Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Song
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Đêm giữa ban ngày (kỳ 3)
3
Cai ngục của tôi, chính là anh công an mang cho tôi bộ quần áo, dẫn tôi tới trước một cánh cửa lim sơn đen, nằm giữa loạt cánh cửa giống hệt nó trong một hành lang hoang vắng và mốc thếch. Tất cả hiện lên mờ mờ trong ánh sáng bủng beo đầu đông. Tôi đứng lặng, ngắm giang sơn mới của mình. Dội vào óc tôi tiếng mở khóa, tiếng then kim loại trượt lạch xạch trong hõng. Ngoài những tiếng động chát chúa, khu giam người này vắng nặng và ảm đạm như một hầm mộ.
“Những nấm mồ chôn người sống”, tôi nghĩ.
- Anh vào trong này!
Tôi ngạc nhiên. Đúng hơn, tôi sửng sốt. Tôi không chờ được nghe ở đây một giọng nói hiền lành như thế. Tôi hình dung mọi cái ở chốn này phải tồi tệ hơn nhiều, phải phi nhân hơn nhiều, kể cả cách cai ngục nói với tù.
Bước ngoặt cuộc đời diễn ra quá lẹ. Sau một Huỳnh Ngự hách dịch, giọng nói bình thường mà người ta nói với nhau hàng ngày đã đủ làm tôi sững sờ.
Tôi lẳng lặng quan sát viên cai ngục. Trên gương mặt nông dân thuần phác, nước da thô đầy những sẹo trứng cá, cái mũi to quá khổ, không có lấy một nét gian giảo hoặc ác độc mà ta đinh ninh phải có. Một gương mặt như thế ta có thể gặp ở bất cứ đâu trong vùng châu thổ sông Hồng.
Đã bước một chân vào xà lim, tôi dừng lại:
- Tôi có việc muốn phiền đồng chí.
Anh ta nhướng mắt:
- Việc gì vậy?
- Nhờ đồng chí báo giùm cho cơ quan tôi ở số 76 Lý Thường Kiệt biết tôi hiện ở đây - tôi nói và nghe thấy giọng mình ngập ngừng bởi không tự tin rằng mình cư xử hợp lẽ - Đồng chí làm ơn gọi điện thoại số 3508, cơ quan tôi lúc nào cũng có người trực.
Hình như anh ta mỉm cười. Tôi sực nhớ điều đã được nghe: trong nhà tù không được gọi công an bằng “đồng chí”.
- Được.
- Nhân thể xin anh nhắn giùm người phụ trách căng-tin bảo chuyển cho tôi thuốc lá tiêu chuẩn. Và một cái bật lửa.
- Được.
Kiên nhẫn nghe hết lời nhắn của tôi, anh ta quay ra.
Cuộc đối thoại hôm ấy giữa tôi với cai ngục hẳn đã cho những người tù ở các xà lim bên cạnh một trận cười, như sau này tôi hiểu. Nó giống chuyện tiếu lâm.
Cánh cửa lim đóng xầm. Sau cái tiếng động không lịch sự là tiếng then rít lên trong hõng, tiếng bấm khóa, tiếng chân xa dần. Căn phòng tối hẳn lại.
Quay vào, tôi thấy một cái đầu bù xù ngẩng lên trong tranh tối tranh sáng. Thì ra ở đây đã có sẵn một cư dân.
Người này cất giọng khàn khàn hỏi tôi:
- Anh mới vào?
Tôi hiểu đó là một câu chào. Tôi chào lại.
- Vâng.
Mắt tôi quen dần với bóng tối. Trước mặt tôi là một người đàn ông đứng tuổi, mái tóc dài rũ rượi bao quanh gương mặt xương xẩu, đen xạm, râu ria tua tủa. Anh ta khoác tấm chăn sợi Nam Định đã rách tả tơi và chắc là rất bẩn, ngồi bó gối trên phản, giống hệt một con cú mèo.
- Anh vừa bị bắt?
Người tù trừng trừng quan sát tôi. Hình hài tiều tụy cộng với cái nhìn thất thần dính chặt vào mặt tôi làm tôi cảm thấy khó chịu.
- Vâng, cách đây mấy giờ tôi còn ở ngoài kia.
- Thế à?
Xà lim của chúng tôi là một căn phòng hẹp, chiều ngang khoảng dưới hai mét, chiều dài hai mét rưỡi, với hai tấm phản xi măng bắt chết vào những trụ bê tông cách nhau bởi một lối đi vừa cho một người. Cuối mỗi phản, sát cửa, là một cái cùm sắt.
Tôi ngồi xuống tấm phản đối diện với người tù. Cái lạnh lẽo của khối xi măng đặc lọt qua lần vải chạm vào da thịt. Tôi rùng mình. Xà lim phảng phất một mùi khó tả, hòa trộn mùi mồ hôi người chua chua, nồng nồng, mùi nước tiểu lưu niên khăn khẳn với mùi tanh của đờm rãi thường gặp trong nhà thương làm phúc.
Chà, xà lim Hỏa Lò, nó thế này đây!
Lần đầu tiên tôi được thấy nơi giam tù trong phòng riêng, còn gọi là xà lim cá nhân, là ở nhà tù Petropavlovsk, mùa hè năm 1955. Khi ấy tôi là một sinh viên đại học chưa có ria mép, được nhà trường cho đi tham quan các di tích lịch sử của nước Nga. Nhà tù Petropavlovsk nằm bên kia sông Neva, mà bên này là thành phố Lêningrad[1]. Nghe cô hướng dẫn viên giải thích thì trước kia nó là một pháo đài, sau được xây lại thành xưởng đúc tiền, Nhà Tiền[2], thuộc sở Kho bạc, sau nữa mới được sửa lại để dùng làm nhà tù.
Trong xà lim dành cho những nhà cách mạng ở nước Nga quân chủ có một giường, một bàn, một bồn rửa mặt, một bàn cầu, tất cả đều bằng sắt, được gắn chết vào nền bê-tông. Ngoài ra có một tủ tường để đựng sách và đồ dùng. Xà lim Hỏa Lò hẹp hơn nhiều, diện tích chưa được bằng nửa, lại trống trơn. Đem hai cái xà lim ra so sánh thì xà lim thời Nga hoàng giống một phòng trọ rẻ tiền, còn xà lim Hỏa Lò giống một chuồng thú.
- Anh ở đây bao lâu rồi? - hai tay ôm ngực cho đỡ rét, tôi hỏi anh bạn tù.
Anh ta không trả lời ngay:
- Năm năm.
Tôi ớn lạnh. Năm năm? Trong cái chuồng này?
Người tù thở nặng nhọc. Anh ta quay mặt vào tường, chậm rãi hút thuốc lào. Tôi không nghe tiếng lọc xọc quen thuộc của điếu ống hay điếu bát. Khói thuốc cay nồng lan tỏa làm cho căn phòng ấm lên được một chút.
- Hà Nội bây giờ có gì khác không anh? - anh tù hỏi, húng hắng ho.
- Năm năm, chà... - tôi đáp - Cũng chẳng khác trước mấy đâu. Xem nào, so với năm năm trước Hà Nội bây giờ khác cái gì? Hai bên hè phố có nhiều hố cá nhân, cứ vài mét một cái. Nhiều tự vệ đeo súng. Trên những nhà cao đặt nhiều đại liên, trung liên. Phong cảnh mới của Hà Nội là thế. Thành phố, tất nhiên, vắng hơn trước nhiều.
- Nhưng vẫn còn đông chứ?
- Vẫn đông. Hà Nội bao giờ cũng vẫn là Hà Nội. Vắng đi một anh, một tôi, chẳng nghĩa lý gì đối với nó.
Anh tù thở dài.
- Anh bị tội gì?
Người tù không trả lời.
- Tôi tò mò hỏi vậy thôi, anh không muốn trả lời thì thôi, đừng nghĩ ngợi.
Anh ta ngẩng lên lặng lẽ quan sát tôi. Rồi nói, rất khẽ:
- TGiết người.
Một tên sát nhân đấy ư? Không có lẽ. Trong hình dung của tôi, tên sát nhân phải dữ tợn hơn, với đôi mắt xếch đầy lòng trắng chẳng hạn.
- Ngộ sát, chắc vậy?
Anh ta đáp, giọng miễn cưỡng:
- Chuyện dài. Mà rắc rối lắm.
- Anh bị xử mấy năm?
- Nào đã được xử đâu mà biết!
- Mà đã năm năm rồi?
Anh tù lúng túng. Chắc hẳn muốn chọe tên lính mới tò te anh ta đã thổi phồng số thời gian ở đây. Bây giờ anh ta ngượng.
- Còn đang giam cứu. - anh ta thở dài đánh sượt - Chưa biết đến bao giờ.
- Giam cứu nghĩa là thế nào?
- Là người ta cứ giam mình đấy đã để điều tra nghiên cứu. Bao giờ điều tra xong, nghiên cứu xong thì đem xử.
Chuyện này tôi chưa từng nghe. Cái gì cũng có giới hạn của nó chứ. Không lẽ nếu chưa điều tra xong thì cứ giam miết những người chưa thể kết luận về tội trạng.
- Giam cứu thường có lâu không?
Người tù trả lời bằng giọng lừng khừng:
- Biết thế nào được. Cũng tùy vụ, tùy người... Nhanh thì sáu tháng, một năm, chậm thì vài ba năm không chừng.
Tôi hỏi tiếp vì tò mò:
- Xử rồi người ta có trừ đi thời gian đã ở tù không?
- Trừ chứ.
- Thế nếu điều tra xong anh lại trắng án? Hoặc án xử lại ít hơn thời gian anh đã ngồi tù, vì tội ngộ sát chẳng hạn?
- Thì người ta cho về.
- Có thế thôi?
- Được về là phúc rồi, còn muốn cái gì nữa? Bắt người ta ngồi tù đền à?
Chòm râu rung rung, anh ta cười không có tiếng.
Bên ngoài có tiếng chân người. Miếng tôn ở cái khung hình vuông bằng bàn tay ở cửa dịch sang bên. Một con mắt ngó vào. Miếng tôn khép lại.
- Cái gì thế?
- Các ông bộ đội đi kiểm tra. Kệ, không sao đâu.
- Bộ đội sao lại gác ở đây?
- Công an quản lý trại, gác trại là công an nhân dân vũ trang, họ vận đồ lính, chỉ khác phù hiệu với quân hàm màu xanh, chúng tôi gọi là bộ đội.
- Lôi thôi nhỉ? Đã có công an rồi lại còn thêm công an nhân dân vũ trang.
Hình như anh ta tủm tỉm cười.
- Mỹ ném bom Hà Nội có nhiều không anh?
Tôi ngạc nhiên:
- Trong này anh không nghe thấy gì sao?
- Có chứ, có nghe thấy còi báo động. Nghe thấy tiếng nổ. Nhưng trong phòng kín như bưng thế này nghe chỉ ầm ầm, ầm ầm, không phân biệt được đâu là tiếng tên lửa phòng không, đâu là tiếng bom... Anh ở đây lâu rồi khắc biết.
Bom đạn Mỹ rót xuống đất Thăng Long phi chiến địa, theo lời sấm Trạng Trình, không phải bây giờ là lần đầu. Mùa thu năm 1944, những pháo đài bay B-26 đã bay đến đây ném bom khu Tám Mái, ném bom bên cạnh Quần Ngựa. Những mẩu tro của đám cháy lớn từ kho Tám Mái bay khắp Hà Nội, rơi xuống những hầm trú ẩn gần đền Hai Bà còn nguyên hình nống vải kaki. Mấy con ngựa đua của ông Đỗ Kim Hải, bạn cha tôi, chết cứng trong tàu vì mảnh bom, bốn cẳng duỗi thẳng đơ, trông như ngựa gỗ, với những con mắt ngây dại bằng thủy tinh.
Người tù nằm xuống, kéo chăn lên, lạnh lùng quay mặt vào tường.
Tôi còn lại một mình.
Cảm giác đầu tiên ập đến, làm tôi choáng váng, là thời gian đang chảy trôi bỗng ngừng lại đột ngột. Tưởng chừng thấy được, bằng thị giác, bằng xúc giác cái thanh chắn, cái cột mốc ngăn đôi cuộc đời - bên kia là quá khứ, là phần đã mất, còn bên này, nơi tôi hiện diện, là sự ngưng đọng mở đầu cho cõi bất tri, thăm thẳm, khôn cùng.
Tôi sẽ phải ở đây bao lâu? Bao nhiêu tháng? Hoặc, trời hỡi, bao nhiêu năm?
Tôi không được chuẩn bị để phải chịu đựng cảnh này. Tôi có thể hình dung mình trong nhà tù đế quốc, nhưng không bao giờ tôi hình dung mình trong nhà tù cộng sản.
Nhớ lại những ngày Tháng Tám tưng bừng, khi tôi còn là đứa trẻ, mà tiếc. Trước mắt tôi cuộc đời mở ra toàn một sắc hồng. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập Hà Nội. Tiếng trống ếch thiếu nhi vang rền trên các phố. Những đám đông rầm rập như những dòng lũ người, ồn ào tiếng hát, tiếng thét vui mừng.
Cách mạng thành công rồi, mẹ tôi nói. Nhìn thành phố biến đổi như do một phép mầu trong niềm vui chung của mọi người, mọi nhà, mẹ tôi nước mắt rưng rưng, miệng cười mếu máo vì xúc động. Thế là nước ta độc lập rồi! Chúng tôi reo mừng, chúng tôi nhảy cỡn lên vì sung sướng. Thế là từ nay chẳng bao giờ mẹ con chúng tôi còn phải thao thức đêm đêm, giật mình với mỗi tiếng phanh ô tô rít lên ngoài đường. Chẳng bao giờ hai mẹ con tôi còn phải chầu chực bên ngoài bức tường đá Hỏa Lò chờ đến lượt mình được gọi tên vào thăm cha tôi trong đó. Cùng với những lá cờ đỏ sao vàng tung bay khắp Hà Nội, tâm hồn chúng tôi mọc cánh trong niềm vui tự do.
Tuổi thơ của tôi chấm dứt từ đó. Tôi lăn vào các công tác cách mạng đáng lẽ của người lớn, bắt đầu bằng một đội viên tuyên truyền xung phong. Chúng tôi diễn kịch, chúng tôi ca hát cho đồng bào nghe, chúng tôi lang thang làng này qua làng khác, trong không khí hội hè bất tận. Rồi lớn lên, tôi thành người lính, thành cán bộ. Những năm xen kẽ giữa các công tác, thỉnh thoảng lại bị bố mẹ bắt về đi học, là những năm tôi bứt rứt lắm, ngứa ngáy chân tay lắm; sểnh ra tôi lại lên đường. Chiến tranh, tất nhiên, gắn liền với bom đạn, với hy sinh. Nhưng chúng tôi không sợ.
Lớp trẻ chúng tôi đi vào chiến tranh với những khúc quân hành hùng tráng và những bản tình ca lãng mạn. Chúng tôi không sợ hy sinh, chúng tôi không sợ chết. Thế hệ chúng tôi là thế hệ quyết tử quân của cách mạng. “Các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh... !”[3] Chúng tôi nghe thấy giọng nói sang sảng của Bác Hồ giục giã. Chúng tôi hăng hái ra đi theo lời Bác gọi. Không khó khăn gian khổ nào có thể làm chúng tôi chùn bước.
Đó là những ngày đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Nếu, nói ví thử điều không thể có, tôi sống thêm một lần và lịch sử lại lặp lại những ngày Tháng Tám, chắc chắn tôi sẽ lại sống như tôi đã sống. Trước mặt chúng tôi là quân xâm lược, sau lưng chúng tôi là nền độc lập vừa giành được, là Tổ quốc. Không có chọn lựa nào khác.
Chuyện sau Cách mạng Tháng Tám là cái gì thì lúc đó chẳng ai nghĩ đến. Những người cộng sản trong những ngày Tháng Tám không xưng mình là cộng sản. Mà cho dù họ có xưng như thế chăng nữa thì cũng chẳng ai hiểu cộng sản là cái gì. Người ta chỉ biết vui mừng khi được trút bỏ thân phận nô lệ, trở thành dân của một nước độc lập.
Nhưng kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thì cuộc cách mạng của tất cả chúng tôi bỗng dưng trở thành không phải của chúng tôi nữa. Một ma thuật đã xảy ra. Cách mạng vẫn đấy, nhưng không còn là nó. Trước mắt chúng tôi là một cái gì lạ lẫm, hoàn toàn không giống cái mà chúng tôi hình dung khi lên đường chiến đấu.
Người ta nói với chúng tôi: chúng ta đang bước vào giai đoạn mới, chúng ta đang xây dựng một xã hội mới, một thể chế mới, nền nếp mới. Phải học tập để quen với nó, để hội nhập vào nó. Mọi quá trình tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ đều là gian nan, đều không dễ dàng, đều phải trả giá bằng sự từ bỏ quan niệm cũ, lề thói cũ.
Cái xã hội mới ấy hình thành dần, mỗi ngày một rõ nét. Càng ngày nó càng trở nên xa lạ. Càng ngày nó càng giống cái mà chúng tôi vừa chiến đấu để xóa bỏ. Chỉ có bề ngoài là khác, với những ngôn từ khác, rất ồn ào, rất sang trọng, với nội dung mơ hồ..
Tôn ti trật tự của xã hội mới được thiết lập ngay từ những ngày đầu chúng tôi từ chiến khu về Hà Nội.
Một thí dụ nhỏ: theo quy định trong quân đội, từ binh nhì tới chỉ huy trung đội phải mặc áo đại quân có hai túi trên, vai áo có đệm dày (để mang vác) với nhiều đường chỉ máy cho bền, tôi không đếm nên không biết có bao nhiêu đường tất cả, nhưng lính tráng gọi cái vai áo chi chít đường chỉ may ấy là “ba mươi hai đường gian khổ”. Cán bộ từ cấp đại đội trở lên được mặc áo không có “ba mươi hai đường gian khổ”, lại được thêm hai túi dưới, gọi là đại cán.
Cán bộ dân chính, cũng theo qui định, phải mang đại cán nhưng khác màu bộ đội. Đó là thứ áo cổ đứng cài đủ cúc, được những ông phó may gọi là kiểu TônTrung-sơn[4]. Khi lệnh này ban ra, đoàn quay phim chúng tôi đang ở thành phố Nam Định vừa giải phóng. Trên không kịp cấp phát quần áo, người trong đoàn được lĩnh tiền tự đi may. Tôi không thích cái kiểu dáng cứng nhắc trông rất Tàu, bèn dùng tiền được phát để may quần áo theo quy định đi may quần áo thường: áo sơ-mi, quần ximili. Thế là sóng gió nổi lên ầm ầm, tôi bị đưa ra mấy cuộc họp kiểm điểm và bị các bạn cùng công tác phê phán rất gay gắt về tội vô kỷ luật. Đành phải thành khẩn nhận khuyết điểm trước tập thể, hứa hẹn sẽ may ngay một bộ đại cán đúng quy định, tôi mới được buông tha.
Kỳ cục nhất, buồn cười nhất là chuyện quy định về việc sử dụng xe cộ. Cấp cục, vụ được đi xe chung, loại Moskovich. Cấp thứ, bộ trưởng được đi xe Pobeda riêng, với rèm che hai kính hông. Cấp ủy viên Trung ương đi xe có che thêm rèm ở kính hậu. Còn các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban bí thư đi xe Volga, thêm rèm ở hai kính cửa trước. Lãnh tụ tối cao, tổng bí thư sang hơn nữa, có Chaika. Khi tiếp khách hoặc trong những dịp khánh tiết thì dùng xe Zil bọc thép, có trang bị kính chống đạn. Tất cả những loại xe này đều do Liên Xô sản xuất.
Vừa về tới Hà Nội, mỗi vị lãnh tụ đã chiếm một dinh thự khang trang của Tây, hoặc của các nhà giàu bỏ chạy vào Nam, mỗi nhà là một hành dinh với đầy đủ các bộ phận phục vụ, thư ký, lái xe, bảo vệ, cần vụ, cấp dưỡng. Các vị làm việc tại nhà, các thư ký, giao thông viên chạy như đèn cù giữa các hành dinh để “các cụ” liên lạc với nhau.
Khó chịu nhất là cái sự phải gò mình vào trong cái gọi là dân chủ tập trung. Bất cứ quyết định nào của Trung ương cũng là chân lý, là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt, cấp dưới chỉ có việc học tập cho thông để thực hiện. Không ai có quyền phát biểu trái với những nghị quyết do Trung ương ban xuống.
Không còn đâu bóng dáng của sự bình đẳng giữa những người cùng chung một chiến hào. Tôi nhớ một ca khúc rất tình cảm của Tô Hải. Anh sáng tác nó trong thời kỳ kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Lính tráng thích bài ấy lắm, tên chính thức của nó là gì tôi không nhớ, nhưng nó lại là bài hát bị cấm. Nó bị cấm vì lời ca ủy mị, theo quan điểm của Đảng, người ta giải thich như thế. Thế nhưng những người lính vẫn thuộc nó, vẫn hát, tất nhiên là không thể hát to. Nhưng trong bài hát có một từ bị đổi, một từ thôi, biến một chữ triệu thành chữ vài, tâm trạng người lính sau ngày chiến thắng được bộc lộ:
Ngày về tươi vui.
Nhưng giữa thủ đô ai chẳng ngậm ngùi.
Bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng,
Bao má nhăn nheo lệ cuốn tơi bời.
Chờ chồng mong con ngày về chiến thắng,
Trông toán quân về đếm thiếu những ai.
Đây căm hờn dựng lên ngàn phố
Máu xương xây vài chiếc lâu đài
Hồn quân đi còn vương đây đó
Với đô thành kiếp kiếp khôn nguôi!
Người ta nói rằng nhiều người cách mạng biến chất sau thắng lợi.
Tôi loại trừ khả năng đó. Chất của con người nó thế nào thì nó thế ấy. Không phải người cách mạng nào cũng biến chất. Những tên cơ hội trong cách mạng hiện nguyên hình thì đúng hơn. Có điều mắt chúng ta kém, tầm nhìn của chúng ta hẹp, hoặc nói theo cách hiện đại là chúng ta không cảnh giác nên chúng ta không thấy trước được mà thôi.
Anh tù lục cục bò dậy. Hình như anh ta khó ngủ.
- Này, Mỹ đã bỏ bom những phố nào hở anh?
- Mỹ chưa bỏ bom Hà Nội. – tôi đáp - Nam Định thì có, bị khá nhiều. Tôi vừa ở đấy về cách đây vài ngày.
- Sao người ta nói Hà Nội cũng bị?
- Người ta lầm. Có hai lần máy bay Mỹ phóng tên lửa vào nội thành: một lần ở chợ Hôm, một lần sát đại sứ quán Pháp ở góc Hàm Long - Bà Triệu.
- Chết nhiều không anh?
- Lần ở chợ Hôm chết cũng khá. Lần sau thì không. Hình như chỉ có mấy người bị thương thôi.
Anh ta lẩm bẩm câu gì không rõ.
- Khi có báo động người ta có cho tù ra hầm trú ẩn không? - tôi hỏi.
Anh ta bật cười khe khẽ.
- Ra hầm trú ẩn?
- Chứ sao.
- Còn lâu! - anh ta bĩu môi - Mà này, sao từ sáng tới giờ không thấy có còi báo động nhỉ?
Tôi ngạc nhiên thực sự.
- Hôm nay ngừng bắn mà. Anh không biết à?
- Ngừng bắn? Mà sao lại ngừng bắn cơ chứ?
- Ủa, anh không biết thật?
- Thì ngồi đây làm sao mà biết được?!
- Hôm nay là 24 tháng Chạp dương lịch. Nửa đêm sẽ có lễ mừng Thiên Chúa giáng sinh.
Anh tù ngẩn người. Như kiểu thất vọng. Nghe ngóng một lát, anh móc từ trong hốc phản ra một cái đinh năm phân, không vội vã khắc lên tường một cái dấu. Tường xà lim rất cứng. Chật vật lắm anh mới khắc được một nét.
- Tôi lầm ngày mất rồi. - anh buồn bã - Thế quái nào mà lầm được mới lạ chứ? Tôi cứ ngỡ mai mới Nô-en. Còn anh, làm sao anh bị bắt?
Tôi không trả lời ngay.
- Biết giải thích thế nào cho anh hiểu. - tôi nhún vai - Chính tôi cũng không biết vì sao người ta bắt tôi. Tôi muốn nói, tôi không hiểu người ta định buộc tội tôi vào tội gì...
Chẳng lẽ anh ta hỏi mà mình không trả lời, tôi nghĩ, chuyện của mình thường phạm hiểu sao được.
- Tại sao lại không biết? - anh ngạc nhiên - Khi bắt phải có đọc lệnh bắt chứ, mà trong lệnh bắt bao giờ người ta cũng nói tội gì.
- Người ta bắt tôi ở giữa đường rồi đưa thẳng vào đây.
Cái đầu bù xù trầm ngâm:
- Vậy thì hiểu rồi, hiểu rồi - bị bắt mà không rõ vì tội gì thì chỉ có món số lẻ thôi. Lạ nhỉ, sao lại bắt giữa đường?
- Tôi cũng chẳng biết.
- Thế thì đích thị chính trị rồi. Là số lẻ. Chính trị, nó như con đĩ ấy, kinh lắm...
Tôi bật cười.
- Sao anh lại gọi chính trị là cái món số lẻ?
- Anh không biết à? Ờ, mà làm sao anh biết được -, anh chưa vào tù bao giờ... Gọi chính trị là số lẻ nguyên do thế này: tù không cần có tên mà có số, người ta cho tù chính trị mang số lẻ, nên gọi là số lẻ, còn tù hình sự thì mang số chẵn.
- Ra thế! Tôi không biết. Không thấy họ nói tôi mang số nào.
- Anh mới bị bắt, họ chưa cho anh biết số, chứ số là phải có ngay từ lúc người ta lập hồ sơ tống giam kia. Chắc anh bị ghép vào tội tuyên truyền phản động?
- Tôi cũng chẳng rõ.
- Tội này rộng. Mà lại không rõ ràng. - anh ta thở dài - Ăn nói không giữ gìn, lỡ mồm lỡ miệng đụng đến chính quyền hay lãnh tụ là đi tong. Cứ có đứa báo cáo là người ta tom ngay, không oong đơ gì hết... Trong này ối trường hợp như anh. May thì được đưa ra tòa xử. Không may, bị một suất tập trung cải tạo coi như rồi đời.
- Tập trung cải tạo nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là cứ tù mút mùa. Bao giờ người ta thích tha thì người ta tha.
- Tại sao lại có thể như thế được?
Người tù im lặng sửa lại cái chăn trên vai vừa tụt xuống, lại quay mặt vào tường, hút tiếp một điếu thuốc lào. Trong phòng mỗi lúc một lạnh thêm. Nghe rõ tiếng gió hú bên ngoài.
- Anh là cán bộ kháng chiến chống Pháp phải không?
- Phải.
- Thế thì không bị tập trung cải tạo[5] đâu, đừng lo. Cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp được bỏ ra ngoài lệnh này.
- Tôi chẳng lo. Họ có quyền bắt thì họ cứ việc bắt.
- Anh không nên nói thế. Người ta đã bắt, nghĩa là mình phải có tội.
Tôi nhún vai.
- Mình không nghĩ là tội, nhưng người ta cứ nghĩ là tội thì vẫn thành tội như thường... – anh ta nói.
Có nên trò chuyện với anh chàng giết người này không nhỉ? Nói cũng chẳng sao, đằng nào thì cũng thế.
- Nói của đáng tội, giữa tôi và Đảng cũng có vài chuyện lủng củng. – cuối cùng tôi cũng nói chung chung cho anh ta biết nội dung vụ tôi bị bắt - Đảng không bằng lòng tôi.
- Chết chửa, thế thì căng lắm! - anh tù trợn mắt, lắc đầu - Mà sao các ông ấy lại cho anh vào xà lim này nhỉ?
Tôi không hiểu ngay ý nghĩa câu nói.
- Anh nói thế nghĩa là thế nào?
- Thường người ta không giam lẫn lộn số chẵn với số lẻ. Mà anh thì rành rành là số lẻ rồi...
Ra thế.
-Hừm, tôi hiểu. – tôi nhếch mép cười - Nghĩa là tôi là đối tượng[6] của cách mạng, còn anh thì không. Chính tôi cũng không hiểu tại sao người ta lại giam kẻ thù của nhân dân lẫn với bạn của nhân dân đấy?
- Tôi không có ý nói thế.
Trong những cuộc giáo dục chính trị, các giảng viên thường xuyên dạy chúng tôi phải phân định cho rõ bạn thù. Hiển nhiên cách phân định này vẫn giữ nguyên ý nghĩa trong cả Hỏa Lò - những tên lưu manh trộm cướp, những tên sát nhân là bạn của nhân dân, còn người bị Đảng buộc tội chống chế độ là kẻ thù của nhân dân.
- Anh có thể phản đối nếu người ta lầm. - tôi nói thêm - Họ đưa tôi vào đây thì tôi vào đây. Họ có hỏi ý kiến tôi đâu. Tôi cũng không đề nghị...
Tôi không kịp nói hết câu. Không khí lạnh trong phòng làm tôi hắt hơi chan chát.
- Anh không có quần áo ấm à?
Anh bạn tù ngẩng nhìn tôi. Giọng nói của anh có chiều ái ngại.
- Chúng nó thu hết quần áo của tôi - tôi vẫn tiếp tục ho - rồi đưa tôi bộ này.
Người tù nhớn nhác. Cái nhìn của anh hướng về ô cửa kiểm tra. Tai tôi cũng bắt được một tiếng động lạ.
- Dào, rồi các ông ấy sẽ cho anh nhận lại thôi, việc quái gì mà sốt ruột - anh ta cất cao giọng, cố ý nhấn mạnh hai chữ các ông ấy để xóa đi hai chữ chúng nó xách mé của tôi, cốt để người bên ngoài nghe thấy.
Tôi chợt nhớ ra tên gọi tiếng Pháp của của cái lỗ cửa nọ: le judas. Tên của tông đồ thứ 13 của Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô, kẻ bán thầy cho quan Phi-la-tô lấy ba mươi đồng đi-na.
Tiếng chân đi xa dần.
- Nếu anh rét quá thì cứ lấy tạm đồ của tôi mà dùng.
Thái độ ân cần của anh làm tôi ngượng. Nhưng dùng đồ của anh ta? Tôi rùng mình. Không khi nào!
- Cảm ơn anh. Chúng nó phải trả lại cho tôi quần áo chứ, ít nhất cũng phải trả chiếc áo bông. Chúng nó không có quyền...
- Anh vừa vào không biết luật lệ trong này thế nào đâu. - anh ta hấp tấp cắt ngang - Đã vào đến trong này là mình không còn cái quyền nào hết. Trả hay không trả, trả cái gì, không trả cái gì, trả lúc nào là tùy các ông ấy. Người ta đã tính toán cả.
Cả cái sự tôi bị đưa vào xà lim ở chung với người tù có bộ dạng gớm ghiếc này cũng đã được tính toán, chắc thế. Một phương án, theo ngôn từ nghề nghiệp của công an. Có tiếng dép nhựa loẹt quẹt trên nền xi-măng ở bên ngoài. Tiếng mở khóa lạch xạch. Rồi cửa xà lim mở toang.
- Cơm!
Viên cai ngục nông dân đặt xuống trước mặt tôi một cái tô tráng men. Trong ánh sáng mờ mờ lọt qua cửa thông gió ở tít trên cao tôi nhìn thấy trong cái bát men lổn nhổn một thứ gì đó giống như rau muống, nhưng đen xì. Nhìn kỹ thì thấy là rau muống thật. Những cọng rau già bập bềnh trong nước lõng bõng, ở trên có hai miếng mì luộc trông giống như cặp bánh dầy con ở các gánh dầy giò thường bán ở bến tàu bến xe, nhưng mỏng hơn.
Liếc nhanh quan sát tôi, viên quản giáo quay ra, khóa cửa lại. Tiếng cài then lạch xạch xuyên vào óc.
- Còn suất của anh đâu? - tôi hỏi.
- Tôi ăn lâu rồi - anh tù quay mặt đi - Cơm trưa ở đây người ta cho ăn từ 11 giờ đến 12 giờ.
Lúc ấy tôi còn đang bị khám.
Tôi ngán ngẩm nhìn bữa cơm đầu tiên trong tù.
Tôi chưa ăn ngay. Trên đồng bánh mì luộc xác những con mọt tí xíu nổi lên lấm tấm như rắc vừng. Rau muống đen là phải: nấu trong chảo gang rau muống bao giờ cũng có màu như thế. Tôi khều mấy cọng rau lên ngắm. Rau muống già lại không được nhặt và rửa kỹ, hoặc không nhặt cũng không rửa, còn nguyên rễ và tua tủa và lá vàng.
Tôi ngồi bất động một lát trước tô cơm.
- Chịu khó mà ăn - anh tù ái ngại nhìn tôi - Hỏa Lò chỉ có thế thôi.
Tôi xếp chân bằng tròn trên phản, từ từ đưa vào miệng, từng miếng một, cái khẩu phần quái gở. Chưa bao giờ tôi phải ăn một thứ gì tệ hại hơn, kể cả trong năm 1949, năm gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hồi ấy bộ đội chúng tôi thường xuyên ăn cơm gạo mốc với thức ăn là canh bí đỏ nhạt thếch vì thiếu muối.
Tôi chiến thắng bản thân. Một lát sau, viên cai ngục quay trở lại lấy bát rếch. Anh ta ngẩn người trước cái bát sạch trơn, lẳng lặng cầm lấy nó, đi ra.
- Anh giỏi! - người bạn tù buông một lời khen.
4
Tôi lặng lẽ quan sát người từ nay tôi phải sống cùng, không biết là bao lâu: vài tuần, dăm tháng hay cả năm?
Tôi nhớ tới chuyện cha tôi kể về những lần ông bị Pháp và Nhật bắt. Ông nói đối với người tù quan trọng nhất là mấy ngày đầu. Mọi thủ đoạn của địch nhằm bẻ gẫy mình nằm trong mấy ngày đó. Tra tấn dữ nhất cũng nằm trong mấy ngày đó. Sau thì không đáng kể. Mình quen rồi. Địch ngán rồi.
Người bị bắt lần đầu thường không biết rằng vào thời gian đầu địch thường cài chỉ điểm vào xà lim, cho ở chung với mình. Những ngày ấy, vừa bị tách khỏi cuộc sống bình thường, người tù cảm thấy một nỗi cô đơn ghê gớm, tưởng chừng phát điên được. Thế là trong nỗi cô đơn ấy, những điều bí mật mà anh ta cắn răng không hề khai với địch một tiếng thì lại thông thốc kể cho tên chỉ điểm trong những câu chuyện tâm tình.
Trời tối lúc nào không biết. Sau cái chạng vạng nhập nhòa, không rõ của trời hay của xà lim, ngọn đèn trong lưới sắt bừng sáng. Dưới ánh sáng điện anh tù trông cũng không đến nỗi gớm ghiếc cho lắm.
Cửa lại mở, lần này không có tiếng động dữ dằn như lúc tôi mới vào. Viên cai ngục nông dân hiện ra, cái áo bông của tôi vắt ngang tay:
- Anh!
Tôi hỏi lại:
- Tôi hả?
Anh ta gật đầu, đưa cho tôi cái áo bông:
- Anh mặc vào rồi đi với tôi.
Tôi uể oải xỏ giày, đi theo anh ta.
Chúng tôi đi, lặng lẽ, không ai nói với ai một câu, trong một cái sân hẹp và tối, tiếp đến là mấy ngôi nhà kiểu trại lính, từ trong đó bay ra tiếng người rì rầm như một tổ ong. Sau khi đi qua một xưởng thợ ngổn ngang sắt thép, chúng tôi bước vào một ngôi nhà lớn tăm tối. Trong một góc đen ngòm leo lét mấy ngọn đèn màu mắc trên một cành thông. Từ xó tối đó một cái loa vô hình rền rĩ:
Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê...
Cuối í í sông... ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về...
Say mê đồng lúa...
Vui tràn trề.. ề...
Ánh đèn mờ mờ cho thấy nơi này có một hành lang ngắn, một cái ngách, với hai dãy cửa. Tôi đoán đây là khu tù binh. Người cộng sản vô thần không chiều tù nhân Thiên chúa giáo bản xứ tới mức tha vào đây cho họ một cây thông. Lại càng không để ý tới chuyện cho họ một chút âm nhạc đang phát ra kia, từ một máy ghi âm cà khổ. Dây cu-roa máy đã rão lắm, nó chạy èo ẽo làm cho bài ca trữ tình của Đỗ Nhuận[7] trở thành rầu rĩ đến não lòng.
Không biết người ta sẽ cho tù binh Mỹ mừng Nô-en theo cách nào đây? Chẳng lẽ lại điệu từng tên ra, cho nó đi những bước dè xẻn quanh cái cành thông nhà quê kia một lát, cho nó hưởng khúc nhạc thê lương kia một lát, rồi điệu về, nhường chỗ cho tên khác? Xem ra với cung cách này, lễ Thiên chúa Giáng sinh cho tù binh chắc chắn sẽ diễn ra đúng như vậy. Thật buồn cười.
Kể từ 5 tháng 8 năm 1964, khi những máy bay Mỹ lần đầu xâm nhập vùng trời miền Bắc Việt Nam, đã có không ít phi công Mỹ bị bắt làm tù binh, mở đầu danh sách là Everett Anvarez danh tiếng Ngoài số phi công bị bắn rơi trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kể từ khi có cuộc leo thang bằng không lực trên miền Bắc Việt Nam, còn có nhiều tù binh Mỹ khác. Đó là tù binh thuộc các binh chủng khác của quân đội Mỹ từ các chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia được đưa về giam tại các trại bí mật nằm rải rác trong vùng rừng núi.
Bài báo cuối cùng của tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư ở phố Hàng Thao Nam Định chắc đã lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký “bông”[8] lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi không, khi tôi bị bắt? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở Nhà xuất bản Văn Hóa nữa? Cho dù là sách dịch từ tiếng Nga của Miguel Otero Silva[9], một tác giả thiên tả người Venezuela, chưa chắc người ta đã cho nó ra vì kẻ dịch sách lại là một tên chống Đảng[10]. Vợ con tôi thế là mất đứt khoản nhuận bút. Mà vợ tôi đã hi vọng bao nhiêu vào cuốn sách ấy.
Cần phải nói thêm cho rõ rằng lương của một anh nhà báo quèn như tôi không nuôi nổi vợ con đã đành, ngay những nhà báo có lương cao cuộc sống cũng chẳng hơn là bao nhiêu. Trừ những nhà báo nhưng không biết viết báo ở báo Nhân Dân ra, phần lớn chúng tôi đều phải làm thêm để kiếm sống bằng đủ cách. Ngoài công việc dịch sách, tôi còn viết cả mục kể chuyện làm kỹ xảo điện ảnh cho một tờ báo tuần chuyên giới thiệu và quảng cáo phim mới. Mà không phải ai cũng có thể viết thêm cho báo này báo kia. Ngoài cái tài và những mối quan hệ không thể thiếu để có được việc làm, người viết còn phải được những người có trách nhiệm ở mỗi tờ báo nọ tuyệt đối tin tưởng rằng anh ta không gài vào trong những bài viết của mình những ý tưởng “không trong sáng”..
Trong cái xã hội gọi là xã hội chủ nghĩa có một cái luật không thành văn nhưng mạnh hơn bất cứ điều luật nào được công bố. Ấy là: người cầm bút, tức là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà biên kịch hay nhà phê bình văn học… vân vân (không cứ ở Việt Nam, ở bất cứ nước cộng sản nào cũng vậy) phải là người có lý lịch trong sạch, có lập trường vững vàng, có thâm niên cao “trong tổ chức[11]” càng tốt. Các báo và các nhà xuất bản tuyệt đối không in tác phẩm của những phần tử “có vấn đề”. Ở các nước cộng sản châu Âu còn khá, chứ ở những nước cộng sản châu Á thì chuyện đó căng lắm lắm. Tôi biết có những nhà văn nhà báo đã tham gia kháng chiến chống Pháp, có thành tích hẳn hoi, thế mà chỉ vì một chút dính líu với các văn nghệ sĩ “có vấn đề” là đã không được in sách, không được đăng báo nữa rồi. Chẳng có văn bản nào quy định sự cấm đoán cụ thể với người này hay người khác. Tất cả những chuyện đó đều được quyết định trong những cuộc họp mà người thường, trong nhiều trường hợp cả người trong Đảng nữa, không được biết. Những quyết định từ những cuộc họp mật ấy trước sau rồi thiên hạ cũng biết cả, nếu không được nghe phổ biến chính thức từ “trên” xuống thì cũng nghe hơi nồi chõ, mà cái sự nghe hơi nồi chõ này dù chỉ đúng một phần thì cũng đã đủ làm cho người ta vì sợ mà tránh trước đi những điều làm “trên” không hài lòng. Cho nó chắc.
Số phận nhà văn Thanh Châu[12] trong nhóm Tiểu thuyết Thứ bẩy trước cách mạng là một thí dụ. Tên của anh không bị một nghị quyết nào, một chỉ thị chính thức nào liệt vào nhóm Nhân văn - Giai phẩm, nhưng vì anh có quan hệ với những người bạn thuộc nhóm ấy, cho dù chỉ là quan hệ bạn bè bình thường, không phải quá thân mật, quá gắn bó, nhưng anh vẫn cứ bị treo bút như thường. Các toà báo, các nhà xuất bản lịch sự mời anh uống trà mỗi khi anh ghé thăm, nhưng không một nơi nào dám in cho anh lấy một truyện ngắn. Cho đến lúc người ta xét lại cho anh, cho anh được phép viết, được phép in, thì tuổi anh cao mất rồi, sức anh kiệt mất rồi.
Kim Lân may mắn thoát nạn trong cái đận Nhân văn - Giai Phẩm. Anh khôi hài nói rằng sau vụ này hết thẩy nhà văn đều xây xát, chỉ có các “cung văn”[13] là lành lặn.
Nếu tôi bị bom chết trong chuyến công tác Nam Định, chắc hẳn ở cơ quan sẽ có một điếu văn thống thiết rằng sự hy sinh của tôi là một tổn thất to lớn không thể nào đền bù được cho gia đình và nhà nước, còn tôi trở về nguyên vẹn để bị bắt thì người ta lại uốn ngược lưỡi để xưng xưng lớn tiếng rằng tên phản động Vũ Thư Hiên mà ta theo dõi từ lâu đã bị tống giam.
Từ vài năm nay lòng trung thành của tôi đối với cách mạng đã bị đặt dưới sự soi mói không khoan nhượng. Cái đó có nguyên ủy của nó. Năm 1958 tôi từ Liên Xô về nước để lấy tài liệu cho đề tài thi tốt nghiệp khoa kịch bản thì ở trong ký túc xá sinh viên, một ông bạn họa sĩ cùng sang học với tôi một chuyến đã lục lọi đồ đạc của tôi để lấy cuốn nhật ký đem nộp sứ quán. Cuốn nhật ký ghi những kỷ niệm trong chuyến về Việt Nam năm 1957 với nhà quay phim xô-viết Otilya Reizmann để thực hiện bộ phim Ánh Sáng Tháng Mười, trong đó tôi có những nhận xét rất xấu về Cải cách ruộng đất, về ông Hồ Chí Minh. Cuốn nhật ký lập tức được gửi về Bộ Công an[14].
Nghe nói Nguyễn Văn Kỉnh, uỷ viên trung ương Đảng khoá 2 và 3, trước Cách mạng tháng Tám cũng là một trí thức ở Nam Bộ, được nhiều người mến mộ. Trong việc chỉ đạo ông bạn họa sĩ đảng viên ăn cắp nhật ký của tôi, ông ta còn tỏ ra có khiếu làm mật thám, là điều không ai biết. Thời ấy năng khiếu mật thám được coi là một năng khiếu đáng khuyến khích. Tôi bị Lê Văn Rạng, vụ trưởng Vụ đại học và Trung học chuyên nghiệp, một tay trí thức bảo hoàng hơn vua, giữ lại trong nước. Việc tôi có được trở lại Liên Xô học tiếp hay không sẽ được xét sau.
Tôi trở về Xưởng phim Việt Nam, từ đó tôi ra đi. Ở đó được gần một năm tôi phải bỏ nghề điện ảnh vì không chịu nổi tên trưởng phòng tổ chức vốn là một tay thư ký của một đội Cải cách ruộng đất. Tên hãnh tiến này gọi tôi lên gặp y rồi vặn tôi: “Cả xưởng chào tôi, sao anh không chào?” Tôi lễ phép hỏi tên y, rồi cũng lễ phép như thế tôi thưa với y rằng rất có thể y quan trọng, y có ích, tựa như cái cột đèn vậy, không có nó điện không vào nhà được, tôi sẽ không có ánh sáng để đọc, tôi biết chứ. Nhưng, tôi kính cẩn thưa tiếp, không phải vì thế mà tôi sẽ dừng lại trước mỗi cái cột đèn để chào nó.
Tôi quyết định sang nghề báo. Bạn bè tôi ở các toà soạn muốn tôi về với họ. So sánh các tờ báo muốn nhận tôi, tôi thấy báo ảnh Việt Nam, hay còn gọi là họa báo Việt Nam, hợp với tôi hơn cả. Nó là tờ báo dành cho độc giả nước ngoài, bài vở không nhất thiết phải viết theo công thức của các báo trong nước. Hơn nữa, mấy anh trong bộ biên tập báo ảnh mến tôi qua những truyện ngắn và bài báo đã đăng, chèo kéo bằng được tôi về với tờ báo của các anh.
Trong những cuộc đụng độ lặt vặt kiểu như chuyện xảy ra với anh chàng tổ chức Xưởng phim, tôi không thể tránh được những câu nói lẽ ra không nên nói. Cơ quan tổ chức, cũng như cơ quan công an, rất mẫn cán thu thập thông tin về thái độ chính trị của cán bộ. Chỉ cần anh ăn nói không giữ gìn một chút, để lộ ra những suy nghĩ không theo dòng chính thống một chút, là tội của anh lập tức được ghi nhận, anh bắt đầu bị theo dõi mà không biết. Cho tới ngày anh chợt nhận ra mình bị theo dõi thì đã muộn - anh đã bị ném khỏi boong con tàu cách mạng.
Còn nhớ năm 1961, mọi người trong tòa soạn báo ảnh đã được nhận Thẻ nhà báo rồi mà mãi tôi vẫn chưa được nhận. Tôi chỉ ngạc nhiên tí chút, cho rằng những cái bàn giấy quan liêu bao giờ mà chả thế, chúng không vội vã trong bất cứ việc gì. Thư ký tòa soạn gọi điện thoại hỏi. Người ta nói ảnh của tôi bị thất lạc. Tôi đưa tiếp ảnh khác. Vẫn không xong. Hóa ra không phải chuyện mất ảnh. Chỉ sau khi chủ nhiệm tờ báo đích thân lên Sở báo chí kiện cáo thế nào không biết, tôi mới được nhận thẻ. Bây giờ nghĩ lại tôi mới hiểu ra, chẳng qua người ta ngần ngại, người ta còn phải xin ý kiến trên, bởi vì tên tôi nằm trong một danh sách nào đó đòi những người trực tiếp quản lý các nhà báo phải suy nghĩ. Cấp trên trực tiếp của tôi chắc chắn chẳng khó chịu với tôi, nhưng ở trong lòng xã hội chủ nghĩa chẳng ai muốn chịu trách nhiệm về ai hết.
Sau vụ này tôi bắt đầu để ý đến thái độ của lãnh đạo, tức là các quan chức cấp trên của tôi, ngang cũng như dọc. Mới thấy rằng trong công việc hàng ngày người ta tránh không phân công tôi làm những đề tài có dính tới bí mật quân sự hoặc những bí mật khác. Mà bí mật trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì lại quá nhiều, cái gì cũng bí mật, kể cả những cái hoàn toàn không dính líu tới quốc phòng. thành thử tôi chỉ được phân công đi các địa phương khi tờ báo cần có các bài về văn hóa, nông nghiệp, công nghiệp. Hoặc cứ ngồi nhà làm công việc chữa cháy cho các số báo chẳng may bị ông Trường Chinh, người khai sinh ra tờ báo, bất ngờ gạch bỏ một bài, thậm chí vài bài một lúc[15].
Đến lúc thấy mình không có tên trong danh sách những nhà báo được cử đi B[16] thì tôi mới biết chắc chắn rằng cái sự cảnh giác cách mạng của cơ quan tổ chức quyền lực vô biên đã được áp dụng cho tôi rồi. Chả trách đợt vào Vĩnh Linh công tác, khi tôi muốn ra đảo Cồn Cỏ thì bị người ta từ chối. Hòn đảo nhỏ bé lúc ấy đang cô độc chiến đấu chống lại những cuộc tấn công bão táp của hải quân Mỹ. Như bất cứ nhà báo nào, tôi muốn có mặt ở đó. Nhà văn Nguyễn Khải[17] ở Vĩnh Linh cùng thời gian với tôi. Anh được ra Cồn Cỏ, còn tôi thì không. Tàu đi Cồn Cỏ chỉ có một chỗ dành cho văn nghệ sĩ, mà chỗ ấy đã được dành cho anh Nguyễn Khải là người đăng ký từ lâu, người ta nói thế.
Những tin tức rò rỉ từ Bộ Nội vụ cho biết tôi nằm trong “diện” những phần tử không phải chỉ không đáng tin cậy, mà còn đáng chú ý. Từ “diện” không đáng tin cậy và đáng chú ý sang “diện” có vấn đề chỉ là một bước, mà là một bước không dài. Các bạn tôi nhắc tôi phải thận trọng, phải giữ gìn lời ăn tiếng nói. Nghe thì nghe, chứ trong thâm tâm tôi không hẳn tin lời các bạn dặn. Chẳng lẽ người ta lại có thể nghĩ bậy bạ đến thế?
Mọi việc chỉ sáng tỏ khi tôi đã ở trong Hỏa Lò.
Thì ra từ lâu rồi tôi đã bị nhà cầm quyền nghi ngờ. Thậm chí họ còn lo tôi sẽ chạy sang bên kia chiến tuyến khi gặp cơ hội thuận tiện nữa kia.
Tôi cay đắng được biết sự thật. Tôi coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, do những biến chuyển lịch sử run rủi, là bước kế tiếp trên con đường tiến tới thống nhất đất nước. Thống nhất là khát vọng ngàn đời của người dân nước Việt, từ thời nước mắt tủi hờn chia cắt còn lã chã trên sông Gianh, mặc dầu trong thâm tâm, tôi và những người bị chụp cho cái mũ “xét lại”, đều không đồng tình với đường lối thống nhất đất nước bằng bạo lực của ban lãnh đạo cộng sản.
Trong nghề báo, tôi may mắn được tiếp cận với một số ít ỏi những nguồn thông tin khác với thông tin chính thống. Đó là những sách báo thuộc loại “địch” nhưng không bị cấm hoàn toàn, chúng vẫn có trong thư viện Trung ương ở mấy phòng đọc dành cho số độc giả hạn chế và số độc giả quen biết với ông Mai, giám đốc thư viện. Ngoài ra, sự gặp gỡ với một số phóng viên ngoại quốc, tuy họ cũng thuộc những tờ báo cộng sản đấy, nhưng tư duy của họ phóng khoáng hơn nhiều so với những gì được coi là duy nhất đúng, không được phép bàn cãi, ở Việt Nam. Còn phải kể thêm vào đấy những cuốn kinh điển mác-xít nữa. Chúng, như một nghịch lý, cũng góp phần làm cho phương pháp tư duy của chúng tôi thay đổi, khác hẳn tư duy của đám lãnh tụ đọc Marx theo cách ăn đong, đã thế lại chẳng bao giờ chịu đọc bản chính, dù là bản dịch.
Chúng tôi tin chắc rằng thế giới ắt phải thay đổi theo chiều hướng ngày một nhân bản hơn. Chúng tôi không chịu nổi chế độ toàn trị của miền Bắc, nhưng chúng tôi cũng không ưa gì chế độ gia đình trị của ông Ngô Đình Diệm, căn cứ những gì chúng tôi được biết (không phải qua báo chí chính thống) về hệ thống quyền lực ở miền Nam.
Những gì tôi đọc được cho tôi một hình ảnh không mấy đẹp về Ngô Đình Diệm. Ông chưa bao giờ là một nhà cách mạng trong nghĩa người dấn thân tranh đấu cho công cuộc giải phóng dân tộc. Ông có thể là một ông quan thanh liêm, pha chút cứng đầu đối với mẫu quốc, nhưng không hơn. Trong hoàn cảnh đất nước chia đôi, ông là người may mắn leo lên địa vị lãnh đạo miền Nam, nơi ông không cần lựa chọn cũng có sẵn nền cộng hoà, là cái tất yếu phải có của một đất nước nằm trong hệ thống tư bản, gọi theo cách của những người cộng sản. Nền cộng hoà hiển nhiên tốt hơn bất cứ nền chuyên chế nào. Cho nên nó hiển nhiên tốt hơn chế độ chuyên chính vô sản ở miền Bắc. Tốt hơn không có nghĩa là tốt.
Điều khó hiểu, căn cứ những tài liệu và tin tức lọt ra qua vĩ tuyến 17, là ông Ngô Đình Diệm đã có lúc cho rằng muốn có một miền Nam ổn định thì phải bắt chước cách cai trị của cộng sản ở miền Bắc. Từ đó đã nảy sinh sự hấp tấp dựng lên một chủ thuyết đối lập với chủ thuyết cộng sản (chủ thuyết Nhân Vị), xu hướng lập một đảng cai trị tương tự đảng cộng sản (đảng Cần Lao), việc người cầm quyền bính thích giao những chức vụ then chốt cho thân tộc. Tất cả những cái đó chẳng những đã không tạo ra sự ổn định mà lại trở thành mảnh đất màu mỡ cho mọi bất ổn về sau này. Nhưng không phải chỉ có ông Ngô Đình Diệm nghĩ thế. Các quốc gia châu Á mới phát triển sau thế chiến thứ 2 đều trải qua thể chế độc tài rồi mới xây dựng được nền dân chủ, như ta thấy.
Những dữ liệu về chế độ cộng hoà ở Nam Việt Nam trong những bài báo nước ngoài cho chúng tôi thấy còn lâu nó mới là một chế độ dân chủ thực sự.
Những người cộng sản Việt Nam, vốn chủ trương “bạo lực là bà đỡ của cách mạng” theo những giáo điều mác-xít, từ ngay sau kết thúc cuộc chiến tranh với Pháp (1946-1954) đã chuẩn bị chiếm chính quyền trong cả nước bằng bạo lực, liền lợi dụng tình thế rối ren để phát động cuộc nội chiến nhằm xoá bỏ nền cộng hoà ở miền Nam, không phải vì căm thù chế độ cộng hoà mà vì lòng ham muốn đặt nền cai trị của đảng cộng sản trên toàn quốc.
Sự bất bình với chính quyền này còn mạnh mẽ hơn nữa khi những người cầm quyền sau ông Ngô Đình Diệm đã để cho người Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam. Lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc không cho phép người ta bàng quan trước hiện trạng một quân đội nước ngoài cầm súng đi lại như trong đất nước họ trên đất đai của tổ tiên để lại. Chính sự hiện diện của quân Mỹ đã làm lợi cho ý đồ thôn tính miền Nam bằng bạo lực, được chuẩn bị từ trước, của Lê Duẩn.
Người Mỹ tự thị đã đi lầm nước cờ. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống ngoại xâm là điều người Mỹ hoàn toàn không biết, hoàn toàn không tính đến, và khi hiểu ra thì đã muộn. Sau năm 1965 người ta không thể trở về với năm 1954, cho dù có muốn.
Đây là đề tài rắc rối và tế nhị, thuộc thẩm quyền các sử gia, và của các nhà chính trị ở cả hai phía, tôi không dám lạm bàn. Có nhiều chi tiết mà người dân thường như tôi không được biết. Tuy nhiên, nhìn cuộc chiến từ góc độ người làm báo, tôi cho rằng trong suốt thời gian chiến tranh không phải hoàn toàn không có cơ hội để thoát khỏi nó, và trong chuyện không muốn tìm cơ hội thoát ra, lỗi không phải ở một bên, mà là ở cả hai.
Nhưng đó là chuyện khác.
Đi qua khu tù binh, viên cai ngục nông dân đưa tôi tới một cái nhà dài phía trái cổng Hỏa Lò, có rất nhiều cửa vào các phòng. Phòng hỏi cung mà tôi được đưa tới là một phòng nhỏ, chừng mười sáu thước vuông, không hơn, lờ mờ sáng nhờ một bóng điện 60 oát.
Huỳnh Ngự đã chờ sẵn. Thấy tôi bước vào, y ngẩng lên. Mặt nhẹ nhõm, không hằn học, không căng thẳng, trông y thật hiền lành. Khó tưởng tượng được vừa mới đây y còn hầm hè với tôi như với kẻ thù của cá nhân y, chứ không phải của Đảng.
- Ngồi xuống, ngồi xuống đây, anh Hiên! - y vồn vã chỉ cho tôi ghế đối diện - Anh dùng trà, hỉ?
Phòng hỏi cung được bày biện như một phòng khách nghèo - mấy cái ghế ba nan quây quanh một bàn nước chân quỳ. Trên bàn là một ấm sứ Hải Dương bắt chước kiểu men rạn đời Lý, không hợp chút nào với mấy chén sứ Bát Tràng rẻ tiền. Bộ đồ trà được đặt trong một đĩa sắt tráng men sứt sẹo với mấy con tôm Tề Bạch Thạch bạc màu. Hoạ sĩ Lưu Công Nhân, bạn tôi, đã vẽ cho nhà máy sắt tráng men Hải Phòng nhiều hoạ tiết đẹp, nhưng nhà máy không chịu dùng sáng tác của anh vì phải trả nhuận bút. Dùng tranh của Tề Bạch Thạch hay Từ Bi Hồng không phải trả bản quyền.
Mặc dầu đã có áo bông, tôi vẫn run rẩy - nhiệt độ xuống quá nhanh, buổi sáng trời còn ấm, vậy mà bây giờ đã lạnh dữ. Căn phòng hỏi cung còn lạnh hơn cả xà lim, lại có mùi gỗ mốc, như thể nó bị bỏ hoang lâu ngày.
Huỳnh Ngự bốc trà cho vào ấm, tỉ mẩn nhặt từng cánh trà rơi xuống mặt bàn cho vào tiếp rồi mới từ tốn với tay lấy cái phích Trung Quốc, cũng từ tốn như thế, chế nước sôi. Đợi một lát cho trà thật ngấm, y mới chuyên chậm chậm vào hai chén. Cung cách pha trà cho thấy viên sĩ quan công an này là tay nghiện trà thâm căn cố đế. Hồi ấy uống trà là thú vui duy nhất và hợp túi tiền của mọi cán bộ đứng tuổi.
Tôi lặng thinh quan sát.
- Uống đi, anh Hiên! - y chìa bàn tay gầy, với những ngón dài và xương xẩu, về phía tôi - Kẻo nguội.
Tôi vẫn nín lặng.
- Tiết trời như ri uống trà thiệt thú vị, phải không? Anh dùng đi, tự nhiên nghen. Anh thấy đó, ở ngoài nhìn vô ai cũng nghĩ cái sự bị bắt, cái sự ở tù nó ghê gớm lắm lắm kìa, khủng khiếp lắm lắm kìa, chớ thiệt ra thì, hì hì... có chi ghê gớm lắm mô...
Y đẩy một chén về phía tôi.
- Tác giả “Chiếc va-li” [18] đã báo trước cho anh biết anh sẽ bị bắt, phải không? Hắn còn nói với anh những chi nữa, hè?
Ấy là Huỳnh Ngự nói về Hoàng Đạo. Nói lửng lơ. Như thể đó là điều hoàn toàn không có gì quan trọng. Tôi không ngạc nhiên. Chuyện không quan trọng thật. Chẳng qua y muốn khoe y biết hết, đừng hòng giấu y điều gì.
Đúng là Hoàng Đạo có báo trước cho tôi điều sẽ xảy ra.
Tôi gặp Hoàng Đạo tuần trước. Tôi không chủ bụng tới anh, tiện thể đi ngang phố Nguyễn Chế Nghĩa thì rẽ vào. Anh có căn nhà nhỏ ở đó. Từ phòng ngoài nhà anh nhìn ra, tôi vẫn thấy thấp thoáng mấy bóng công an mật lởn vởn trong ánh sáng vàng vọt rỉ ra từ những chao đèn phòng thủ.
“Họ sẽ bắt anh”, Hoàng Đạo nói. “Hôm nọ tôi có việc rẽ vào Bộ, thấy căng lắm. Họ còn bắt nhiều nữa. Tôi thì chỉ quan tâm tới anh thôi”.
Tôi cười: “Vậy thì bỏ rượu ra, chúng ta uống một trận chia tay”. Tôi cố ý nhắc lại câu Hoàng Đạo nói với một sĩ quan Phòng nhì Pháp trong một lần tính mạng anh ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc[19].
Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp Hoàng Đạo là trưởng ty công an Thanh Hóa. Anh tự ý làm ra một chiến khu giả ở miền Tây Thanh Hóa, rồi tự ý vào Hà Nội với tư cách người chủ của chiến khu mang tên địa phương Ngọc Lặc. Lãnh tụ giả mạo của một đảng không có thật vượt qua được thử thách của tình báo Pháp, trở thành bộ trưởng không bộ nào của chính phủ Bảo Đại. Do không thỉnh thị Trung ương, Hoàng Đạo bị tổng bí thư Trường Chinh thi hành kỷ luật. Điệp vụ do Hoàng Đạo tổ chức kết thúc bằng việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d' Inville tại vùng biển Thanh Hóa năm 1950. Anh tiếc sáng kiến không được chấp thuận và làm rốn việc cuối cùng có thể làm, lần này cũng không thỉnh thị Trung ương. Một nữ điệp viên tên là Nguyễn Thị Lợi tình nguyện sắm vai vợ lãnh tụ Đại Việt Hoàng Đạo đi nhờ tàu Pháp ra Hải Phòng mang theo một va-li thuốc nổ và làm nó nổ tung[20]. Trong thời gian ở miền Nam, Hoàng Đạo đã gặp Ngô Đình Diệm, Năm Lửa, Ba Cụt, Bẩy Viễn... và nhiều nhân vật chính trị khác. Sau khi biết chắc người Mỹ có ý định dùng Ngô Đình Diệm thay thế Bảo Đại, Hoàng Đạo đề xuất với Trung ương cho phép anh thủ tiêu Ngô Đình Diệm để thế chân ông ta. Kế hoạch này của Hoàng Đạo bị Trường Chinh bác bỏ. Trường Chinh nói rằng việc Hoàng Đạo tổ chức chiến khu giả ở Thanh Hóa là việc làm xấu uy tín của chính phủ kháng chiến, lợi bất cập hại. Theo Trường Chinh, Hoàng Đạo là người ham mê tửu sắc, nếu làm việc với Mỹ sẽ bị Mỹ mua chuộc, “đến lúc ấy đánh nhau với nó còn khó hơn đánh nhau với Ngô Đình Diệm nhiều”, ông ta nói. Về sau này Hoàng Đạo có viết một cuốn hồi ký nhan đề “Hà Nội - Huế - Sài gòn - Đà Lạt” về điệp vụ trên, tôi được đọc bản thảo, nhờ đó mà được biết nhiều chi tiết thú vị của điệp vụ này. Cuốn sách chưa bao giờ được xuất bản. Rất có thể, nó đã thất lạc. Nhưng chính nhờ đọc nó mà trong đầu tôi nảy ra ý định viết kịch bản về hoạt động của một tổ điệp báo kết thúc bằng vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d'Inville. Cũng nhờ nó mà quan hệ giữa Hoàng Đạo và tôi trở thành thân thiết.
Chúng tôi dẹp mọi chuyện qua một bên, bàn tiếp việc viết kịch bản.
“Anh không thể xử nhũn một chút được sao? - Hoàng Đạo hỏi khi tôi ra về - Anh dây vào chính trị làm chi?”
“Không được, anh ạ. Tôi không quan niệm nói ra ý kiến của mình là dây vào chính trị. Tôi không làm điều gì sai trái. - tôi nói - Tôi chỉ có tội cho rằng con người có quyền tự do tư tưởng”.
Hoàng Đạo ôm lấy tôi. Chúng tôi bùi ngùi chia tay.
- Anh không muốn nói cũng không sao. - Huỳnh Ngự nói bằng giọng kẻ cả - Chuyện Hoàng Đạo chẳng có gì quan trọng. “Hắn ta” không phải đối tượng đáng chú ý. Cũng không phải kẻ chúng tui cần anh báo cáo. Nhân tiện thì tui hỏi cho biết, tức là chúng tôi biết hớt, nhưng chúng tui muốn nghe anh nói, coi ra răng. Những chuyện khác cũng rứa. Anh thích nói thời nói. Không thích thời thôi. Tui sẽ chờ. Bao chừ giác ngộ tự anh sẽ nói. Cơ quan an ninh chúng tui rất kiên nhẫn.
Tôi tưởng y sẽ nói thêm: “Chúng tôi sẽ chờ năm năm, mười năm, hai mươi năm, hay lâu hơn nữa” theo cách ông Hồ Chí Minh nói với người Mỹ về cuộc chiến tranh. Hình như y định nói thế thật, nhưng kìm lại được.
- Nói thiệt cho anh hay để anh đừng sợ: Đảng đưa anh vô nơi ni là để ta có chỗ mần việc cho thuận tiện mà thôi - Huỳnh Ngự nhe răng trong nụ cười không thành tiếng - Đảng muốn hỏi anh một số việc, hỏi xong thời cho anh về, Đảng cũng không giữ anh mần chi. Ngoài tê anh công tác phục vụ Đảng, phải không nào? Nơi ni anh cũng mần việc đó, không có chi khác. Anh là cán bộ của Đảng, phải biết chấp hành mịnh lịnh của Đảng. Bữa ni Đảng biểu anh mần việc ở nơi ni thì anh mần việc nơi ni. Mai mốt Đảng biểu anh vô Nam thì anh vô Nam, còn khi mô Đảng biểu chừ phải qua Liên Xô thì anh xách va-li qua bển. Vậy đó, thanh niên phải như rứa, hè hè, nơi Đảng cần thanh niên có, nơi nào khó có thanh niên...
Ngon lành chưa?! Cứ như thể nay mai Đảng sẽ cử tôi đi công tác Moskva, hoặc xa hơn nữa, tới Paris hoặc New York chửa biết chừng.
Mặc cho y ba hoa, tôi đủng đỉnh nhấp trà. Trà ngon. Không phải ai cũng pha trà Hồng Đào[21] được thế này. Té ra Huỳnh Ngự cũng sành uống trà ra phết.
- Tui nói vậy là trúng chớ? Không trật chớ? - y nói bằng giọng tin chắc ở lẽ phải mà y đang ngồi ở trên - Vậy, chừ Đảng chỉ thị cho anh ở nơi ni, vị trí chiến đấu của anh lúc nầy là ở nơi ni, anh hãy yên tâm phục vụ ở vị trí mới. Chỉ thị của Đảng là cái mà chúng ta, những cán bộ của Đảng, chỉ có việc tuân theo...
Một con cừu trong đàn cừu Panurge, tôi nghĩ. Kết quả của cuộc hoài thai hầm bà làng kỳ cục giữa các thứ chẳng có gì chung với nhau: chủ nghĩa Marx bị thiến, chủ nghĩa Mao[22] đang cơn động dục, và chế độ phong kiến hiện đại có tên là xã hội chủ nghĩa.
Trong yên lặng tôi nghe tiếng mấy con sẻ rên rỉ vì rét trên mái nhà. Ở đâu đó, từ một thế giới khác, vẳng tới tiếng xe tải nặng lăn bánh trên đường. Mà cũng có thể là xe bọc thép. Những chuyến xe đi về phương Nam nối tiếp nhau không ngớt, ì ì ầm ầm.
Huỳnh Ngự mời tôi uống tiếp. Tôi nhã nhặn nâng chén, chờ y rót thêm.
- Nào, uống xong ta mần việc! - có vẻ ấm trà ngon làm cho Huỳnh Ngự cảm thấy sảng khoái và độ lượng - Anh không thấy sao, trong ni cũng bảnh chẳng kém chi ngoài tê, hả? Cũng Hồng Đào loại một, cũng Điện Biên[23] bao bạc như ai. Anh hút đi, khi ta mần việc trên cho trà thuốc thoải mái. Tiêu chuẩn, chớ không phải của tui đâu. Phải nhịn thuốc cả ngày, khó chịu lắm hè?
Tôi nhìn bao thuốc y đẩy tới trước mặt. Chao ôi, giá mà được rít một hơi lúc này nhỉ, chỉ một hơi thôi! Tôi cảm thấy một cơn thèm ghê gớm không sao cưỡng nổi chạy râm ran trong cơ thể.
- Cảm ơn - tôi nói - Tôi không hút.
Y ngả hẳn ra trên ghế để nhìn tôi, theo cách người viễn thị.
- Ủa? Anh? Mà không hút?
- Thì có gì lạ?
Huỳnh Ngự làm mặt giận:
- Tui mời thiệt tình mà. Bộ anh giận hả?
- Cảm ơn. Tính tôi thế, đã không hút là không hút.
- Mà sao vậy chớ? Hay là anh chê thuốc Điện Biên của ta không ngon bằng Gold Flake? Cánh văn nghệ sĩ các anh khoái Gold Flake lắm thì phải?
Hồi ấy ở Hà Nội thuốc lá ngoại chỉ có độc một thứ Gold Flake. Ai cũng biết rằng thứ thuốc lá thơm này lọt ra từ một nguồn duy nhất là sứ quán Indonesia. Việt Nam đang ra sức lấy lòng người hùng Suharto sau sự sụp đổ bất ngờ của cái gọi là lực lượng mới trỗi dậy và ghế tổng thống suốt đời của Sukarno, người anh em của ông Hồ Chí Minh, cho nên phải ngoảnh mặt đi trước việc nhân viên sứ quán Indonesia buôn lậu[24].
Cái ghế kêu cọt kẹt dưới tấm thân còm của Huỳnh Ngự.
- Tôi không chê Điện Biên. Nhưng tôi không hút.
- Chà, anh Hiên nè, anh coi thường cơ quan an ninh tụi tui hơi nhiều đó! - mặt Huỳnh Ngự toác ra trong nụ cười khoái trá - Anh nghĩ tụi tui biết về anh quá ít thì phải?
Tiếng cười khanh khách của y làm tôi nóng mặt.
- Tôi chẳng coi trọng mà cũng chẳng coi thường cơ quan an ninh. Tôi cũng chẳng quan tâm chuyện các anh biết tôi nhiều hay ít. Tôi không có thời giờ để nghĩ vớ vẩn.
Huỳnh Ngự nghiêm nghị trở lại.
- Nè, nói cho anh hay, trước khi bắt một người tụi tui nghiên cứu về người đó rất kỹ. Tui biết mọi khuyết tật của anh, mọi thói quen của anh. Tui biết anh ghiền thuốc lá, mà còn ghiền nặng nữa kìa.
Đến lượt tôi bật cười.
- Thế thì không đúng rồi. Tôi chưa bao giờ liệt mình vào loại nghiện nặng.
- Chẳng ai bắt bẻ anh chuyện ghiền thuốc hay không ghiền thuốc. Có chi mà phải chối!
- Hút thuốc lá đến độ bỏ điếu này ra phải nạp ngay điếu khác vào, không thì không chịu được mới là nghiện nặng. Tôi có hút nhưng chưa tới mức đó.
- Anh bắt đầu hút từ năm nào hỉ?
- Từ năm tôi mười sáu.
Chẳng có cuốn trinh thám nào viết về sự hỏi cung kỳ cục thế này. Không có lấy một dụng cụ tra tấn nào - không một cái magnéto, không một sợi thừng, không một cái roi, không một móc xích lủng lẳng trên trần. Lại còn hỏi về cái sự nghiện hay không nghiện thuốc lá nữa.
- Sớm quá, hút thế sớm quá! - Huỳnh Ngự lắc đầu - Thuốc lá có hại lắm, chẳng nói anh cũng biết. Ung thư phổi, ung thư vòm họng từ đó mà ra. Để coi, bao nhiêu phần trăm người hút thuốc bị ung thư hè? Tui có đọc mà không nhớ. Nhưng hút chút chút thì không sao. Tui lâu lâu cũng hút một điếu, ghiền thì không, tui không ghiền.
Thì cứ nói chuyện chơi với thằng cha này một lát xem y định dẫn câu chuyện tới đâu? Một nghệ thuật hỏi cung độc đáo? Buồn cười, y trẻ con quá!
- Hồi ấy chúng tôi đói - tôi dịu giọng - Hút thuốc quên đi được phần nào cảm giác khó chịu.
- Nói chi lạ? Anh mà đói?
- Anh người khu 5, phải không?
Huỳnh Ngự cau mặt. Y bỏ điếu thuốc ra khỏi cặp môi thâm.
Tôi chợt hiểu - y bị chạm nọc. Trong số những người từ bên kia vĩ tuyến 17 tập kết ra Bắc theo Hiệp nghị Genève, người liên khu 5 đông hơn cả. Ngoài cán bộ và gia đình họ, còn có một đám lúc nhúc tù hình sự được tập kết theo. Người ta nói Khu ủy Khu 5 sợ không đưa tù đi theo thì rồi chúng sẽ chạy theo địch. Trong lúc công tác đón cán bộ tập kết diễn ra lộn xộn, chẳng hiểu sao những người tù này lại được thả ra, thậm chí còn được bố trí công tác, phần đông sung vào ngành thuế và quản lý thị trường, gây nên nhiều tiếng tăm không đẹp. Nói chung, hồi ấy cả dân Bắc lẫn dân Nam bộ tập kết đều có định kiến xấu và rất xấu với những người từ khu 5 ra. Đến nỗi một anh bạn tôi, cán bộ khoa học người Liên khu 5, khi đi thuê nhà phải nhờ tôi đi hộ vì sợ nghe giọng anh chủ nhà không cho thuê.
- Ý tôi muốn nói ở chiến trường Liên khu 5 các anh không bị đói - tôi nói chữa, trong lòng có chút ân hận thấy mình thiếu tế nhị - chứ ngoài này năm 1949 là năm bộ đội chúng tôi đói lắm, đói vô cùng, đến sắn cũng không có mà ăn...
Tôi đã làm cho y hiểu tôi không có ý nói xỏ, nhưng mặt y vẫn lạnh như băng.
- Hừm.
Y không muốn nghe chuyện tôi đã ở trong quân ngũ, chắc thế. Rất có thể, trước đây y cũng từng ở bộ đội như phần lớn cán bộ kháng chiến, nhưng lúc này đây y không muốn thấy giữa tôi và y có cái gì đó giống nhau, là cái làm nhòa đi ranh giới giữa cán bộ chấp pháp và tên tù. Tuy nhiên, đó là sự thật không thể bác bỏ. Y nói y nghiên cứu kỹ lý lịch tôi, thế tất y phải biết tôi đã ở bộ đội.
Nhưng rồi y cũng lấy lại sắc mặt bình thường:
- Anh không có thuốc hút là tại tui - y bỗng nhiên hiền lành trở lại, y nói như thể phân trần - Anh nào ghiền vô đây cũng có tiêu chuẩn thuốc lá như khi ở ngoài. Tui mắc nhiều công chuyện quá. Lẽ ra anh phải có thuốc ngay mới đúng. Thôi được, cứ hút tạm thuốc tiêu chuẩn của tui cái đã. Mai mốt rồi tính.
- Cảm ơn. Nhưng tôi đã quyết định thôi không hút nữa.
- Anh tính nhân tiện vô đây cai thuốc luôn, hỉ? Hay đó.
Tôi lắc đầu:
- Không phải. Chẳng qua là thế này: tôi không muốn trở thành một Ngô Đức Trì[25].
Huỳnh Ngự đang uống dở ngụm nước, y ngưng lại, đặt mạnh chén xuống bàn. Cái nhìn soi mói xoáy chặt vào mắt tôi:
- Anh vừa nói đứa nào? Thằng Trì nào?
Đến lượt tôi ngạc nhiên. Chẳng lẽ y, vụ phó một bộ quan trọng là Bộ Nội vụ, chẳng gì cũng là một cán bộ có cỡ, lại không biết Ngô Đức Trì là ai.
- Thế này, Ngô Đức Trì là ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng vào thời kỳ trước khi Mặt trận Bình dân vỡ...
Y nhíu lông mày nhìn tôi.
- Khi bị Pháp bắt, bị tra tấn - đành phải giải thích cho y vậy - Ngô Đức Trì đã bán đứng cho Pháp một số cơ sở của Đảng để đánh đổi lấy một lần gặp vợ và, thật khó tưởng tượng nổi, để được chúng cho... hút thuốc lá. Giữa hai thứ mà Ngô Đức Trì đem mạng sống của các đồng chí ra đánh đổi tôi không rõ cái nào quan trọng hơn: vợ hay thuốc lá? Có người nói Ngô Đức Trì phản bội vì thèm một mụn con trai nối dõi tông đường...
Ẩn ý của câu nói thật dễ đoán. Huỳnh Ngự ném cho tôi một cái nhìn bốc lửa. Tôi nghĩ y sẽ nổi khùng, sẽ quát nạt, nhưng không, y tỏ ra biết tự kiềm chế.
- Anh ngồi ngay ngắn lại.
Tôi quan sát tư thế của mình - tôi vắt chân chữ ngũ theo thói quen, cái áo bông để hở làm lộ ra cái áo tù không cài cúc. Tôi bỏ chân xuống.
- Thế này được chưa?
- Nghe đây! - y dằn giọng - Hôm nay tui cho gọi anh ra trước hết là để phổ biến cho anh nội quy trại giam.
- Tôi đang nghe.
- Thứ nhất, kể từ bây chừ, khi anh đã nằm trong trại giam thì quyền công dân của anh không còn nữa, quyền đó tạm thời bị tước bỏ…
- …
- Anh không được phép kêu cán bộ thực hành pháp luật ở nơi ni, từ cán bộ chấp pháp cho tới bộ đội gác trại bằng đồng chí! Với bất kỳ công dân nào khác là người tự do cũng vậy...
Cái sự tung hứng ngôn từ và đánh tráo khái niệm được thực hiện tuyệt vời ở mọi lĩnh vực, mọi nơi chốn, không trừ cả trại giam! Những khái niệm còn đó cả nhưng đã rỗng ruột. Các ngôn từ vẫn bay lượn, nhưng chỉ là những cánh diều giấy mà sợi dây nằm trong tay nhà cầm quyền.
Chao ôi, tôi, kẻ bị bắt cóc giữa đường đưa thẳng vào xà lim mà gia đình không được báo, bản thân không biết bị kết tội gì, mà còn có quyền công dân để bị tước bỏ cơ đấy! Hân hạnh chưa?
Tôi có nghe kể trong trại giam tù nhân phải gọi cán bộ bằng ông bằng bà[26]. Tôi không tin. Thì ra không phải chuyện bịa. Cách quy định xưng hô này bắt nguồn từ thời kỳ Cải cách ruộng đất. Hồi đó, để hạ nhục các đối tượng của cách mạng, cán bộ đội Cải cách ruộng đất bắt địa chủ, phú nông phải gọi bất cứ ai là người tự do bằng ông, bằng bà: ông đội, bà đội, ông nông dân, bà nông dân...
Vợ tôi hiện nay là người tự do. Nếu bây giờ tôi được gặp vợ thì, theo đúng cái quy định quái gở kia, tôi cũng phải lễ phép chào vợ tôi: “Chào bà ạ!”
Vui thật!
Tôi bật cười. Thái độ hách dịch của Huỳnh Ngự không làm tôi sợ y, mà ngược lại, làm tôi thấy dễ chịu. Y quát nạt, có nghĩa là y thấy cần phải trấn áp, y thấy y không thể chiến thắng dễ dàng. Tôi nói:
- Chà, chẳng hóa ra tôi đã thực hiện đúng nội qui của các anh ngay cả khi chưa được nghe anh phổ biến hay sao? Từ khi gặp anh tôi chưa một lần gọi anh bằng đồng chí, đúng thế không nào?
- Hừm - y đành xác nhận với vẻ mặt chưng hửng.
Tôi dấn thêm một bước:
- Không phải tôi nghe ai nói hoặc thông minh mà đoán ra đâu. Chẳng qua, nói thực với anh, tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng, trong gia đình chúng tôi hai tiếng đồng chí được coi là rất thiêng liêng, tôi đã thấy vì tình đồng chí những người cách mạng sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình...
- Hừm.
Huỳnh Ngự tím mặt. Y lúng túng, không biết nên xử sự thế nào khi thấy tôi đối đáp bằng giọng điềm đạm. Lẽ ra nên kết thúc, y lại ngu xuẩn kéo dài cuộc đối thoại:
- Không những không được xưng hô đồng chí, mà anh còn phải kêu cán bộ tụi tui bằng ông hoặc bằng bà...
Hoàn toàn bất ngờ đối với y, tôi đã sẵn sàng để đập lại.
- Một cách xưng hô tuyệt vời, thưa ông! - tôi nói, làm bộ còn vui vẻ hơn trước nữa - Thú thực, tôi vui mừng được biết ngành công an, tiếc thay lại không phải ngành văn hóa chúng tôi, đã có công trong việc phục hồi những từ ngữ chẳng may chết uổng. Kể từ Cách mạng tháng Tám những từ lịch sự như “ông, bà, ngài…” tự nhiên bị ác cảm, bị miệt thị, cứ như thể chúng thuộc về một thứ ngôn ngữ kém cỏi của riêng những giai cấp thống trị. Vô lý, và hơn thế, còn đáng buồn, có phải không ạ? Tôi hoan nghênh sự phục hồi những từ đó. Bản thân chúng vô tội. Để mất chúng, tiếng Việt của ta nghèo đi, trong khi nó cần được bổ sung càng nhiều cách diễn đạt càng tốt để trở nên phong phú hơn. Hay lắm, hay lắm! Vậy thì, thưa ông cán bộ, về phía các ông, các ông sẽ gọi tôi bằng gì?
- Chúng tui kêu các anh bằng anh chớ bằng cái chi?
- Chết chết, sao lại thế? Gọi như vậy đâu có được?! Như vậy là không công bằng.
Huỳnh Ngự trề môi, cười đểu:
- Bộ anh muốn tui kêu anh bằng ngài chắc?
Tôi nghiêm mặt:
- Nói về xưng hô, tôi yêu cầu phải có sự sòng phẳng. Chúng tôi đã lịch sự gọi các anh bằng ông thì về phía các anh tôi yêu cầu các anh cũng phải gọi chúng tôi bằng ông.
Huỳnh Ngự bật khỏi ghế. Y đã mất bình tĩnh.
Từ đầu cuộc nói chuyện, y chơi mèo vờn chuột với tôi, đến đây vai trò bị đảo ngược. Y cảm thấy nhục nhã bị tên tù giỡn mặt.
- A, anh láo! Vô tới nơi ni rồi mà vẫn còn láo! Anh... anh dám ví tui với anh hử? Anh dám đặt tui ngang hàng với anh hử? Tui là ai? Tui là người trông coi pháp luật, anh hiểu chưa? Còn anh là ai? Anh là kẻ vi phạm pháp luật. Rứa, hiểu chửa? Anh là can... can phạm, anh... anh... là thằng tù! Bình với chả đẳng! Bình đẳng cái con c... tui nè! Được, rồi tui sẽ cho anh biết thế nào là bình... bình... đẳng! Tui... tui sẽ vặn... vặn cổ anh!
Mặt tôi nóng bừng. Khi có quyền trong tay cái lũ hư đốn này coi người bằng nửa con mắt. Chúng nói leo lẻo về những người cách mạng hiên ngang trước mặt kẻ thù, nhưng không bao giờ chúng có can đảm thừa nhận rằng có những người anh hùng bị bỏ tù ở trước mặt chúng.
- Hãy bình tĩnh nghe tôi nói đã nào - tôi bình thản nhìn thẳng mặt y - Anh bảo tôi là can phạm ư? Đó mới chỉ là quan điểm của các anh. Của riêng các anh thôi. Chúng tôi có quan điểm của chúng tôi. Nó khác quan điểm của các anh, khác hẳn đấy. Theo quan điểm này, chính các anh mới là can phạm. Các anh phạm tội lợi dụng chức quyền tước đoạt những thành tựu của cách mạng. Các anh ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, chà đạp những quyền tự do dân chủ của nhân dân...
- Láo!
- Đừng vội nóng. Rồi đây lịch sử sẽ phán xét tất cả, chính anh sẽ được thấy sự phán xét đó, chính anh cũng sẽ hiểu ra ai đúng ai sai, ai vì nhân dân, ai phản bội nhân dân......
- Câm ngay! Câm ngay lập tức!
Huỳnh Ngự ré lên. Toàn thân y run bần bật. Trong phút chốc mặt y méo xệch, dãi nhểu ra nơi khóe miệng.
Tôi đâm lo. Thằng cha này mắc chứng kinh phong? Tôi sẽ phải làm gì nếu đột nhiên y lăn đùng ra? Trong trường hợp này phải luồn một cái thìa giữa hai hàm răng để bệnh nhân khỏi cắn phải lưỡi, người ta nói thế. Nhưng đào đâu ra một cái thìa bây giờ? Mà y thì đang lên cơn. Tệ hơn nếu y chảy máu não? Y có thể chết.
Tôi chẳng muốn làm chết một ai. Tôi không muốn trở thành nguyên nhân cái chết của cả thằng phải gió này.
Luống cuống vì không biết nên làm gì, tôi rót một chén nước đưa cho y.
Nhưng Huỳnh Ngự đã trấn tĩnh lại được. Y gạt mạnh tay tôi ra làm chén nước đổ tung tóe.
- Chờ đó! Cái... thứ... cái thứ anh còn... còn ở nơi ni còn lâu! Đồ... đồ... ! Nói trước cho... cho anh hay: cái thứ anh rồi sẽ... sẽ chết rục xương trong Hỏa Lò nầy! - cuối cùng, rồi y cũng nói được thành lời - Anh sẽ được biết thế nào là... là chuyên chính vô sản! Trong Hỏa Lò nầy đến thép cũng phải chảy, nói chi cái thứ ruồi muỗi như anh...
Toàn thân tôi run bắn lên trong một cơn giận không kiềm chế nổi. Giờ thì y có giãy đành đạch mà chết trước mặt tôi, tôi cũng mặc.
- Hừm, cái đó thì còn phải chờ xem!
- Không phải chờ lâu đâu. Láo đến như Hoàng Minh Chính mà vô đây còn phải quỳ mọp xuống xin tha tội kìa!
Y lấy ngón trỏ chọc chọc vào không khí:
- Đó, hắn ta quỳ chỗ nớ đó!
Tôi cười phá:
- Đâu, chỗ nào?
- Đó, chỗ tui chỉ đó!
Sao mà một quan chức như y mà ngây thơ đến thế! Chẳng lẽ y nghĩ tôi là đứa trẻ lên ba? Hay là trong đầu y có cái gì không ổn.
Tôi phá lên cười:
- Thú vị quá nhỉ? Vậy thì thưa ông, ông có thể vui lòng cho tôi được thấy cảnh tượng ấy một lần không? Một lần thôi! Tôi quen Hoàng Minh Chính. Tôi biết rõ tính cách anh ấy. Tôi không tin Hoàng Minh Chính lại có thể sa sút tinh thần như vậy. Một con sư tử quỳ gối trước một con chuột? Không, không thể có chuyện đó được.
- A, anh láo hử?! - Huỳnh Ngự kêu choe chóe - Tui... tui bẻ cổ anh bây chừ...
Y lại thở hổn hển, mặt tái nhợt.
Viên cai ngục hốt hoảng chạy vào, theo sau là một anh chàng búng ra sữa, hình như là thư ký của Huỳnh Ngự.
Tôi những tưởng chúng sẽ bổ tới để đánh tôi, khóa tay tôi, nhưng chuyện đó không xảy ra. Cả hai đứng sững, ngơ ngẩn nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt.
- Bây giờ các anh hãy nghe tôi nói đây! - hai tay khoanh trước ngực, tôi cao giọng diễn thuyết trước cái cử tọa ít ỏi trời cho - Các anh có tất cả: súng đạn, gông cùm, nhà tù. Còn chúng tôi, chúng tôi chỉ có một thứ: chính nghĩa. Các anh có thể thủ tiêu tôi, tôi biết, nhưng công khai giết tôi thì đến bọn chủ các anh cũng không dám. Nói thật đấy, cho ăn kẹo cũng không dám. Cứ hành hạ thân xác chúng tôi đi, đó là việc trong tầm tay các anh, bởi vì ở đây tôi không có gì để chống lại, nhưng bẻ gãy tinh thần chúng tôi thì các anh không làm nổi đâu, đừng hòng.
Huỳnh Ngự rít lên:
- Được! Được! Rồi anh sẽ biết thế nào là chuyên chính vô sản!
- Tôi đã nói rồi, không muốn nhắc lại nữa: dọa nạt tôi vô ích!
- Tui không thèm dọa anh!
Nổi giận với thằng tay sai này làm gì, tôi tự nhủ: Vô ích. Mà hùng hồn thuyết giáo như vừa rồi, mình không nhìn thấy mình đấy thôi, chứ nhìn thấy thì phải đỏ ửng mặt lên vì xấu hổ, phường tuồng ơi là phường tuồng!
Hai anh chàng cấp dưới của Huỳnh Ngự nhìn tôi bằng cặp mắt van lơn, thật lạ. Có vẻ như họ muốn đụng vào tôi, để nhắc nhở chứ không có ý gì khác.
- Vả lại, còn điều này nữa là điều anh chưa biết, và tôi thấy cần phải nói ngay để cho anh biết - tôi lạnh lùng tiếp - Đó là: ngay tại chốn này, ngay trong Hỏa Lò của các anh, tôi vẫn còn có quyền của tôi, cái quyền cuối cùng không kẻ nào tước đoạt nổi...
- Anh nói chi lạ? Anh? Mà còn có quyền? Hứ! Quyền, quyền cái con... Chỉ chúng tui mới là người có quyền, hiểu chưa, đồ...
Máu tôi lại bốc lên mặt:
- Lẽ ra tôi không nói thêm với anh nữa, vì anh lại dở giọng du côn, cho nên tôi phải nói cho anh hiểu...
- Quyền chi mô? Nói coi thử!
Khoanh tay trước ngực, tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ngây dại của y:
- Còn cái quyền này: tôi-tuyên-bố-không-nói-gì-với-anh-nữa!
- Tui... tui sẽ... gang họng anh ra, bắt anh phải nói!
Y lại hét, giọng đã đuối.
- Không ăn thua gì đâu - tôi dằn từng tiếng - Anh chẳng là gì đối với tôi. Đừng phách lối. Nhờ anh chuyển lời tôi tới bọn chủ của các anh, bảo họ cử người khác đến gặp tôi. Bằng không, tôi sẽ không nói gì hết. Các người cần nói chuyện với tôi, không phải tôi cần nói chuyện với các người.
Không thèm nhìn Huỳnh Ngự, tôi quay ngoắt, bước nhanh về phía cửa. Viên cai ngục lật đật chạy theo.
- Đưa tôi về xà lim! - tôi ra lệnh cho anh ta.
(Còn tiếp)
[1] Sau khi Liên Xô tan rã thành phố này được đổi tên thành Sant-Petersburg.
[2] Hình như kiến trúc của mọi xưởng đúc tiền đều giống nhau ở chỗ chúng có nhiều khu riêng rẽ, hoặc ở tính chất kiên cố trong xây dựng, cho nên chẳng riêng ở nước ta, ở nhiều nước khác cũng vậy, khi cần thiết người ta liền biến chúng thành nhà tù. Nhà tù Petropavlovsk trước kia là một Nhà Tiền thuộc Nha Ngân khố của nước Nga quân chủ. Nhà Tiền Hà Nội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946-1954 bị chính quyền chiếm đóng sửa lại thành trại giam. Nhà máy in Tiến Bộ được xây dựng trên nền của nhà tù này.
[3] Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngày toàn quốc kháng chiến.
[4] Kiểu áo cổ cứng phổ biến ở Trung Quốc. Tôn Trung-Sơn, hay Tôn Dật-Tiên (1866-1925), nhà cách mạng chủ trương chủ nghĩa tam dân. Tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc.
[5] Lệnh tập trung cải tạo được thực hiện theo Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội mang số 49NQ/TVQH do chủ tịch Trường Chinh ký ngày 20. 6. 1961. Nghị quyết này được coi như pháp lệnh, cho phép Bộ Nội vụ có toàn quyền bắt giam công dân không cần đến thủ tục tố tụng, mỗi hạn tập trung cải tạo được ấn định là ba năm. Khi hết một hạn, người bị tập trung cải tạo có thể và thường bị ở thêm hạn tiếp theo, và cứ thế kéo dài mãi. Trong cuốn này, nghị quyết nói trên thường được các nhân vật gọi là “luật”, theo cách hiểu đúng nghĩa, chứ không đúng chữ. Ở Trung Quốc, hình thức tập trung cải tạo đã có từ sau khi Đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được chính quyền ở toàn Hoa lục với hình thức “trường 7. 5”. Mãi tới tháng 2. 1980, nó mới được thể chế hóa bằng một chỉ thị của Quốc vụ viện, theo đó, bất cứ công dân Trung Quốc nào cũng có thể bị đưa vào trại cải tạo đặc biệt trong một thời hạn nhất định. Trong chuyện chính thức hoá hình thức trấn áp Chu Ân Lai rõ ràng đã đi sau Trường Chinh.
[6] Xin hiểu “đối tượng” theo nghĩa kẻ thù của Cách Mạng.
[7] Đỗ Nhuận (1922-1991), nhạc sĩ nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam, nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam hai khoá (từ 1958 đến 1983). Ông tham gia đấu tranh cách mạng sớm, từng bị thực dân Pháp giam ở Sơn La. Tác giả nhiều ca khúc cách mạng và kháng chiến.
[8] Bản dập thử để sửa lỗi của nhà in.
[9] Miguel Otero Silva (1908 - 1985), nhà văn, nhà báo, nhà chính trị. Những tác phẩm của ông gắn liền với lịch sử chính trị - xã hội của Venezuela.
[10] Cuốn Năm Người Im Lặng rồi vẫn được xuất bản trong năm 1968, khi tôi đã ở trong tù. Người quyết định cứ in cuốn sách, bất chấp thói thường thời ấy không dám in sách mang tên người bị bỏ tù, dù chỉ là tên người dịch, là Lý Hải Châu, giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa. Trong kháng chiến chống Pháp, Lý Hải Châu chỉ huy đội biệt động Sài Gòn - Gia Định, bị chính quyền chiếm đóng kết án tử hình, rồi giảm xuống chung thân và đày ra Côn Đảo.
[11] Nói “trong tổ chức”, tức là trong Đảng, là đảng viên.
[12] Thanh Châu, tên thật là Ngô Hoan, (1912-2007) một cây bút của tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy trước năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp làm báo Vệ Quốc Quân ở Việt Bắc, tác giả của nhiều truyện ngắn lãng mạn nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam thời thuộc Pháp.
[13] Người chơi đàn tranh trong cuộc hầu đồng, trong dàn nhạc lễ bái. Cung còn có nghĩa là ngôi nhà tráng lệ, cung điện. Cung văn đây được mọi người hiểu như nhà văn cung đình, bồi bút.
[14] Theo báo cáo đọc trong nội bộ của Lê Đức Thọ thì trong nhật ký tôi có ghi: “Cần phải bắn chết tất cả chúng nó, từ Hồ Chí Minh trở xuống”. Tôi không nhớ, và tôi cũng tin chắc rằng không ghi dòng nào như vậy. Một nhận xét rất xấu về Hồ Chí Minh thì có, chắc chắn có, nhưng thú thực, đến nay tôi không nhớ nổi mình đã viết gì trong nguyên văn.
[15] Có thể nói Trường Chinh là cha đẻ của tờ báo ảnh Việt Nam. Nó ra đời từ sáng kiến của ông. Cho tới năm 1965, Trường Chinh vẫn duyệt từng số báo ảnh, như khi tờ báo vừa ra đời, mặc dầu ông không có trách nhiệm đó. Sự đưa tổng bí thư duyệt báo trước khi ra không bị coi là kiểm duyệt, mà là để xin ý kiến. Cho tới nay ở Việt Nam, về mặt công khai, không hề có chế độ kiểm duyệt nhà nước.
[16] Cách gọi tắt các chiến trường: B - miền Nam Việt Nam, C - Cămpuchia, D - Lào, E - Thái Lan. Tại những chiến trường này đều có mặt bộ đội Việt Nam. Tại Thái Lan, trong thời kỳ còn chiếm đóng Cămpuchia, bộ đội Việt Nam chỉ vào sâu trong nội địa Thái Lan có một lần, chừng hai chục cây số.
[17] Nhà văn (sinh năm 1932) nổi tiếng với những tác phẩm Xung Đột, Mùa Lạc, Cha Và Con Và....
[18] Năm 1950, Hoàng Đạo vào Hà Nội dưới vỏ bọc đảng trưởng của một đảng Đại Việt bịa đặt. Tình báo Pháp hoan hỉ đón tiếp anh, rồi bí mật kiểm tra anh. Giữa đêm hôm khuya khoắt họ cho viên sĩ quan Phòng nhì, người được anh coi như bạn thiết, giả vờ lẻn đến nhà anh, báo cho anh biết anh sắp bị bắt. Viên sĩ quan khuyên Hoàng Đạo nên trốn ngay trong khi còn kịp. Hoàng Đạo cười ngất, nói anh cảm ơn, nhưng anh sẽ không trốn, anh đã dự kiến tình huống này, người Pháp đa nghi rồi sẽ ân hận, còn bây giờ anh muốn rủ ông bạn uống ly rượu chia tay. Bài toán thử của tình báo Pháp thất bại. Sau thái độ cứng rắn của anh, họ cho rằng họ nhầm và tiếp tục sử dụng anh.
[20] Vì hành động không cần thượng lệnh của Hoàng Đạo mà mấy chục năm sau người ta mới chịu công nhận chị Lộc (hay Lợi) là liệt sĩ thời chiến tranh chống Pháp.
[21] Một loại trà gói rất phổ biến trong những năm ấy. Trà gói loại sang có Ba Đình, nhưng cán bộ thích Hồng Đào hơn vì nó vừa rẻ tiền lại vừa ngon.
[22] Mao Trạch Đông, Mao Zedong hoặc Mao Tse-tung (1893-1976). Lãnh tụ Đảng cộng sản Trung Quốc. Chủ nghĩa Mao được nói tới nhiều bắt đầu từ sau cái chết của Stalin, chủ trương bạo lực cách mạng là con đường giải phóng duy nhất cho giai cấp vô sản.
[23] Thuốc lá điếu loại sang. Trên nó chỉ có Thăng Long. Dưới Điện Biên bao bạc còn có Điện Biên bao thường, rồi đến Tam Đảo (bao bạc và bao thường). Đứng hạng chót là Bông Lúa. Như vậy có nghĩa tôi được đối xử khá tốt, tất nhiên, để mua chuộc.
[24] Năm 1965 uy tín của tổng thống suốt đời Sukarno (1901-1970) xuống tới mức thấp nhất kể từ Hội nghị Bandung (khối các nước không liên kết) năm 1955. Đường lối thân Trung Quốc đã dẫn tới một cuộc tàn sát của phe hữu chống lại Đảng cộng sản và các lực lượng cánh tả. Phe quân sự do tướng Suharto giành được chính quyền năm 1965, lật đổ Sukarno, lên làm tổng thống năm 1967. Sukarno bị giam tại gia cho tới khi qua đời. Số người bị giết trong thời kỳ xảy ra cuộc binh biến là ở khoảng từ 300.000 tới 1.000.000, tuỳ theo những nguồn tin.Việt Nam rất lúng túng trong quan hệ với chính quyền mới của Indonesia. Ông Hồ Chí Minh nói ông và ông Sukarno kết nghĩa anh em. Qua báo chí ngoại quốc tôi không thấy ông Sukarno nói gì về chuyện kết nghĩa này.
[25] Năm 1927, Ngô Đức Trì học tại trường Đại học Phương Đông cùng với Bùi Công Trừng, Nguyễn Thế Rục, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Xích... Nhóm cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập tại Moskva, trong phòng ngủ của Nguyễn Xích, gồm 5 người nói trên. Lê Hồng Phong còn đang học Trường hàng không ở Leningrad, nên không có mặt. (Theo hồi ký Phải Sống Cho Đời Sống của Bùi Công Trừng). Tháng 10 năm 1930 Ngô Đức Trì được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương cùng với Trần Phú và Nguyễn Trọng Nhã.
[26] Tôi nhớ hồi Cách mạng tháng Tám, ở trại giam vùng tự do Nam Định công an gọi tù cũng bằng “đồng chí”, tù cũng gọi công an như vậy.