Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2022

Cương ơi, tạm biệt!

Vũ Thư Hiên

Tin Vũ Huy Cương qua đời đến với tôi không đột ngột, nhưng vẫn làm tôi choáng váng.

Không đột ngột vì lớp chúng tôi đã ở cái mốc được gọi là "đến cõi", tính theo tuổi thọ trung bình của người Việt, chẳng nay thì mai cũng rời bỏ thế gian này. Mà tuổi thọ của người Việt mình nào có cao là mấy, đến nỗi mới ngoài hăm nhăm Nam Cao đã ngán ngẩm kêu rằng mình đã ở bên kia cái dốc cuộc đời.

Choáng váng là vì dù sao mặc lòng Cương "đi" như thế cũng vẫn là nhanh quá, bất ngờ quá!

Không đột ngột còn vì mấy ngày trước đó, mặc dầu liên lạc điện thoại giữa châu Âu và Việt Nam khi nói được khi không, tôi đã biết Cương mệt nặng, có lẽ phải đi nằm viện. Tiếp theo là tin Cương được các bạn đưa đi cấp cứu. Chẩn đoán: xơ gan, suy nhược toàn thân, triển vọng xấu.

Ai cũng biết ở Hà Nội có mấy loại bệnh viện, sang có hèn có. Bệnh viện Thanh Nhàn, nơi Cương nằm, theo sự phân cấp của ngành y tế là bệnh viện cấp huyện, tức là nơi dành cho cho dân thường và dân nghèo, một thứ nhà thương làm phúc hiện đại, không miễn phí, nhưng giá rẻ. Nó không phải là nơi dành cho tầng lớp trên, cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương, được săn sóc theo cách ưu tiên ưu đãi. Ở một bệnh viện như thế phương tiện kỹ thuật đương nhiên nghèo nàn cho dù có thầy thuốc tốt.

Thế nhưng, đã được đưa vào bệnh viện rồi, đã chữa chạy rồi, vậy mà chỉ mấy ngày sau Cương đã "đi". Choáng váng là vì thế. Biết rồi, mà vẫn sững sờ.

Về sau này các bạn mới cho tôi biết họ không thể chọn cho Vũ Huy Cương một cái gì tốt hơn. Là dân thường, còn tệ hơn dân thường nữa, là phần tử bất hảo dưới con mắt nhà cầm quyền, Cương tất nhiên không có tiêu chuẩn vào nằm các bệnh viện tốt.

Các bạn cho biết thêm: mặc dầu bây giờ đã là thời kinh tế thị trường, có tiền mua tiên cũng được, cứ mạnh chi là xong tuốt, khổ nỗi Vũ Huy Cương lại là trường hợp đặc biệt, chi bao nhiêu thiên hạ cũng lắc. Họ sợ. Thôi thì đành để Cương nằm đấy vậy. Quả nhiên, khi Vũ Huy Cương bị đứt mạch máu đường tiêu hoá, bệnh viện Thanh Nhàn đã không cứu nổi anh. "Trường hợp như thế mà sau khi chẩn đoán không chuyển ngay bệnh nhân tới bệnh viện có phương tiện kỹ thuật tốt hơn để cứu chữa là giết người", một bác sĩ ở Paris đã có nhiều dịp về Việt Nam, rất hiểu biết cung cách điều trị ở các bệnh viện phía Bắc, kết luận như vậy.

Âu cũng là mệnh trời. Cái số của Cương, nói tóm lại, là số ăn mày.

Bằng con đường nào không rõ, Phan Thị Trọng Tuyến cũng biết tin Vũ Huy Cương bị bệnh nặng cùng lúc với tôi. Chị cuống quýt gửi e-mail cho tôi: "Chúng ta có cách gì giúp anh Cương không? Tội nghiệp quá, anh ấy chỉ có một mình!". Trái tim phụ nữ bao giờ cũng thế đấy, đầy tình thương. Cương thì lại kỵ sự thương hại lắm. Tuyến không biết rằng tuy Cương không vợ không con, quanh năm suốt tháng lọ mọ một mình. Bù lại, Cương được rất nhiều người yêu mến. Những ngày anh nằm viện, bè bạn đến thăm đông đến nỗi Mạc Lân, một tên “xét lại” lọt lưới, phải đứng trấn ở cửa phòng cho từng người vào một, kẻo Cương không còn không khí để thở.

Tuyến mới quen Cương cách đây vài năm, trong một chuyến về thăm quê hương Bến Tre, từ đó chị làm một cuộc hành hương nhớ đời ra đất Bắc. Nhớ đời là vì sau chuyến đi này người ta cấm cửa, không cho vợ chồng Tuyến về nữa. Duyên do là nhờ Vũ Huy Cương xăng xái móc nối, chị được gặp hầu hết các nhân vật Bắc Hà mà chị muốn gặp, để rồi thở phào:

- Sĩ phu Việt Nam còn đó. Tôi đã gặp họ.

Trước tin Vũ Huy Cương nằm viện là một tin vui. Anh vừa bán căn phòng nhỏ bé và xập xệ, vốn là một gian bếp trong ngôi nhà số 52 phố Bà Triệu, của cha mẹ để lại chứ không phải do nhà nước cấp. Cầm hơn chục cây vàng trong tay (giá nhà ở khu trung tâm thành phố bây giờ cao lắm), anh đạp xe đi khắp nơi, ngó nghiêng mọi chỗ, rồi quyết định tậu một miếng đất ở ngoại thành, là nơi phong cảnh hữu tình, lại đặc biệt yên tĩnh. Ở đấy mà ngồi viết thì không chê vào đâu được. Bạn bè mừng cho anh. Mọi người đã nghĩ tới chuyện góp tiền làm một bữa tiệc tân gia thật linh đình.

- Trời đất ạ, thằng Cương mà xây nhà thì thánh thật! – họ thán phục kêu lên trong các thông tin mà tôi nhận được.

Đó là điều không ngờ nhất ở Vũ Huy Cương, kể từ thời chúng tôi mới quen nhau, tính đến nay đã ngót nghét nửa thế kỷ. Chẳng có gì dính được vào anh một cách chắc chắn, đừng nói tới một ngôi nhà.

Trong mắt tôi, từ ngày ấy, cho đến tận bây giờ, Vũ Huy Cương là một lãng tử. Không phải lãng tử thời thượng, lãng tử theo mốt, mà lãng tử đích thực, lãng tử thâm căn cố đế. Tóm lại, anh là một con người kỳ quặc, chẳng chú ý gì tới bản thân, thứ người không phải của trần thế. Lúc nào cũng lôi thôi lếch thếch, mái tóc bơ phờ rủ xuống bộ mặt nhàu nát, và kỳ lạ thay, trên bộ mặt phong trần lang bạt, "trải mùi đời gót rỗ kỳ khu" của anh lại lấp lánh một đôi mắt trẻ thơ. Cái nét này còn mãi ở anh, làm cho anh trở thành không có tuổi. Gọi anh bằng cụ cũng được, bằng ông cũng phải, bằng anh dường như có vẻ đúng hơn, hoặc đơn giản bằng tên trống không là hợp nhất. Giao du với đủ mọi thế hệ, ở đâu anh cũng là người bằng vai phải lứa.

Nhóm cầm bút chúng tôi theo cách "ngưu tầm ngưu mã tầm mã", như các "phó tóm" nhận định gồm: Hứa Văn Định, Mạc Lân, Lê Bầu, Vũ Bão, Xuân Khánh, Châu Diên, Dương Tường, Bùi Ngọc Tấn, Phù Thăng, Hoàng Tiến, Nguyễn Trí Tình, Nguyễn Dậu, Vũ Huy Cương, Nguyễn Hội... Với tất cả sự khác nhau về thành phần giai cấp (!) và cá tính, lũ chúng tôi thảy đều yêu quý Vũ Huy Cương, chính là vì cái chất trẻ thơ ấy. Đến nỗi nhiều năm về sau tôi cứ yên trí Vũ Huy Cương phải kém tụi tôi vài tuổi, thuộc lớp đàn em. Thành thử chúng tôi thường lên mặt kẻ cả với Cương, tệ thế. Cương không lấy thế làm phật ý, anh cười hì hì, nhường luôn cho chúng tôi vai đàn anh. Trong bộ lạc những kẻ bất trị, Cương hiền lành nhất, không bao giờ biết giận. Chúng tôi thân yêu nhau, bởi sự giống nhau. Chúng tôi giống nhau ở chỗ dám nghĩ bằng cái đầu của mình, là thứ hoàn toàn không được phép trong thời trị vì dai dẳng của hai đồng chí trên hết các đồng chí là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Đến khi Lê Đức Thọ biệt danh Sáu Búa thao túng chính trường thì cả bọn tôi, kẻ trước người sau, đều bị bị ghi vào sổ đen như những phần tử bất mãn, tệ hơn, như những kẻ chống đối. Thằng cha Sáu Búa này rất kỳ cục. Hắn cho rằng cán bộ cách mạng tỏ ra bất đồng với đường lối hay chính sách của đảng là chống lại chính hắn, kẻ nắm cương vị trưởng Ban tổ chức trung ương đảng. Đầu óc thiển cận, Sáu Búa quy mọi bất đồng với đảng của hắn chỉ là do không được đãi ngộ xứng đáng, không được lên lương, hoặc không được cấp một cái phiếu mua xe đạp. Cái nhìn nhục mạ con người như thế kéo dài nhiều năm. Đáng ngạc nhiên là vào thời kỳ rất đen tối ấy, không hiểu vì lẽ gì mà Vũ Huy Cương lại được đặt ngoài tầm chú ý của những kẻ cầm dùi cui coi sóc xã hội. Có thể, đôi mắt trẻ thơ của anh đã đánh lừa được tinh thần cảnh giác của đám mật vụ đông đảo dưới quyền Sáu Búa chăng? Chỉ biết trong một thời gian dài anh cứ nhởn nhơ, cứ tung tẩy, trong khi phần lớn chúng tôi đều bị rình rập, bị răn đe đủ kiểu.

Ấy thế mà đùng một cái, vào một ngày đẹp trời, Vũ Huy Cương bỗng biến thành một tên phản động chính hiệu con nai vàng, lại được liệt vào loại nguy hiểm nữa, bị bỏ tù hẳn hoi, tuy không có án, khi ra tù vẫn bị coi là có "tiền sự".

Cương thay đổi hẳn từ ngày đó. Thay đổi đến không ngờ. Từ một người ghét mọi thứ dính dáng tới chính trị, anh trở thành người đối lập không che giấu, ngang nhiên đối mặt với nhà nước chuyên chế.

Anh không chịu giảng hoà với đảng mà anh đi theo từ tuổi thiếu niên, mặc dầu đã nhiều lần đảng tỏ ra muốn giảng hoà với anh. Trả lời phỏng vấn của vài tờ báo tiếng Việt ở nước ngoài, anh nói toạc lập trường của mình. Anh không oán hận cái đảng đã khi không bỏ tù anh không cần chứng cứ, không cần dựa vào điều luật nào, cái đảng của các "bố già" dưới những danh xưng gia trưởng viết hoa: Bác, Anh Năm, Anh Tô, Anh Ba, Anh Sáu... Với cái đảng ấy anh khẳng định một điều: phải xoá bỏ nó. Tất nhiên, thời thế đã khác, đã là giai đoạn khác, nhà cầm quyền bô bô cái miệng muốn hội nhập với thế giới văn minh không còn có thể tha hồ bỏ công dân vào tù như nhặt cua bỏ rọ nữa. Tức lắm đấy, khi thấy anh toang toác nói ra những điều người khác có nói cũng phải thì thào, nhà cầm quyền vẫn phải làm ngơ. Đành ra vẻ người lớn, chép miệng, lắc đầu: "Chấp nó làm gì, cái thằng khùng ấy mà!".

Nhưng để anh cứ nhơn nhơn như thế cũng không được, họ sai công an gọi anh đi "làm việc", khi hằng ngày, khi tuần vài buổi, cho tới tận ngày anh chết. Buồn cười nhất là khi anh từ chối không đến "làm việc" ở đồn công an nữa, anh bảo tôi già rồi, sức khoẻ tôi kém, tôi không đi bộ đến chỗ các anh được đâu, thì các "đồng chí" công an bèn "xin phép" đến làm việc tại nhà anh. Núi không đến với Mahomed thì Mahomed đến với núi vậy. Thế là căn phòng rách nát của anh biến thành công sở, đúng giờ đi làm các "đồng chí" công an đến, hết giờ họ cắp cặp ra về. Sống trong cảnh như thế hằng năm trời, Vũ Huy Cương không điên kể cũng giỏi.

Tôi hình dung ra những buổi làm việc ấy. Các "đồng chí" mặt lạnh tanh giở sổ tay ghi ghi chép chép, còn Cương thì thay vì khai báo, tự kiểm điểm lỗi lầm, anh đặt ra những câu hỏi làm họ cứng họng, câu nào cũng kết thúc bằng một công thức lễ phép: "Tôi thiển nghĩ vậy, không biết các vị nghĩ thế nào?", "Có phải đúng là như thế không ạ?"

"Làm việc" theo kiểu đó mãi cũng chán, anh uống rượu cho khuây để đến giờ "làm việc" thì cho rượu nói thay anh. "Nói với tụi nó chán lắm. Cứ như nói với những hồn ma từ thế kỷ trước hiện về ấy!". Sai lầm lớn nhất của anh là uống rượu. Rượu có làm anh lờ đi quên đi sự đời chó má, nhưng rượu dần mòn giết chết anh. Anh đi vào vết xe cũ của Văn Cao, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng...

Cần phải nói rõ thêm chuyện Vũ Huy Cương muốn xoá bỏ đảng cộng sản. Cái đó không xuất phát từ lòng căm thù, mặc dầu đảng cộng sản đã gây tội ác với anh. Không có sự thù hận ấy trong anh. Anh không có khả năng căm thù. Nhưng anh có đầy đủ khả năng ghét bỏ và khinh bỉ. Anh đi tới kết luận như thế sau khi nghiền ngẫm nhiều năm. Đó là một kết luận lý tính. Anh hiểu rõ rằng trong việc đảng thẳng tay đàn áp những công dân dám nghĩ khác đảng không hề có sự lầm lẫn nào. Những người bị bắt không oan, mà do một chủ trương được thực hiện trong một đường lối nhất quán: bằng mọi giá triệt hạ đến cùng trí tuệ không chịu bó thân dưới quyền lực độc tôn. Khi anh khuyến khích các nạn nhân của chế độ đòi được giải oan, anh nhấn mạnh: phải coi đó là biện pháp tố giác tội ác, chứ không phải đặt niềm tin vào sự sáng suốt may ra còn lại chút nào ở nhà cầm quyền cộng sản. Anh nói:

- Nếu nó giải oan cho ta, có thể nó còn xin lỗi ta nữa, rồi thì sao? Ngày mai nó lại gây tội ác khác, ở nơi khác, với người khác. Không được, không chơi, phải xoá bỏ gốc rễ, tìm đến cội nguồn của nó mà diệt đi, chỉ có thế mới có cuộc sống yên bình cho nhân dân.

Tôi ở tù chín năm, Cương ở tù sáu năm cộng thêm ba năm lưu đầy, lúc gặp nhau tôi gặp một Vũ Huy Cương gầy còm, với nụ cười cố hữu phô hàm răng cửa có mấy lỗ thủng. Nhưng đôi mắt thì vẫn như xưa, ngây thơ và hóm hỉnh. Anh tất tưởi chạy vạy, làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Có thời anh cặm cụi dịch các bài báo, làm các tổng thuật từ các tài liệu tiếng Nga cho Viện Thông tin Khoa học Xã hội. Nhân tiện đây cũng xin cảm ơn các bạn ở Viện này đã đỡ đần chúng tôi rất nhiều trong những ngày khốn khó. Không riêng Vũ Huy Cương, mà Nguyễn Kiến Giang, Phùng Mỹ, Hoàng Thế Dũng, Nguyễn Lộc, Trần Thư, và cả tôi nữa, đều sống được, tuy lay lắt, nhờ công việc dịch mà các bạn giao cho. Nghề chính nuôi Vũ Huy Cương và Trần Thư một thời gian dài là nghề in nhãn hiệu trên bao bì giấy, bao bì chất dẻo, in quảng cáo, in nhãn hương, in danh thiếp, v.v. Vất vả lắm, nhưng vẫn cười tươi, như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Khổ đấy, thiếu đấy, nhưng không bao giờ Vũ Huy Cương nhận một đồng tiền của đảng, dù dưới dạng lương hưu mà đảng hạ cố ban cho.

Tôi được tin anh mất bên bàn máy tính ở Barcelone, trong một tiệm cybercafe rất hiện đại nằm dưới tầng hầm một ngôi nhà cổ. Chung quanh tôi là những người trẻ tuổi thuộc một thế giới khác thế giới của Vũ Huy Cương, thế giới của những người bị giết chết khi còn sống. Là những con người của loài người bình thường, những chàng trai và những cô gái chăm chú nhìn vào màn hình, tay rào rào gõ phím. Chẳng ai chú ý tới tôi, cũng ngồi đấy, với họ, ở ngay bên họ, bỗng bất động trước bàn máy, nước mắt ròng ròng.

Người báo cho tôi về cái chết của Vũ Huy Cương là một nhà văn không tên tuổi. Anh cũng thuộc về lớp kẻ sĩ không chịu cúi đầu giữa đám đồng loại được dạy dỗ đi bằng đầu gối. Anh không được in, và anh cũng chẳng cần in, do đó mà ít người biết đến tên anh. Bức thư điện của anh ngắn, nhưng nói đủ điều cần nói. "Thế là Cương đã bỏ chúng ta mà đi rồi, thằng bạn không phải của riêng chúng ta, mà của tất cả mọi người, của cả và thiên hạ. Nó đã sống, trong sáng và ngớ ngẩn như một hạt kim cương". Kim cương trong sáng thì rõ rồi, nhưng tại sao lại ngớ ngẩn?

Rời máy tính, tôi bước ra khỏi tầng ngầm. Trong ánh sáng của một ngày hửng nắng hiếm hoi của tiết đông, cô gái khoả thân vĩ đại với mảnh vải che hờ hững vẫn nằm dài trên tấm biển quảng cáo cho bãi tắm nơi một mùa hè đã qua. Bên dưới cô, lối vào ga xe điện ngầm Zol là những tốp du khách nhộn nhạo, hớt hải chạy tới chạy lui, chớp ảnh loang loáng dưới chân tượng một vĩ nhân mà tôi không biết tên, chắc chắn không phải Cervantes quen thuộc; ầm ầm xe City Tours, xe taxi đủ mọi nhãn hiệu chen chúc nhau đón khách đổ khách... Bên cạnh chỗ tôi đứng là hai bà mẹ trẻ với hai chiếc xe nôi, trong đó có hai đứa trẻ ngủ say. Hai bà mẹ liến thoắng thứ ngôn ngữ nhanh nhất thế giới mà tôi không hiểu. Tất cả những cái đó giống như một sự vô lý đến cùng cực. Sự mất mát bên cạnh sự sinh thành. Nỗi đau ở tôi, niềm vui nơi người khác.

Ở Madrid, tôi bỏ công đi tìm chiếc ghế đá mà Mikhail Koltsov đã ngồi trong một đêm nội chiến Tây Ban Nha, nhưng không thấy nó. Koltsov viết: "Buổi tối đẹp tuyệt, có trăng trên đầu, có tiếng dương cầm thánh thót bay ra từ một căn phòng trên lầu cao, có gió xào xạc trong tán lá công viên... Bỗng một tiếng đạn đại bác nổ gần, rồi tiếng thứ hai, thứ ba... Người ta xô đẩy nhau chạy rầm rầm, gió ngừng thổi, tiếng dương cầm tắt nghẹn. Tôi vừa đứng lên thì một người nào đó đã xô tôi ngã sấp. Tôi lồm cồm bò trên mặt đất bụi bặm, tay sờ soạng tìm cặp kính. Không có kính làm sao tôi nhìn được? Tôi tức điên người, tôi nguyền rủa cái cái anh chàng đã xô tôi ngã, tôi nguyền rủa cả thế gian này, tôi nguyền rủa tất: cả quân Cộng hoà lẫn quân Phát xít. Đánh nhau thì đánh, cũng phải chừa một đêm đẹp thế này ra chứ!". Koltsov không chết trong chiến tranh Tây Ban Nha, nơi ông tới với tư cách phóng viên chiến tranh cộng với tư cách chiến sĩ quốc tế ủng hộ nền Cộng hoà chống chính quyền độc tài Franco. Ông chết ở nơi ông không ngờ nhất – trong một trại tập trung ở Kolyma, tận vùng Đông Bắc Siberia xa xôi. Khi ấy ông là tổng biên tập báo Sự Thật. Về sau này người ta phục hồi cho nhà văn Koltsov cái sinh mệnh chính trị của ông (có một thứ sinh mệnh tên là như thế). Người ta còn in lại các tác phẩm của ông nữa, người ta tuyên bố ông vô tội. Mà thật vậy, ông chẳng định chống ai, bênh ai, là người cầm bút ông viết cái mà ông thấy, viết ra điều ông nghĩ, thế thôi.

Vũ Huy Cương rất thích cuốn Nhật Ký Tây Ban Nha của Mikhail Koltsov, thích lắm. Anh mượn tôi cuốn đó, nói rằng thể nào anh cũng phải dịch nó, và giữ rịt, đòi mấy cũng không trả. Tôi đã thấy những trang đầu của bản dịch không bao giờ xong ấy, nó nằm trên bàn viết, trong đống công việc dở dang của anh. Cũng như Koltsov ở Liên Xô những năm 30, bất ngờ anh bị tống vào tù, năm 1968. Không biết những trang ấy bây giờ đâu, có còn không, hay chúng vẫn nằm mốc ở kho vật chứng lộn xộn của thời Lê Đại Mạt?

Tôi biết Vũ Huy Cương có một số bản thảo truyện ngắn, truyện dài, bút ký, kịch bản phim..., khá nhiều đấy, nhưng không biết số phận chúng ra sao. Vũ Huy Cương có tính thẹn thò, chứ không phải sợ hãi, khi nói về những sáng tác của mình (mà có sợ hãi cũng phải thôi, chúng đâu có thuộc dòng chính thống, người ta mà biết thì rách việc lắm). Bạn thân nhất của Vũ Huy Cương là Hứa Văn Định thì ngược lại, anh thường lễ mễ bê hàng chồng bản thảo ra khoe với bạn bè, rồi gật gù, với một nét buồn trong mắt: "Sau này không in thì đem bán cân cũng ối tiền". Tôi cũng không rõ số phận những bản thảo của Hứa Văn Định thế nào. Tôi đã được đọc một số trang trong những chồng giấy ấy, và bắt gặp những đoạn tuyệt hay, có thể sánh với những cây bút bậc thầy của thế giới. Anh tài ba mà mệnh yểu. Năm nay đã là giỗ lần thứ năm Hứa Văn Định rồi.

Sau khi ở tù về, Vũ Huy Cương hoàn toàn không đụng đến việc viết lách. Tôi không thấy anh nói về một dự định sáng tác nào. "Văn chương là cái vô tích sự nhất trần đời", anh buồn rầu nói với tôi như vậy, mà không phải một lần. Điều tôi biết chắc là anh để toàn bộ thời gian mà anh có vào việc soi rọi cho quần chúng cái tai hại của chế độ đảng trị, nói tóm lại anh tiếp tục chống đảng, lần này là chống thật sự, chống mạnh mẽ, chống quyết liệt.

"Trước khi là nhà văn, hãy là con người cái đã!", anh càu nhàu nói với những ai khuyến khích anh cầm bút. Những người già thận trọng lảng tránh anh. Nhưng lớp trẻ xán lại gần anh, muốn tìm ở anh những kinh nghiệm nhìn đời không phải ai cũng có.

Không có công ăn việc làm, bị công an quấy nhiễu, lại thêm bệnh tật hành hạ, có lúc tưởng chừng dù có sắt đá đến mấy anh cũng sẽ phải buông xuôi tất cả để sống nốt những ngày tàn. Nhưng anh không đầu hàng. Thậm chí, trong một mức độ nào đó, anh rắn đến nỗi trở thành cứng quèo trong suy nghĩ. Không ít người nhận xét anh có những quan điểm cực đoan trong cuộc đấu tranh đòi hỏi cách tiếp cận nhiều lý tính, những thủ pháp mềm dẻo. Mà thực tế cuộc sống ở Việt Nam thì đầy rẫy nghịch lý, đầy rẫy những mâu thuẫn chồng chéo, phải tìm cách đi vòng vèo miễn tới đích, không thể giải quyết một cách thẳng băng mà được. Xấu rành rành đấy, mà xem kỹ vẫn còn một chút tốt có thể dùng. Kẻ đối nghịch xem kỹ vẫn tìm được một chút gì không đến nỗi quá xấu trong sâu thẳm tâm hồn để có thể lôi kéo về với mình. Bạn đấy, mà về mặt nào đó lại mang chất đối địch, nhưng gây ra cản trở việc mình làm. Lôi thôi lắm.

Cuộc đấu tranh thực tế nào cũng vậy, khác cuộc đấu tranh trong thính phòng rất nhiều. Trong sự khẳng định một lập trường bất di bất dịch, không khoan nhượng với một chế độ không biết tôn trọng con người, anh không chỉ va vấp với chính quyền, mà cả với bạn bè. Vài người trở nên lạnh nhạt với anh bởi những lời nhạo báng nhằm vào họ. Chẳng hạn, khi thấy từ nhà tù trở về Bùi Ngọc Tấn im lặng trong thời gian dài, không gần gũi anh em, dường như lảng tránh cuộc đấu tranh cho dân chủ hoá đất nước, anh giễu cợt Tấn, gọi Tấn là thằng núp váy vợ. Anh không hiểu, hoặc không chịu hiểu, rằng những người muốn thay đổi thể chế hiện hành, tất cả, không trừ ai, đều là những chiến sĩ đơn độc, tự mình phải tìm lấy vũ khí, tự mình phải chọn lấy cách đánh. Anh không biết rằng Bùi Ngọc Tấn đã suy nghĩ rất nhiều để chọn cách làm việc có hiệu quả nhất, thích hợp nhất với khả năng của mình. Và kết quả là Chuyện Kể Năm 2000 ra đời. Tác dụng của nó thế nào ta đã biết. Đến lúc này thì Vũ Huy Cương hết sức vui mừng. Anh quên bẵng rằng có lúc anh đã mạt sát bạn, quên một cách hồn nhiên, như thể chưa từng nói ra những lời như thế. Đi đâu anh cũng khoe Chuyện Kể Năm 2000 của bạn. Nhưng đã muộn. Bùi Ngọc Tấn không tha thứ cho anh vì những lời xúc phạm nặng nề phát ra từ miệng người bạn thiết. Chỉ có cái chết của Vũ Huy Cương mới giảng hoà được hai người với nhau. Được tin bạn mất, từ Hải Phòng Bùi Ngọc Tấn hộc tốc đáp tàu đêm đi Hà Nội để đưa bạn đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Anh không thể không có mặt trong giờ ly biệt với người bạn mà trong đáy sâu của tâm hồn lúc nào anh cũng yêu thương.

Trên quan tài ông già 67 tuổi Vũ Huy Cương, bạn bè đặt lên một vòng hoa trắng, vòng hoa của trinh tiết. Không nhà cửa, không vợ con, anh đến và đi khỏi thế gian như một khách trọ. Cái khác một khách trọ bình thường là ông khách này tự khoác vào mình rất nhiều trách nhiệm với nhân quần. Lẽ sống của anh là lo lắng cho mọi người. Thấy anh cứ sống cô đơn mãi, thương quá, không lần nào nói chuyện với anh mà tôi không giục anh lấy vợ. Anh cười hì hì:

- Công an nó cũng bảo tao thế đấy! Bây giờ là mày. Lấy vợ để làm khổ vợ à? Đến tuổi thi hoa hậu Hoàn Vũ rồi mà còn bày trò lấy vợ! Bố khỉ!.

Hồi còn trẻ, Vũ Huy Cương đã có một tình yêu với một cô gái. Cô xinh đẹp, duyên dáng, có giọng nói như hát. Chúng tôi đã mừng cho anh. Nhưng rồi cuộc tình ấy tan, một cách trần tục nhất – cô ta chọn người khác, có "tiền đồ" hơn anh, là đảng viên, lại có cấp uỷ cao, có chức vụ cao. Anh này cũng quen chúng tôi, cũng có thể coi anh là bạn được, nhưng quen sơ, chứ không thân. Thế rồi vật đổi sao dời, thế nào mà rồi anh lại cũng ở cùng phía với chúng tôi, cũng bị bắt về tội "chống đảng". Cuối cùng, sau nhiều năm, anh cũng được tha, nhưng không còn nhà để mà về. Cô gái xinh đẹp đã đóng sập cửa lại, không cho anh vào ngôi nhà vốn dĩ là nhà anh. Sau này cô gái lại lấy chồng, một người có tên tuổi, có quyền thế. Còn người chồng cũ, chán nản đến cùng cực trước sự phản bội trắng trợn và tàn nhẫn, trở thành gần như mất trí, lang bạt hết nơi này tới nơi khác. Có thời anh đến tá túc ở nhà Vũ Huy Cương. Hai người đàn ông có chung tình yêu với một người đàn bà đùm bọc nhau, săn sóc nhau. Như hai con gấu bị thợ săn dồn đuổi, họ chui vào hang run rẩy liếm vết thương cho nhau.

Từ đó tôi không thấy Vũ Huy Cương có mối tình nào nữa, cho tới khi anh vào tù, mà ở trong tù thì còn có thể nói tới mối tình nào? Ra tù, mặc cho bè bạn thúc giục, anh vẫn lẳng lặng độc thân, cơm niêu nước lọ. Anh hài lòng với cuộc sống lấy bè bạn thay cho gia đình. Lúc nào cũng hài hước, anh tới đâu là ở đó rộn rã tiếng cười. Lang thang nhà này qua nhà khác, ở nơi nào anh cũng được coi là khách quý. Thời gian ủng hộ anh. Thế giới thay đổi làm cho bàn tay sắt của đảng buộc phải nới lỏng trên cổ nhân dân bị trị, người ta dần bớt sợ hãi những con ngoáo ộp đủ loại do cùng một bàn tay nhào nặn. Những cánh cửa trước kia khép chặt vì khiếp đảm trước cả khủng bố trắng lẫn khủng bố xám nay lại mở ra chào đón anh.

Những năm cuối đời anh có thêm nhiều bạn bè ở nước ngoài. Chỉ sau một lần gặp gỡ, hai vợ chồng Trọng Tuyến đã coi Vũ Huy Cương như ruột thịt. Họ lo lắng cho anh, chăm sóc anh, coi anh như bạn chí cốt đã nhiều năm quen biết. Cương luôn luôn khuyến khích Tuyến viết: "Viết đi chứ. Cuộc đời đẹp thế này mà không viết về nó thì hoài lắm lắm đấy!". Ấy là anh nói về cuộc sống nói chung, không phải dành cho những người như anh. Tuyến thường gửi tiền về giúp Cương. Gửi mà lo lắng: "Liệu mình gửi thế này mà chúng nó biết thì anh Cương có bị làm phiền không? Họ sẽ buộc anh ấy tội "nhận tiền của bọn phản động ở nước ngoài để chống phá cách mạng" chưa biết chừng?".

Khốn nạn đến thế đấy. Người ta quý nhau không được, thương nhau không được, đánh bạn với nhau cũng bị coi là hành động chính trị. Thử hỏi có sự phi lý nào như thế không? Có chế độ nào lố lăng đến thế không? Dưới lăng kính mác-xít của đám lãnh tụ lục lâm, nhân quần chỉ có thể chia làm hai loại: những kẻ theo ta và những kẻ chống ta. Số tiền sau chót Tuyến gửi về cho Cương để chữa bệnh chưa tới nơi thì Cương đã qua đời, chị buồn rầu cho tôi biết như vậy. Nhưng mà thôi, tiếc thương thì tiếc thương, chứ cái chết nhiều khi còn dễ chịu hơn cái sống. Vũ Huy Cương chịu đựng như thế đã quá đủ cho một cuộc đời.

Có thể kể thêm một người nữa là Tưởng Năng Tiến. Vũ Huy Cương chỉ biết anh là nhà văn hóm hỉnh với cái tên dài thòng "Anh Bạn Làm Ở Nhà Thương Điên". Đọc truyện ngắn Nhà Có Hoa Anh Đào của Tưởng Năng Tiến, Vũ Huy Cương khóc. Anh viết cho tôi: "Cái tâm của người Việt Nam mình đẹp quá! Tưởng Năng Tiến là một ngòi bút thật sắc sảo. Viết về tình yêu đất nước được như thế là hiếm lắm đấy. Mình có đọc một số bài viết ở hải ngoại. Hình như ở ngoài ấy những người mắc bệnh Quốc-Cộng, bệnh Nam-Bắc, cũng còn khá nhiều, phải không? Làm sao cho họ hiểu rằng ở nước ta bây giờ chỉ có một sự phân biệt thôi: ấy là sự phân biệt giữa người Việt và quỷ Việt. Bệnh Quốc-Cộng, bệnh Nam-Bắc, đều là bệnh tưởng, nhảm nhí hết!". Vũ Huy Cương không biết rằng nhiều lần anh nhận được tiền chuyển về để anh sống và làm việc chính là từ Tưởng Năng Tiến, và những bạn chủ trương tờ Nhân Văn trước đây. Tưởng Năng Tiến không muốn ai biết về sự giúp đỡ của anh đối với "anh em" ở trong nước. Tôi phải xin lỗi anh về việc tiết lộ không xin phép này. Tôi tiếc cho Vũ Huy Cương cho tới khi qua đời vẫn không biết Tưởng Năng Tiến chính là "Anh Bạn Làm Ở Nhà Thương Điên", mà anh thường hỏi thăm và gửi lời cảm ơn. Bây giờ anh có thể biết được rồi, nếu như có sự tồn tại một thế giới bên kia, người ở đó đi lại không cần visa.

Điều tôi không biết, mà tôi lại rất muốn biết, là những người tham gia vào việc hành hạ Vũ Huy Cương trong suốt cuộc đời anh, có khoái trá lắm không khi được tin anh mất? Tôi không dám chắc là tất cả họ đều khoái trá. Con người đi vào đường danh lợi đôi khi chợt thấy trong hành trang quên chưa quẳng đi của mình một thứ khá bất tiện là lương tâm. Lúc ấy anh ta buộc phải lựa chọn: hoặc quẳng nó đi, hoặc lắng nghe nó. Bằng chứng là một số người được trao nhiệm vụ hành hạ anh về sau này đã trở thành bạn anh. Tôi không kể trường hợp Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà. Họ là ngoại lệ. Từ hai cán bộ cao cấp của Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội Vụ, quyền sinh quyền sát trong tay, họ đã đi rất xa trong sự phản tỉnh về những hành động phi nhân nhằm vào những người thật sự cách mạng. Dưới hình thức lịch sự, thậm chí lễ phép, họ bóc trần sự thật về hành động phản trắc của hai "lãnh tụ" lưu manh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, cũng tức là việc làm của đảng, bởi vì đảng chưa từng lên án hành động đó. Họ đã dám mất rất nhiều để được sống trung thực, như những Con Người, viết hoa. Cương có gửi cho tôi hai bức ảnh anh chụp chung với hai người bạn hôm trước còn ở vị trí đối địch. Nhìn họ trong ảnh tôi thấy trên mặt họ không có một chút gì của sự hằn thù ắt phải có giữa những tên bắt người và người bị bắt. Cương viết dưới bức ảnh: "Chúng ta ngày một đông. Đừng sốt ruột vì người này hay người khác chưa đi với mình. Họ sẽ đến với ta, không hôm nay thì mai". Trong Cương có những cảm xúc ngược chiều nhau. Lúc anh cứng quèo, lúc anh rất mềm mại trong sự nhìn người.

Vũ Huy Cương có kể cho tôi nghe về một người bạn của anh, hiện giữ một chức vụ cao trong đảng cộng sản. Chính anh bạn này đã cho Vũ Huy Cương tiền mắc điện thoại riêng. Hơn thế, hằng tháng anh ta vẫn đều đều trả tiền điện thoại cho anh. Hơn ai hết, anh ta biết Vũ Huy Cương dùng điện thoại vào việc gì. Bạn bè thân thiết của Vũ Huy Cương toàn những tên được coi là "chống đảng" cả: Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Hoàng Tiến, Bùi Minh Quốc, Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến... Vũ Huy Cương cần điện thoại trước hết là để liên lạc với họ. Anh bạn nọ nghĩ gì khi làm việc đó, tôi không rõ. Điều tôi đoán được, chắc không sai, là trong thâm tâm anh ta hiểu Vũ Huy Cương không hề là một tên "phản động" như đảng muốn mọi người nghĩ theo. Vũ Huy Cương nói với tôi rằng anh vẫn quý anh bạn này: "Nó chưa nghĩ được như tụi mình, nó chưa tỉnh, nhưng biết đâu đấy, ngày mai nó sẽ tỉnh thì sao? Bạn vẫn là bạn". Họ vẫn giao du với nhau, anh bạn thường can gián Vũ Huy Cương đừng có cứng quá, nói năng cần phải lựa lời hơn, còn Vũ Huy Cương thì cự nự anh bạn vì những câu chữ sặc mùi bảo thủ mà anh ta viết hoặc phát biểu trong những cuộc họp báo.

Nhưng Cương không hiền. Anh còn dữ là đàng khác. Hoặc rất cứng, như anh em nhận xét. Thật vậy, đối với nhà cầm quyền, và những kẻ tận tâm phục vụ chính quyền chuyên chế, anh cứng lắm. Khi điện thoại của anh chưa bị cắt hoàn toàn, kẻ nghe trộm còn cho hai bên trò chuyện để xem người gọi là ai cái đã, lúc ấy tôi có gọi về thì anh giục ồi ồi: "Này, nói nhanh lên, "chúng nó" cắt ngay bây giờ đấy". Cái tụi mất dạy, "chúng nó" khốn nạn lắm!". Khi nghe tiếng rè rè phát lên để bịt đi tiếng người nói, anh hét lên: "Chúng nó đang bịt miệng chúng ta đấy, bọn đểu cáng, phải tìm cách khác thôi!". Không hiểu nhà cầm quyền có đau không khi nghe thấy những lời xỉ vả của Cương. Trong một ý nghĩa nào đó, họ cũng là những kẻ tốt nhịn. Với nhà cầm quyền và những tên tay sai, anh chỉ có một từ để gọi: "chúng nó".

Thế mà có lần kẻ nghe trộm, một tên trong "chúng nó" vẫn để cho chúng tôi nói với nhau đến hết câu chuyện, không cắt, không phá, mới kỳ. Tôi thật sự không hiểu vì sao. Cùng một ngày hôm ấy, tôi cố nối liên lạc với Hoàng Minh Chính, với Trần Độ, cả với Hoàng Tiến nữa, đều không được. Nhưng với Vũ Huy Cương thì lại được, mà chúng tôi nói chuyện rất dài, rất lâu. Cương cũng lấy làm lạ. Chúng tôi đồ rằng mới có một chỉ thị không cắt đường điện thoại của Cương để xem anh liên lạc với ai, nói chuyện gì. Tại sao lại trừ ra một Vũ Huy Cương? Suy diễn theo lối mòn thì Vũ Huy Cương chắc hẳn đã bắt tay với công an nên mới được chiếu cố như thế. Nhưng đó là chuyện không thể có được, là cái phải loại trừ từ đầu. Chỉ còn một khả năng: người được trao nhiệm vụ nghe trộm là một người bạn giấu mặt, một người bạn mà ngày mai chúng tôi mới được biết là ai. Tại sao lại không thể là như thế nhỉ?

Lần cuối cùng tôi liên lạc được với Vũ Huy Cương là qua máy điện thoại di động. Ai đã mua cho Cương cái máy đó, tôi không rõ. Hình như anh em ở Hoa Kỳ thì phải? Mà cũng có thể là anh em ở Đức hoặc ở Tiệp. Tóm lại, có một số bạn ở hải ngoại đã âm thầm cung cấp cho những người mà ta thường gọi là các "nhà phản kháng" hoặc các "chiến sĩ dân chủ" những phương tiện liên lạc với thế giới bên ngoài. Vũ Huy Cương vui mừng vì cái máy đó lắm, anh khoe với tôi mấy phút liền về nó, mặc cho tôi tiếc hùi hụi số tiền phải trả cho cuộc gọi viễn liên, rồi nói rằng với Internet "chúng nó" rồi sẽ phải bó tay. Anh hỏi tôi có nhận được tốt các văn bản mà tôi cần biết gửi bằng e-mail không? Tôi còn nhận xét giọng anh còn sang sảng lắm, Cương cười vui vẻ: "Công an vừa làm cho tớ hai hàm giả đấy".

Một tháng sau cuộc gặp gỡ trên điện thoại đó, Cương "đi". Nhà văn Châu Diên (Phạm Toàn) trách bạn "chưa tìm ra chỗ đứng đã vội tìm chỗ nằm". Anh viết trong lời ai điếu không in ở tờ báo nào: "Trong cuộc đời, ai cũng cố tìm cho mình một chỗ đứng. Cái đáng yêu của đời Cương là Cương không chỉ tìm cho mình mà còn bận lòng tìm hộ người khác một chỗ đứng". Tôi không rõ Cương có tìm hộ bạn nào trong hàng ngũ công an một chỗ đứng hay không?

Thay mặt bạn bè, trong đám tang Vũ Huy Cương, tất nhiên có cả các công an viên tham dự, nhà văn Hoàng Tiến nói với Cương lời từ biệt thế này:

"Cuộc đời bạn là một cuốn tiểu thuyết chưa in, nhưng nhiều người đã đọc, đã biết. Qua cuốn sách đó có bao nhiêu bài học: đau khổ, thông minh, kiên cường, bất khuất, lạc quan, yêu đời, và lòng tin vào tương lai tươi đẹp của đất nước".

Hoàng Tiến nói đúng. Cuộc đời Vũ Huy Cương là một cuốn tiểu thuyết chưa in, nhưng nhiều người đã đọc. Và đã học. Học những điều hay. Nghiên cứu những mặt mâu thuẫn. Rút ra những điều cần phải tránh. Vũ Huy Cương không để lại một tác phẩm nào, trừ cuốn tiểu thuyết đó. Anh rời khỏi cuộc chiến đấu như một chiến sĩ vô danh. Anh đứng chung hàng với tất cả những người không để lại tên tuổi, nhưng đã hiến dâng cho đất nước cái duy nhất và cuối cùng họ có thể dâng hiến: sinh mạng của mình.

Bây giờ Cương có quyền được yên nghỉ rồi.

Madrid, Espagne 2001