho của tôi. Cơn bệnh lần này trở về không đúng lúc và nhất định không chịu cút đi.

Cuối cùng ông ta phải bế thốc tôi lên, như bế thốc một xác chết đi chôn. Xác chết của đứa con gái lần đầu được gần gũi thứ hơi thở nồng ngái đàn ông, nhưng chỉ mơ hồ cảm nhận – mùi hương của biển mà buồng phổi chết khát của tôi đã nốc đầy suốt buổi chiều hôm ấy – đến mê man và đến phải chở vào bệnh viện cấp cứu.

Vậy là lần gặp gỡ đầu coi như tôi mắc nợ người đàn ông chút ơn “cứu tử”. Dĩ nhiên là ông ta vẫn chưa hề được báo trước là dẫu chậm thế nào, tôi cũng phải “ra đi”. Và điều này làm tôi đớn đau khôn tả khi chính ông ta là người đã phải chia tay tôi vào chuyến bay muộn màng của chiều hôm sau.

***

Ông ta đi rồi, tôi mới phát hiện ra mình cũng chẳng còn được dịp ở lại thành phố miền biển này bao lâu nữa. Tôi cần trở lại nơi có vị bác sĩ gia đình vẫn thường theo dõi bệnh tình của mình.

Cuộc đời có lắm điều phi lý, không lẽ tôi cứ vờ thơ ngây bám vào lời hứa sẽ trở lại nay mai của ông ta? Tôi và Michael gặp nhau chỉ hơn một buổi chiều ngắn ngủi. Cái tên Michael của ông ta lúc này đã được tôi đọc trại ra thành tên gọi cho riêng mình: Mai Khôi.

Có phải vì Mai Khôi là một người đàn ông quá đẹp và quá khỏe mạnh nên người rồi chẳng bao giờ trở lại để dạy cho một con bé yểu bệnh là tôi biết thế nào là tình yêu, thế nào là môi hôn diễm tuyệt, thế nào là những trao gởi rung động của những kẻ yêu nhau. Lẽ nào tôi lại phải ra đi, lại phải từ bỏ cuộc đời, lại phải... chết trước khi Mai Khôi mang tặng cho mình những đóa hồng. Ồ mà không, tôi chỉ ao ước được thấy những chiếc rương bí mật ở dưới lòng biển cả mà thôi.

Hình như tôi đã chờ Mai Khôi đến ngày thứ ba. Mai Khôi bảo chỉ cần tối đa là hai ngày để thu xếp công việc, nhưng đó là lời hứa của một người đàn ông.

Quả thật Mai Khôi đã gây trong tôi một thứ ảo tưởng diệu kỳ. Đó là một người đàn ông mới bị vợ bỏ hay bỏ vợ cũng thế thôi; điều ngồ ngộ là vợ của Mai Khôi cũng là một phụ nữ Việt như tôi, và có lẽ vì hơi bực mình (chỉ hơi bực mình thôi sao?) vì sự việc rày đây mai đó của Mai Khôi nên họ bằng lòng nghỉ chơi nhau. Bà ấy “xóa bài làm lại” lần này với một người đàn ông tóc đen da vàng như mình. Họ lấy nhau những mười năm và theo như Mai Khôi cho biết thì dạo ấy họ vẫn còn quá trẻ. Mai Khôi than thở: “Đáng ra tôi không nên lập gia đình quá sớm. Tôi vẫn còn thèm khát sự tự do, và nàng thì cũng chẳng bao giờ tỏ ra thú vị đợi chờ chồng con như những người đàn bà Á Đông khác mà tôi được biết hoặc được đọc trong sách vở. Vậy mà tôi cứ tưởng ít ra thì ba đứa con cũng có thể tập cho nàng tánh kiên nhẫn chờ chồng chứ. Tôi đi đây đó cũng chỉ vì công ăn việc làm thôi mà”.

Ba đứa con? Những tác phẩm lai Việt của Mai Khôi hẳn là xinh đẹp phải biết, nhưng dưới mắt vợ Mai Khôi thì đây là người đàn ông có nhiều khiếm khuyết. Điều này làm tôi hy vọng Mai Khôi sẽ trở lại, vì tôi cũng là đứa con gái bệnh hoạn đến... khiếm khuyết. Thật ra không hẳn như thế. Tôi chỉ định nói rằng Mai Khôi không mấy yên tâm về cơn bệnh của tôi. Có thể là Mai Khôi vốn thương người, hay tội nghiệp hoặc vốn thích bảo bọc. Thế thôi nên chàng sẽ trở lại. Nhưng biết đâu Mai Khôi cũng sẽ có cả trăm ngàn lý do khác để yên lòng lãng quên tôi.

Mai Khôi nắm nhẹ tay tôi trước khi từ giã: “Tôi thích đôi mắt em. Đôi mắt có khi như đang nhìn tôi dại khờ, say mê nhưng dường như cũng thật mông lung, xa xăm như em đang trôi tuột vào một thế giới nào khác mà tôi không tài nào với tới được”.

Buổi trưa sau chót Mai Khôi dìu tôi ra biển, trổ tài phó nhòm nguyên cả một cuộn phim. Mai Khôi bảo khuôn mặt tôi sao ủ dột não nùng quá, mặc dù tôi đã cố gắng mặc một chiếc áo thật sáng và giả vờ cười thật tươi mỗi khi nghe Mai Khôi nhắc lớn: “Anh bấm nhé. Cười đi nào”.

Ờ nhỉ, làm sao Mai Khôi hiểu được tại sao tôi không thể vui trọn vẹn. Cũng như làm sao Mai Khôi biết được dáng vẻ kênh kênh đãng tử của người đã hơn một lần xuất hiện trong giấc mơ của tôi, như từ tiền kiếp hai đứa là tình nhân của nhau.

Tôi đã không vui được, dĩ nhiên, vì những ám ảnh thường trực đó. Nỗi chết. Và lẽ sống. Tôi là người luôn luôn mệt mỏi, nhưng vẫn thiết tha vô cùng với đời sống.

Vị bác sĩ bảo rằng tôi sắp được giải thoát. Chết là khi tấm màn của đời sống được kéo xuống. Tất cả những vở kịch cũng được hạ màn. Người ta sẽ được nghỉ ngơi không còn phải diễn xuất, múa máy nữa. Phải vui chứ (?!).

Chết. Rồi tôi sẽ bay đi như mây vào một cõi nào không biết. Sự mệt mỏi sẽ chấm dứt và biết đâu tôi sẽ cảm thấy thong dong để bắt đầu một đời sống khác, ở một cõi đời mới. Ở đó tôi sẽ được khởi sự những cuộc vui chơi không bao giờ ngưng nghỉ. Tôi sẽ không phải đối diện với ngõ cụt của xác thân bệnh hoạn. Vòm trời nơi đó sẽ xanh bất tận và tôi sẽ không còn phải ngơ ngác dành dụm từng giọt nắng ủ ấp cho từng ngày mưa như ở trần gian. Nắng rồi sẽ bất tận, mãi mãi.

Khi đời sống đã tước đi của tôi chút hơi thở thì tôi sẽ đi đâu, về đâu nhỉ. Câu hỏi ấy bao giờ cũng vẫn cứ lẩn vẩn trong tôi, như không tài nào khuây khỏa nổi. Biết đâu khi hơi thở này bị dập tắt, tôi mới hoàn toàn được khoan khoái. Tôi sẽ tan biến, hòa nhập cùng hư không. Cái hư không mà tôi vẫn cố gắng nghe những lúc chơi vơi không ngủ được. Ôi, âm điệu ấy sao vắng lặng nhưng cơ hồ tấu lên cả ngàn khúc. Và rồi tôi sẽ lơ lửng, lơ lửng như đang bay đi, bay đi giữa bao la vô cùng. Trong ý nghĩ này, sự chết hiện ra thật thơ mộng và mê hoặc. Nó không còn là những đe dọa của thứ bóng tối rình rập bất ngờ, những bít bưng muôn đời là những ác mộng không lời giải đáp. Nó bí mật nên nó tha hồ múa may, trêu cợt tôi hoặc ai đó mỗi ngày. Nó là một tên trộm tinh ranh chỉ hiện về bất chợt, sẵn sàng cướp mất của bạn thứ hơi thở cần kíp trong đời. Tôi vốn bị nghẹn thở, hoặc thở rất ít nên sự sống lúc nào cũng chực chờ dứt lìa, đứt đoạn. Điều đáng tiếc đời sống dẫu thế nào vẫn là đời sống, một đời để sống. Tôi không thể làm khác đi hay thay đổi những mầm mống định mệnh không may của riêng mình, nhưng tôi không hề khước từ đời sống nếu không phải chính nó đang chối từ tôi dần dần. Tôi phải thú thật điều này vì chắc bạn cũng thấy rằng ít người có thể khoan thai đứng dậy, nhún vai bước ra khỏi cuộc đời một cách kiêu hãnh như không hề nuối tiếc hay vướng bận một điều gì. Tôi cũng có thể nhếch môi cười khan như thể mình vốn dửng dưng với sự sống và cái chết tự bao giờ. “Tôi sẽ chết có nghĩa gì đâu” và xác thân vẫn là một cái gì không đáng kể, dù chúng ta vẫn luôn luôn bị lao đao hụt hơi vì phải kiếm cách làm vừa lòng nó. Điều tôi thắc mắc vẫn là chút siêu linh mà khi ra khỏi thân xác, nó chẳng cần một chỗ tựa nhưng vẫn quyện sống mãi trong không khí. Siêu linh? Thôi cũng bằng mọi cách và mọi giá, hồn tôi nhất định sẽ tìm về vất vưởng trên biển để báo cho Mai Khôi biết cái chết nó như thế nào, mang hình thù ra sao, hoặc thiên đường hay những ước vọng Satan cũng chỉ là một.

Trời ơi, phải chi Mai Khôi trở lại bây giờ để hà hơi vào thứ đời sống đang đến hồi kiệt sức của tôi. Tôi không sợ chết vì điều ấy hiển nhiên và không thể không có mặt. Có điều tôi muốn được chết hay nói cách khác là được yên nghỉ trong vòng tay ấm áp của Mai Khôi. Nếu Mai Khôi chưa trở lại từ đây cho đến cuối tuần thì tôi vẫn phải rời khỏi phố biển này, và biết đâu tôi cũng sẽ bực tức đến độ không tài nào nhắm mắt yên ngủ.

Mai Khôi sẽ trở lại. Tôi vẫn tin Mai Khôi sẽ là người vuốt mắt tôi. Mọi sự vào những khoảnh khắc thiếu vắng này sẽ đọng lại. Để chờ được tan ra trong hơi thở của Mai Khôi. Người đàn ông với mùi hương nồng nồng ngai ngái của biển.

***

Hôm đó là ngày cuối tôi ra từ biệt biển. Mai Khôi vẫn dặn tôi nhớ mang theo áo ấm và không nên ra thăm biển một mình. Mai Khôi dọa: “Không phải ai cũng hiền như tôi đâu. Coi chừng người ta sẽ giả làm chó sói để ăn thịt cô bé choàng khăn đỏ cho mà xem”.

Biển dạo này vào buổi chiều đã thoáng lạnh. Hình như nỗi buồn làm tôi cảm thấy đất trời cũng se lại. Ngày mai tôi phải trở về thành phố của mình, nơi những ngã tư đời vẫn có những rỡ ràng của thiên hạ và những tủi thân vẫn hiện hình như cũ của riêng mình. Trời lành lạnh, tôi lại hay mặc kệ những cơn gió không đâu ấy nên vẫn ôm thói quen lì lợm không mang thêm áo.

Biển vẫn mang dáng dấp quyến rũ – cô đơn nhưng đầy quyền uy. Ra biển chiều nay tôi có cảm tưởng như mình đang bị biển thôi miên để đi theo, đi theo mãi từng đợt sóng xa biệt ngoài khơi. Biển sẽ cuốn tôi xuống, cùng với nỗi quạnh hiu này được nhận chìm với rong rêu. Xung quanh tôi hình như không tìm gặp một dáng núi nào cả, nên tôi cứ ngút mắt nhìn mà chỉ thấy một đường chân trời bao la. Ở đó một chút đỏ lừ và một chút xanh thẳm trong đôi mắt mặt trời đã rớt xuống trên biển những vầng lệ lóng lánh, buồn buồn. Cũng không tìm đâu ra bóng dáng của những cánh chim đại bàng nghênh nghênh soãi dài, hay loài chim biển cũng đã tít tắp ở cuối chân mây tự bao giờ.

Mai Khôi là cánh chim biển đã hun hút. Người không trở lại và tôi đã hoàn toàn thất vọng. Giá tôi có thể đi, đi mãi không biết mệt từ chân trời này cho đến chân trời nọ. Đi và không mong gì tìm gặp một Mai Khôi tàn nhẫn như bão cát.

Nhưng rồi tôi bỗng muốn trở về khách sạn ngay lập tức. Tôi không thể chịu nổi những đợt sóng vỗ như mê loạn trên cát. Hình như cát cũng đang thoi thóp đau mà tôi nào hay biết. Tôi nhắm mắt lại và chợt nghĩ đến những dấu chân. Những dấu chân trên cát và lời thì thầm của những chú dã tràng, những chiếc vỏ ốc nằm cô đơn trên cạn và những con ngọc trai vùi sâu dưới đại dương. Tôi cố không nghĩ đến một điều gì nữa cả, chỉ cầu xin những an lành trả lại cho biển.

Đi ngơ ngác không giày không dép ra gần lộ chính, tôi mới giật mình vì tiếng còi xe và một loạt đèn pha chớp tắt, chớp tắt quẹt ngang người.

Chiếc xe dừng lại sát ngay trước mặt tôi. Người đàn ông bước ra khỏi xe hệt như bước ra từ một giấc mộng đẹp.

Tôi bị choáng váng thực sự. Những vệt nắng cuối cùng của buổi chiều bỗng vờn ra trước mặt chiếc cầu vồng diễm ảo. Người đàn ông dù đang quơ quơ cây gậy, vẫn dáng vẻ nghênh ngang như vừa mang về cho tôi thứ màu sắc bảy màu diễm ảo ấy.

Đó là Mai Khôi. Mai Khôi đó sao? Tôi vẫn chưa hoàn hồn, đứng chôn chân một chỗ, hệt như Mai Khôi cũng chợt bất động đến im sững.

Vài giây sau mà như cả triệu năm thiên thu, tôi mới nghe Mai Khôi mấp máy:

- Kìa Kim, anh đã tới...

Vâng, đó là giọng nói mà tôi đã chờ đợi quá lâu để được nghe thấy.

Giọng nói của người yêu với người yêu. Không chần chờ gì nữa, tôi chạy nhanh tới bên Mai Khôi, bổ nhào vào người chàng muốn khuỵu xuống bất ngờ. Hình như cả Mai Khôi và tôi đều cảm thấy mình không còn đủ thời gian để câu nệ. Tôi gọi tên Mai Khôi tới tấp.

- Mai Khôi, Mai Khôi không sao chứ?

Mai Khôi ghì siết tôi bằng một tay ôm. Ôi sức hút của thỏi nam châm tuyệt diệu. Rồi Mai Khôi dịu dàng nói:

- Đáng lẽ anh đã tới sớm hơn. Nhưng chính sự trễ nải không định trước này đã làm anh nhận thêm ra một điều kỳ diệu. Anh thấy cần em, cần đời sống hơn bao giờ cả.

- Mai Khôi bị gì vậy hả?

- Như đã hứa, anh định trở về đây đúng hẹn để gặp lại em. Anh đã cố lái xe thật nhanh vì cũng lo lắng cho cơn bệnh vừa rồi của em. Trong đêm lái xe, có thể vì chút xúc động nào đó hoặc quá buồn ngủ, xe anh đã lạng quạng vào xe của người khác. Nằm nhà thương anh chẳng muốn em lo âu, nên đã ráng gồng mình không liên lạc.

- Hóa ra Mai Khôi cũng đâu tệ với em. Vậy mà em cứ tưởng...

- Em tưởng là anh... không thích em à? Em là cô gái dễ thương nhưng nhiều khi độc đoán.

- Anh để em chờ khá lâu.

- Chính tai nạn suýt chết vừa rồi làm anh cảm thấy ham mê những ngày mình đang sống gấp bội. Anh cũng vừa nhận ra anh cần tình yêu, cần em...

- Nhưng anh đã biết gì về em mà đòi... yêu?

- Có một sức hút nào đó giữa những va chạm của anh và em, em không nhận ra ngay từ phút giây đầu tiên sao? Vậy điều anh cần biết về em đâu có gì quan trọng, ngoài nỗi cuốn hút ấy.

- Và như thế anh gọi là... tình yêu?

- Em phức tạp và rối rắm hơn anh tưởng. Có điều không phải là em cũng đã gọi anh trở lại đây sao?

- Đó là tiếng gọi của những mỹ nhân ngư dưới biển hoặc những tiếng ú ớ trong mơ của sóng. Không phải của em. Một con nhỏ đang bệnh muốn chết mà còn dám gọi ai.

- Em nói nghe như thơ như văn, nhưng chính ra anh đã lỡ yêu vẻ ốm o, cần lệ thuộc vào một người nào đó của em tự hôm ấy.

- Em biết và em cũng linh cảm như thế. Em biết rằng Mai Khôi sẽ trở lại để... vuốt mắt em.

- Em nói gì vậy? Mai Khôi hoảng hốt hét lớn.

- Ồ mà không... em chỉ định nói là Mai Khôi sẽ phải trở lại để gặp em và để yêu em.

- Em đừng đùa với anh nữa. Hồi nãy anh đã đoán đúng là em sẽ ra đây. Em chuyện trò gì với biển mà nói hoài không hết?

- Em yêu biển và em cũng phải cám ơn biển đã khiến em được gặp Mai Khôi, không phải thế sao?

Có lẽ lời tôi nói ra lúc ấy khẩn thiết lắm nên Mai Khôi chớp mắt. Tôi lại bắt gặp hai con người lóng lánh sao hôm của Mai Khôi như vẫn rực sáng trong những giấc mơ. Đôi mắt vẫn làm tôi bàng hoàng, tê dại. Rồi Mai Khôi bất chợt cúi xuống. Bàn tay Mai Khôi ghì chặt tôi như muốn bẽ gãy từng đốt xương mảnh dẻ trên người, nhưng Mai Khôi lại chỉ muốn tặng tôi một chút môi hôn dịu nhẹ. Một nửa nụ hôn thì đúng hơn. Nửa còn lại Mai Khôi muốn để dành đến hôm nào tôi không biết (có thể vì một chân của Mai Khôi còn bị yếu chăng, hoặc Mai Khôi lãng mạn chút chút?).

Môi Mai Khôi cơ hồ chỉ lướt thướt trên làn môi tôi, nhưng là một xúc động đầy thảng thốt. Một xúc động đầu đời con gái.

Mai Khôi thì thào vào tai tôi như lời ru nhẹ của gió:

- Có phải cả ngày hôm nay em dầm mình trong gió biển không hở? Tóc em mằn mặn hương của biển biết không. Trời ơi, anh chỉ muốn cảm ơn em, cảm ơn cô nhỏ đáng yêu...

Tôi cũng muốn cảm ơn Mai Khôi, cảm ơn sự sống hơn một lần người đã mang đến. Một đốm sáng cuối cùng lóe lên từ những ngày tăm tối, không một bóng dáng hạnh phúc. Vậy là tôi biết mình sẽ được chết khi vừa tìm thấy đúng nghĩa sự sống.

Chỉ Mai Khôi là không hề hay biết rằng tôi sắp chết. Có điều chắc chắn tôi sẽ yên lòng nhắm mắt vì Mai Khôi đã trở lại. Tôi đã được Mai Khôi hôn và đã ngửi thấy trọn vẹn hơi thở của biển. Thứ mùi hương ngai ngái, nồng nồng, ngây ngây như mùi đàn ông toát ra từ Mai Khôi.

Tôi sẽ thèm khát mùi hương ấy biết bao, khi Mai Khôi nhất định tặng hết nửa môi hôn gấp gáp, ấm nóng còn lại...