Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 13 tháng 4, 2022

17 bài thơ của Ingeborg Bachmann

 

Pháp Hoan chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Đức.

 

 

Ingeborg Bachmann (1926-1973) là nhà thơ, nhà văn người Áo, một trong những nhà thơ quan trọng nhất trong văn chương hậu chiến Đức thế kỷ 20, nổi tiếng với hai tập thơ Thời gian kéo dài (Die gestundete Zeit) và Tiếng gọi từ chòm sao Đại Hùng (Anrufung des Grossen Bäre). Bachmann được biết đến trên văn đàn Áo khi tham gia vào nhóm văn học huyền thoại Nhóm 47 (Gruppe 47), gồm nhiều tên tuổi lớn trong văn học Đức – Áo thời đó như Ilse Aichinger, Günter Grass, Heinrich Böll, Marcel Reich-Ranicki và Paul Celan (tình nhân của bà). Thơ của Ingeborg Bachmann tập trung khai thác những khía cạnh triết học trong ngôn ngữ (chính bản thân bà cũng từng theo học triết học và bảo vệ luận văn tiến sĩ về Heidegger). Những tác phẩm sau này của bà chịu ảnh hưởng bởi triết gia đồng hương Ludwig Wittgenstein. Nhiều tác phẩm văn xuôi của bà chỉ ra những khó khăn của phụ nữ trong xã hội Áo thời Hậu chiến với mong muốn tìm thấy tiếng nói của chính mình. Bà được đọc rộng rãi trong giới độc giả nữ quyền sau khi qua đời.

‍‍ ‍‍‍‍‍‍ ‍  

 

Khôn Nguôi

 

Trong khu rừng mùa đông

tôi bay quanh những trái cây của miền nam ấm áp.

Chúng sẽ rụng về tôi.

Tôi không hề biết

rằng chúng, cũng như tôi, có thể bay nhảy

và mong mỏi khát khao.

 

Mỏ của tôi đông cứng.

Bài hát bị lãng quên.

Tôi bay một đường bay vô định

với con mắt rách bươm,

qua vùng đất sỏi đá,

với móng vuốt của băng giá trên lông

nhưng miệng tôi vẫn khao khát chờ mong

những quả hạnh đào và những dòng sông lấp lánh.

 

Cái chết là một phần của tôi.

Trăng địa cực trong giấc mơ chiếu rạng

những rễ cây của vùng lãnh nguyên cay đắng

mong mỏi xác thân này.

 

Nhưng tôi vẫn chân thật mỗi ngày!

Tôi vẫn bay, với niềm khát khao cháy bỏng!

 

 

Unstillbar

 

Ich kreise in einem winterlichen Wald

um die Fruuchte des Suuden.

Wie sie mir zuteil werden sollen,

weiss ich nicht,

nicht, wie ich, uuberhapt, so fliegen kann

und so begehren.

 

Meine Schnaebel wandern, erfroren.

Mein Lied is vergessen.

Ich fliege wie Rechtlose fiegen,

zerrissenen Augs.

Uuber Geroell und Gestein.

Des Eises Krallen im Gefieder

fiebert mein Mund noch

nach Mandeln und golden Korinthen.

 

Tod ist mein Teil.

Der Polarmond bleicht meine Traeume,

und die bitteren Wurzeln der Tundra

langen nach mir.

 

Aber noch weiss ich mich treu!

Noch fieg ich, von Sehnsucht verbrant!

 

 

*

 

Phía Sau Bức Tường

 

Tôi treo như tuyết trên cành

trong thung lũng của mùa xuân,

như câu thần chú lạnh lẽo tôi trôi trong gió,

rơi ướt những nụ hoa

như một giọt sương

bên trong chúng tàn lụi

như thể chìm xuống một vũng lầy.

Tôi là Ý Nghĩ-Liên Hồi-Của-Cái Chết.

 

Bởi không thể bước đi trong yên lặng, tôi bay

qua mọi bầu trời trên những toà nhà vững chãi

phá đổ những hàng cột và những bức tường hư hoại.

Kể từ khi không thể ngủ trong đêm, tôi cảnh báo

những người xung quanh với tiếng thét của đại dương.

Tôi đi qua cửa miệng của những thác nước trào tuôn

và xô ngã những tảng đá từ những đỉnh cao chói lọi.

 

Tôi là đứa trẻ của nỗi sợ hãi lớn lao dành cho thế giới

với niềm vui sướng và sự an bình luôn chứa đựng trong tim

như lưỡi hái trên cánh đồng vào một sớm bình minh

và tiếng chuông gióng lên khi ngày vừa kết thúc.

 

Tôi là Ý Nghĩ-Liên Hồi-Của-Cái Chết.

 

 

Hinter der Wand

 

Ich hänge als Schnee von den Zweigen

in den Frühling des Tals,

als kalte Quelle treibe ich im Wind

feucht fall ich in die Blüten

als ein Tropfen

um den sie faulen

wie um einen Sumpf

Ich bin das Immerzu-ans-Sterben-Denken.

 

Ich fliege, denn ich kann nicht ruhig gehen,

durch aller Himmel sichere Gebäude

und stürze Pfeiler um und höhle Mauern.

Ich warne, denn ich kann des Nachts nicht schlafen,

die andern mit des Meeres fernem Rauschen.

Ich steige in den Mund der Wasserfälle

und von den Bergen lös ich polterndes Geröll.

 

Ich bin der großen Weltangst Kind,

die in den Frieden und die Freude hängt

wie Glockenschläge in des Tages Schreiten

und wie die Sense in den reifen Acker.

 

Ich bin das Immerzu-ans-Sterben—Denken.

 

 

*

 

Ly Gián

 

Trong rừng cây tôi không còn thấy cây.

Những nhánh cành trơ trụi, lá cuốn theo chiều gió.

Những trái cây ngọt ngào, nhưng tình yêu chẳng có.

Ngay cả niềm thoả mãn cũng chẳng thể ban cho.

Điều gì sẽ xảy ra?

Trước mặt tôi cánh rừng đang biến mất,

bên tai tôi không còn tiếng chim ca,

không thể ngủ trên đồng cỏ bao la.

Dẫu trong tôi thời gian luôn đầy ứ

nhưng cớ chi tôi khát thèm chính nó.

Điều gì sẽ xảy ra?

 

Trên đỉnh cao những đốm lửa sẽ bùng lên mỗi tối

Tôi có nên bước ra, tiến lại gần thêm một lần sau cuối?

 

Tôi không còn thấy được trên bất kỳ lối đi một lối đi nào.

 

 

Entfremdung

 

In den Bäumen kann ich keine Bäume mehr sehen.

Die Äste haben nicht die Blätter, die sie in den Wind halten.

Die Früchte sind süß, aber ohne Liebe.

Sie sättigen nicht einmal.

Was soll nur werden?

Vor meinen Augen flieht der Wald,

vor meinem Ohr schließen die Vögel den Mund,

für mich wird keine Wiese zum Bett.

Ich bin satt vor der Zeit

und hungre nach ihr.

Was soll nur werden?

 

Auf den Bergen werden nachts die Feuer brennen.

Soll ich mich aufmachen, mich allem wieder nähern?

 

Ich kann in keinem Weg mehr einen Weg sehen.

 

 

*

 

Đảo Của Người Chết

 

Em cần phải tin rằng

sự điên rồ này, sự tù đày này

sẽ tồn tại mãi mãi

rằng bao nhiêu khắc giờ để phải

chọn ra giáo chủ của riêng mình

và ngọn khói màu đen

bốc lên

(mà không phải khói trắng

từ một cây nến)

khi toàn bộ giấc mơ

bị giam cầm giữa mật nghị hồng y

khi mọi thứ dường như chống lại

giấc mơ tan tành cuồng dại

nhất của em, nó chẳng nên tin

vào chính bản thân mình, và nên biết rằng

ở trên tất cả,

nó sẽ phải chinh phục toàn bộ

sự cấu uế, vàng,

tinh dịch, đảo của những kẻ đã qua đời.

 

 

Toteninsel

 

Ich muss glauben, dass

dieser Irrsinn, dieses Gefaengnis

fuur die Ewigkeit waehrt

die vielen Stunden, als ich

meinen Papst mir waehlte

und dunkler Rauch

aufstieg,

(die eine Kerze nicht,

mit dem weissen)

als alle meine Traeume

im Konklave waren

und alles stimmte gegen

meinen wuutendsten gescheiterten

Traum

der haette ja selber sich

nicht geglaubt, und gewusst,

dass uuber all das zu herrschen

uuber Schmutz, Gold

Samen, Toteninseln.

 

 

*

 

Bên tiếng gõ móng của đêm

 

Bên tiếng gõ móng của đêm, của con ngựa ô trước cổng,

trái tim em vẫn như xưa rung động, và trao cho em một bộ yên

đỏ như sợi dây cương mà Diomedes đã từng cho em mượn.

Trước mặt em gió thổi điên cuồng trên những con phố tối

rẽ mớ tóc xoăn đen thẫm của cây cối mơ màng,

làm những trái cây ướt đẫm ánh trăng

giật mình rụng xuống ở trên vai và kiếm,

và em quất

ngọn roi lên một ngôi sao vừa tắt.

Chỉ có một lần em dừng lại, để hôn lên đôi môi không chung thuỷ của anh

và mái tóc anh vướng vào sợi dây cương,

và chiếc giày của anh kéo lê trong bụi đỏ.

 

Và hơi thở của anh em vẫn còn nghe rõ

và cả cái từ, anh dùng nó đánh em.

 

 

Beim Hufschlag der Nacht

 

Beim Hufschlag der Nacht, des schwarzen Hengstes vorm Tor,

zittert mein Herz noch wie einst und reicht mir den Sattel im Flug,

rot wie das Halfter, das Diomedes mir lieh.

Gewaltig sprengt der Wind mir auf dunkler Straße voran

und teilt das schwarze Gelock der schlafenden Bäume,

daß die vom Mondlicht nassen Früchte

erschrocken auf Schulter und Schwert springen,

und ich schleudre

die Peitsche auf einen erloschenen Stern.

Nur einmal verhalt ich den Schritt, deine treulosen Lippen zu

küssen, schon fängt sich dein Haar in den Zügeln,

und dein Schuh schleift im Staub.

 

Und ich hör deinen Atem noch

und das Wort, mit dem du mich schlugst.

 

*

 

Hãy Rụng Xuống, Hỡi Trái Tim

 

Hãy rụng xuống, hỡi trái tim, từ cái cây thời gian,

hãy rụng xuống, những chiếc lá, từ tán cây băng giá,

đã một lần được ôm ấp bởi dương quang,

hãy rụng xuống, như nước mắt từ đôi mi mòn mỏi.

 

Dẫu lọn tóc anh mỗi ngày bay trong gió

quanh vầng trán nâu thẫm của chúa tể đất đai,

dưới chiếc áo một nắm tay ấn xuống

đã lọt vào khe hở vết thương dài.

 

Hãy vững chãi, nếu tấm lưng mềm mại của mây

một lần nữa bên anh cúi xuống.

Hãy chấp nhận, nếu những tổ ong của rặng Hymettus

lần nữa nhấn chìm anh.

 

Bởi một thân cây chẳng là gì đối với người nông dân trong cơn hạn hán,

một mùa hè thời quá ít đối với dòng giống vĩ đại của ta.

 

Và trái tim anh sẽ minh chứng điều gì?

giữa hôm qua và ngày mai nó chao lượn,

vô thanh và lạ lẫm,

và mỗi tiếng đập,

là cú rơi khỏi thời gian.

 

 

Fall ab, Herz

 

Fall ab, Herz, vom Baum der Zeit,

fallt, ihr Blätter, aus den erkalteten Ästen,

die einst die Sonne umarmt’,

fallt, wie Tränen fallen aus dem geweiteten Aug!

 

Fliegt noch die Locke taglang im Wind

um des Landgotts gebräunte Stirn,

unter dem Hemd preßt die Faust

schon die klaffende Wunde.

 

Drum sei hart, wenn der zarte Rücken der Wolken

sich dir einmal noch beugt,

nimm es für nichts, wenn der Hymettos die Waben

noch einmal dir füllt.

 

Denn wenig gilt dem Landmann ein Halm in der Dürre,

wenig ein Sommer vor unserem großen Geschlecht,

 

Und was bezeugt schon dein Herz?

Zwischen gestern und morgen schwingt es,

lautlos und fremd,

und was es schlägt,

ist schon sein Fall aus der Zeit.

 

*

 

Giữa Hôm Qua và Ngày Mai

 

Lông mày tôi ẩm ướt

như những vì sao của tháng Tư.

Mưa đêm nhẹ nhàng rơi

đã không còn làm tôi tấy đỏ.

Đốm lửa nhỏ mùa đông

chập chờn lướt qua miền sa mạc,

tôi bây giờ mỏi mệt

để có thể cất bước đi theo.

Cơn sốt ở bên giường

và bình minh ngoài kia đã đến!

Ôi nếu như tôi có thể cảm nhận được hơi ấm

của mùa hè và cơn sốt dịu ngọt trên môi!

Dây xích đã cắt rời

trên đôi bàn tay tan chảy.

Tôi đã được thoát khỏi

vùng đất lạnh lẽo của mùa đông

như tất cả mọi thứ,

như những vì sao của tháng Tư,

đã làm lông mày tôi ẩm ướt…

 

 

Zwischen Gestern und Morgen

 

Meine Strirne ist feucht

wie Sterne um April.

Die Regenschauer fallen

so leise ein,

dass sie much nicht mehr roeten.

Der Winterbrand

verflackert fliegend durch di Wuustern,

in die zu folgen ich

zu muuder bin.

Ein Fieber steht an meinem Lager,

morgenrot!

Oh, wenn ich fiebern koennte,

und Sommer uuber meine Lippen rollen!

Verschneite Ketten

an den Haeden schmelzen.

Ich bin entlassen aus dem Winterland

wie alle Ubringen

wie Sterne im April,

die Strirne feucht.

 

 

*

 

Đêm Mất Mát/Kết Thúc Của Tình Yêu

 

Một mặt trăng, một bầu trời,

và một vùng biển tăm tối.

Bây giờ mọi thứ đen thật rồi.

Bởi bây giờ là buổi tối

và chẳng có gì là con người

thuộc về khung cảnh này.

Anh sẽ kết tội em điều gì

với niềm cay đắng ấy.

Đừng làm thế.

Em chẳng biết gì hơn

ngoài việc yêu anh, em đã

không nghĩ rằng

xuyên qua mồ hôi trên da thịt

sẽ là ––––––––– thế giới

và rồi em có thể hiểu ra.

 

 

DIE NACHT DER VERLORENEN

DAS ENDE DER LIEBE

 

Ein Mond, ein Himmel

und das dunkle Meer.

Nur, dunkel alles.

Nur weil es Nacht ist

und nichts Menschliches

dies feingewirkte auch durchwebt.

Was wirfst du mir noch vor

und solche Bitterkeit,

Tu`s nicht.

Ich hab nichts Besseres gewusst

als dich zu lieben, ich hab

nicht gedacht,

daß durch den Schweiß der Haut

die (–) Welt

und dass der Groschen fiel

 

*

 

Ngày Mai Em Sẽ Rời Khỏi Đây

 

Ngày mai em sẽ rời khỏi đây

đi thật xa chốn này.

Có lẽ anh sẽ lấy làm kinh ngạc,

bởi sau tất cả những năm tháng ấy,

rằng em có thể cất bước ra đi.

 

Ngày mai em sẽ đốt căn nhà

và hát những khúc ca phóng đãng.

Anh sẽ thấy đớn đau?

Và cuối cùng anh bắt đầu để ý,

rằng em cũng đớn đau?

 

Ngày mai em sẽ đặt trái tim trong đầu

và mang một chiếc mũ đỏ.

Cả con phố sẽ thấy em ở đó

rung chuông báo động trước cửa sổ nhà anh.

Cả con phố sẽ thấy em ở đó!

 

Ngày mai em sẽ rời khỏi đây

và sẽ luôn ở lại chốn này.

Có lẽ anh sẽ cười em, có lẽ,

bởi cách hành xử như con trẻ…

Em bây giờ chỉ muốn được chết đi.

 

 

Morgen will ich fort

 

Morgen will ich fort

und weit in die Welt fahren.

Vielleicht staunst du,

vielleicht nach vielen Jahren,

daß ich gegangen bin.

 

Morgen will ich Feuer an mein Haus legen

und freche Lieder singen.

Wirst du getroffen sein?

Wirst du endlich zu merken beginnen,

daß ich getroffen bin?

 

Morgen werd ich mein Herz in den Kopf stecken

und einen rotten Hut tragen.

Die ganze Stadt soll mich sehen

vor deinem Fenster Lärm schlagen.

Die ganze Stadt soll mich sehen.

 

Morgen geh ich fort

und werd immer hier bleiben.

Vielleicht lachst du, vielleicht,

zu meinem Schelmentreiben…

Ich will gestorben sein.

 

 

*

 

Nói Những Lời Bóng Tối

 

Như Opheus em chơi

cái chết trên những sợi dây cuộc đời

và với vẻ đẹp của thế giới

và mắt anh, cai quản cả bầu trời,

em chỉ biết nói những lời bóng tối.

 

Đừng quên rằng cả anh, thoát nhiên

vào buổi sáng hôm ấy, khi túp lều của anh

vẫn còn đẫm sương đêm và một bông cẩm chướng

ngủ quên trên tim mình,

anh nhìn thấy một con suối tối,

cuồn cuộn chảy qua anh.

 

Những sợi dây câm lặng

căng lên trong mạch máu,

em nắm lấy con tim anh đập mạnh.

Những lọn tóc anh hoá thành

mái tóc sẫm màu của đêm,

những bông tuyết đen của bóng tối

chôn kín khuôn mặt mình.

 

Và em không thuộc về anh.

Và hai ta bây giờ than khóc.

 

Nhưng như Orpheus em biết

cuộc đời ở bên kia cái chết,

và thẫm dần một màu xanh

trong con mắt nhắm vĩnh hằng của anh.

 

 

Dunkles zu sagen

 

Wie Orpheus spiel ich

auf den Saiten des Lebens den Tod

und in die Schönheid der Erde

und deiner Augen, die den Himmel verwalten,

weiss ich nur Dunkles zu sagen.

 

Vergiss nicht, dass auch du, plötzlich,

an jedem Morgen, als dein Lager

noch nass war von Tau und die Nelke

an deinem Herzen schlief,

den dunklen Fluss sahst,

der an dir vorbeizog.

 

Die Saite des Schweigens

gespannt auf die Welle van Blut,

griff ich dein tonendes Herz.

Verwandelt ward deine Locke

ins Schattenhaar der Nacht,

der finsternis schwarze Flocken

beschneiten dein Anlitz.

 

Und ich gehor dir nicht zu.

Beide klagen wir nun.

 

Aber wie Orpheus weiss ich

auf der Seite des Todes das Leben,

und mir blaut

dein fur immer geschlossenes Aug.

 

 

*

 

Thời Chiến

 

Đêm thời sâu lắng ở quanh tôi

với nỗi cô đơn và khổ ải.

Vách tường run rẩy thu mình lại

trên ổ bánh mì nước mắt trôi.

 

Căn nhà lạnh lẽo và đơn côi.

Không còn hơi ấm trong lò sưởi.

Hơi thở trên môi như làn khói

và bao hy vọng hoá mù khơi.

 

Đường phố ngáp dài ở khắp nơi

và gọi tên tôi thật rành rõ.

Với bao chán chường và nỗi khổ…

Đêm thời sâu lắng ở quanh tôi.

 

Im Krieg

 

Es ist so tiefe Nacht um mich

und Einsamkeit und graue Not

Die Wande drangen zitternd sich

und Tranen rinnen aus dem Brot.

 

Es ist so bitter kalt im Haus

Kein Feuer brennt und nirgends Licht.

Mein Atem raucht im Raume aus

und alle Hoffnung wird Verzicht.

 

Im Lande gahnen Strassen weit

und rufen mich auch sicherlich.

Doch ich bin muder und voll Leid

Es ist so tiefe Nacht um mich.

 

*

 

Thời Gian Thế Chấp

 

Những ngày tồi tệ hơn đang đến.

Thời gian thế chấp tới kỳ đáo hạn

hiện lên rõ ràng cuối chân trời.

Sớm thôi anh sẽ buộc lại dây giày

và xua lũ chó trở về trong bãi sậy.

 

Bởi những con cá nằm phơi thây

ruột gan đã đóng băng trong gió.

Hoa lupin cháy lên lặng lẽ.

Ánh mắt anh cắt qua màn sương mờ:

Thời gian thế chấp tới kỳ đáo hạn

hiện lên rõ ràng cuối chân trời.

 

Đằng xa người tình của anh chìm trong cát,

nó chảy qua mái tóc xõa của cô,

nó nhấn chìm lời nói của cô,

nó lệnh cô phải trở nên im lặng,

nó nhận ra cô không là bất tử

và sẵn sàng từ giã

sau mỗi cái ôm.

 

Đừng nhìn quanh.

Hãy buộc lại dây giày.

Xua lũ chó trở về.

Ném những con cá vào biển.

Dập tắt hoa lupin!

 

Những ngày tồi tệ hơn đang đến.

 

 

Die gestundete Zeit

 

Es kommen härtere Tage.

Die auf Widerruf gestundete Zeit

wird sichtbar am Horizont.

Bald mußt du den Schuh schnüren

und die Hunde zurückjagen in die Marschhöfe.

 

Denn die Eingeweide der Fische

sind kalt geworden im Wind.

Ärmlich brennt das Licht der Lupinen.

Dein Blick spurt im Nebel:

die auf Widerruf gestundete Zeit

wird sichtbar am Horizont.

 

Drüben versinkt dir die Geliebte im Sand,

er steigt um ihr wehendes Haar,

er fällt ihr ins Wort,

er befiehlt ihr zu schweigen,

er findet sie sterblich

und willig dem Abschied

nach jeder Umarmung.

 

Sieh dich nicht um.

Schnür deinen Schuh.

Jag die Hunde zurück.

Wirf die Fische ins Meer.

Lösch die Lupinen!

 

Es kommen härtere Tage.

 

 

*

 

Xứ Sở Sương Mù

 

Vào mùa đông người tôi yêu sống

giữa những con thú trong rừng.

Sáng hôm sau tôi phải quay trở lại,

con cáo biết điều đó và nó phá lên cười.

Những đám mây run rẩy làm sao! Và trên

chiếc cổ cồn màu tuyết đổ xuống

một lớp băng giòn.

 

Vào mùa đông người tôi yêu

là thân cây giữa cây rừng, mời gọi

những con quạ xui xẻo đến

đậu trên những chiếc cành xinh đẹp. Nó biết

rằng cơn gió, lúc hoàng hôn buông xuống

sẽ nâng chiếc váy dạ hội cứng đờ sương giá

và rượt tôi trở lại nhà.

 

Vào mùa đông người tôi yêu

là con cá giữa bầy cá, câm lặng.

Bị giam cầm trong nước, những cái vây

ngoe nguẩy phía bên trong

tôi đứng trên bờ quan sát

cách nó lặn xuống và biến mất

cho đến khi tảng băng mang tôi đi.

 

Và lần nữa tôi nghe thấy tiếng kêu

của loài chim săn mồi, trên đầu tôi

nó sãi dài đôi cánh, tôi rơi xuống

trên một cánh đồng lớn: nó vặt

lông đám gà mái và ném cho tôi

một khúc xương đòn trắng. Tôi đeo nó quanh cổ

và đi qua những lông tơ cay đắng.

 

Người tình của tôi không chung thuỷ,

tôi biết đôi khi ả xuống phố

trên đôi giày cao gót

hôn lên những chiếc cốc trong quán rượu

bằng cái ống hút ả ngậm chặt trên môi

và ả bắt chuyện với tất cả mọi người.

Nhưng thứ ngôn ngữ này tôi không hiểu.

 

Xứ sở sương mù tôi đã thấy

trái tim sương mù tôi đã ăn.

 

 

Nebelland

Im Winter ist meine Geliebte

unter den Tieren des Waldes.

Daß ich vor Morgen zurückmuß,

weiß die Füchsin und lacht.

Wie die Wolken erzittern! Und mir

auf den Schneekragen fällt

eine Lage von brüchigem Eis.

 

Im Winter ist meine Geliebte

ein Baum unter Bäumen und lädt

die glückverlassenen Krähen

ein in ihr schönes Geäst. Sie weiß,

daß der Wind, wenn es dämmert,

ihr starres, mit Reif besetztes

Abendkleid hebt und mich heimjagt.

Im Winter ist meine Geliebte

unter den Fischen und stumm.

Hörig den Wassern, die der Strich

ihrer Flossen von innen bewegt,

steh ich am Ufer und seh,

bis mich Schollen vertreiben,

wie sie taucht und sich wendet.

Und wieder vom Jagdruf des Vogels

getroffen, der seine Schwingen

über mir steift, stürz ich

auf offenem Feld: sie entfiedert

die Hühner und wirft mir ein weißes

Schlüsselbein zu. Ich nehm’s um den Hals

und geh fort durch den bitteren Flaum.

Treulos ist meine Geliebte,

ich weiß, sie schwebt manchmal

auf hohen Schuh’n nach der Stadt,

sie küßt in den Bars mit der Strohhalm

die Gläser tief auf den Mund,

und es kommen ihr Worte für alle.

Doch diese Sprache verstehe ich nicht.

 

Nebelland hab ich gesehen,

Nebelherz hab ich gegessen.

 

 

*

 

Mỗi Ngày

 

Chiến tranh không còn được tuyên bố

nó vẫn đang tiếp diễn

Những điều chưa từng có

trở thành những thứ hiển nhiên.

Anh hùng tránh xa khỏi chiến trường.

Những kẻ yếu đuối lại đi vào chiến trận.

Đồng phục của ngày là sự kiên nhẫn,

ngôi sao hy vọng là tấm huân chương

thảm thương treo trước ngực.

 

Nó sẽ được trao tặng,

khi chẳng còn điều gì xảy ra,

khi những trái pháo rơi vào im lặng,

khi kẻ thù ta trở nên vô hình, bất động

và chiếc bóng của thứ vũ khí vĩnh hằng

trên bầu trời phủ kín.

 

Nó sẽ được trao tặng

cho sự ruồng bỏ những ngọn cờ,

cho sự dũng cảm đối mặt trước bạn bè,

cho sự bội phản những bí mật không xứng đáng

và cho sự khinh miệt

trước mỗi lệnh được ban ra.

 

Alle Tage

 

Der Krieg wird nicht mehr erklärt,

sondern fortgesetzt. Das Unerhörte

ist alltäglich geworden. Der Held

bleibt den Kämpfen fern. Der Schwache

ist in die Feuerzonen gerückt.

Die Uniform des Tages ist die Geduld,

die Auszeichnung der armselige Stern

der Hoffnung über dem Herzen.

 

Er wird verliehen,

wenn nichts mehr geschieht,

wenn das Trommelfeuer verstummt,

wenn der Feind unsichtbar geworden ist

und der Schatten ewiger Rüstung

den Himmel bedeckt.

 

Er wird verliehen

für die Flucht von den Fahnen,

für die Tapferkeit vor dem Freund,

für den Verrat unwürdiger Geheimnisse

und die Nichtachtung

jeglichen Befehls.

 

 

*

 

Giã Từ Nước Anh

 

Tôi chưa đặt chân lên mặt đất của ngươi,

Đất nước lặng im, không làm phiền đến một hòn sỏi,

tôi được nâng lên cao trên bầu trời rộng lớn của ngươi,

đặt ở phía xa xôi, giữa mây mù và sướng khói,

rằng tôi đã từ giã ngươi,

ngay chính phút giây neo vừa thả xuống.

 

Ngươi đã khép đôi mắt tôi

bằng lá sồi và gió từ biển cả

những giọt nước mắt mà tôi đã nhỏ,

ngươi để ngọn cỏ được uống lấy đã đầy;

ra khỏi giấc mơ tôi, những mặt trời,

thách thức tôi đi xuyên qua vùng đất,

thế nhưng tất cả vội vàng biến mất,

khi ngày của ngươi khởi sự đi lên.

Và mọi thứ được giữ nguyên không nói.

 

Xuyên qua những con phố loài chim xám khổng lồ vỗ cánh

và xua tôi ra khỏi nơi này.

Tôi từng có mặt ở đây?

 

Tôi không muốn bản thân mình được thấy.

 

Mắt tôi mở.

Lá sồi và gió từ biển khơi?

Dưới những tảng đá ngoài khơi

trong lãnh thổ của ngươi, tôi thấy

đất nước của linh hồn tôi sụp đổ.

 

Tôi chưa đặt chân lên chốn ấy bao giờ.

 

 

Abschied von England

 

Ich habe deinen Boden kaum betreten,

schweigsames Land, kaum einen Stein berührt,

ich war von deinem Himmel so hoch gehoben,

so in Wolken, Dunst und in noch Ferneres gestellt,

daß ich dich schon verließ,

als ich vor Anker ging.

 

Du hast meine Augen geschlossen

mit Meerhauch und Eichenblatt,

von meinen Tränen begossen,

hieltst du die Gräser satt;

aus meinen Träumen gelöst,

wagten sich Sonnen heran,

doch alles war wieder fort,

wenn dein Tag begann.

Alles blieb ungesagt.

 

Durch die Straßen flatterten die großen grauen Vögel

und wiesen mich aus.

War ich je hier?

 

Ich wollte nicht gesehen werden.

 

Meine Augen sind offen.

Meerhauch und Eichenblatt?

Unter den Schlangen des Meers

seh ich, an deiner Statt,

das Land meiner Seele erliegen.

 

Ich habe seinen Boden nie betreten.

 

 

*

 

Sau Những Ngày Xám

 

Một giờ duy nhất được tự do

Tự do và xa cách!

Như dạ khúc giữa các tầng trời

Và tôi muốn

bay cao trên những ngày

kiếm tìm sự lãng quên—

đi qua mặt nước tối đen

đến với hoa hồng trắng,

trao cho hồn tôi đôi cánh

và, lạy Chúa, không còn biết gì thêm

về những đêm dài cay đắng

thời khắc ấy mắt tôi căng mở

trước đau khổ không tên.

Và nước mắt trên má trôi nhanh

Từ những đêm điên dại,

của hy vọng hão huyền,

và ước muốn, được phá tan gông xiềng

ánh dương quang uống lấy…

Một giờ duy nhất nhìn ánh sáng!

Một giờ duy nhất được tự do!

 

Nach grauen Tagen

 

Eine einzige Stunde frei sein!

Frei, fern!

Wie Nachtlieder in den Sphären.

Und hoch fliegen über den Tagen

möchte ich

und das Vergessen suchen---

über das dunkle Wasser gehen

nach weißen Rosen,

meiner Seele Flügel geben

und, oh Gott, nichts wissen mehr

von der Bitterkeit langer Nächte,

in denen die Augen groß werden

vor namenloser Not.

Tränen liegen auf meinen Wangen

aus den Nächten des Irrsinns,

des Wahnes schöner Hoffnung,

dem Wunsch, Ketten zu brechen

und Licht zu trinken---

Eine einzige Stunde Licht schauen!

Eine einzige Stunde frei sein!

 

 

*

 

Những Ngày Trắng

 

Những ngày này tôi thức dậy cùng đám bạch dương

và chải lấy mớ tóc lúa mì trên trán

trước một chiếc gương làm từ băng.

 

Quyện vào hơi thở tôi,

sữa được đánh.

Vào buổi sớm bọt nổi lên dễ dàng.

Và nơi nào tôi làm mờ ô cửa, thời hiện lên

một đường nét từ ngón tay trẻ nhỏ,

và lần nữa tên mi: Sự thơ ngây!

Sau tất cả những năm tháng này.

 

Những ngày này tôi không thấy đớn đau

rằng tôi có thể quên

hoặc tôi cần phải nhớ.

 

Tôi yêu. Đến khi toả sáng

Tôi yêu và tạ ơn trời

Đã cho tôi học chúng thật nhanh.

 

Những ngày này tôi nghĩ về loài hải âu lớn

tôi cùng chúng chao lượn

về phía xa xôi

đến một vùng đất không tên không tuổi.

 

Trên đường chân trời tôi xác quyết

vẻ huy hoàng trong buổi hoàng hôn

châu lục kỳ diệu của tôi

ở chốn đó, hãy giải phóng tôi

khỏi tấm vải liệm này.

 

Tôi sống, và từ nơi xa ấy, tôi nghe thấy bài hát của loài chim thiên nga!

 

 

Tage in weiß

 

In diesen Tagen steh ich auf mit den Birken

und kämm mir das Weizenhaar aus der Stirn

vor einem Spiegel aus Eis.

 

Mit meinem Atem vermengt,

flockt die Milch.

So früh schäumt sie leicht.

Und wo ich die Scheibe behauch, erscheint,

von einem kindlichen Finger gemalt,

wieder dein Name: Unschuld!

Nach so langer Zeit.

 

In diesen Tagen schmerzt mich nicht,

daß ich vergessen kann

und mich erinnern muß.

 

Ich liebe. Bis zur Weißglut

lieb ich und danke mit englischen Grüßen.

Ich hab sie im Fluge erlernt.

 

In diesen Tagen denk ich des Albatros',

mit dem ich mich auf-

und herüberschwang

in ein unbeschriebenes Land.

 

Am Horizont ahne ich,

glanzvoll im Untergang,

meinen fabelhaften Kontinent

dort drüben, der mich entließ

im Totenhemd.

 

Ich lebe und höre von fern seinen Schwanengesang!