Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021

Mênh mông chật chội… (31)

Lại Nguyên Ân

LIỆU CÓ THỂ XEM PHAN KHÔI (1887-1959) NHƯ MỘT TÁC GIA VĂN HỌC QUỐC NGỮ NAM BỘ?

(Tham luận tại hội thảo khoa học “Văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945” tại Khoa Ngữ văn và Báo chí, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 26/5/2006)

1. Điều nêu ra ở nhan đề bài này sở dĩ phải đặt như một nghi vấn hơn là một khẳng định bởi vì người viết những dòng này, cũng như các đồng nghiệp trong giới nghiên cứu, không thể không phải đương diện với một tập quán tuy không mấy "khoa học" nhưng khá thông dụng trong việc biên soạn các bộ địa chí văn hoá hiện nay ở các tỉnh thành trong hầu khắp nước ta (những bộ địa chí thường được xếp vào loại công trình cấp quốc gia, thường được cấp tiền tỉ từ ngân sách công), theo đó, căn cứ để tính một tác gia văn học vào trong số tác gia của địa phương mình thường là: a/ quê quán (thường tính theo quê cha, đôi khi xét thêm đến thuộc tính quê mẹ), và b/ trên thực tế có sống và hoạt động văn học tại địa phương. Tiêu chí đầu thường được vận dụng phổ biến trong các bộ địa chí cấp tỉnh, và vận dụng bất chấp tiêu chí sau, bởi vì những tỉnh không có thành phố lớn thường chỉ có rất ít tác gia "quê gốc" lại đồng thời hoạt động "tại chỗ" (các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ chẳng hạn, tài năng văn học thường tụ hết cả về lòng chảo Hà Thành!); và thế là mặc dù "ngài" tác giả hoạt động ở tận đẩu tận đâu, ít khi bước chân về quê, chỉ cần bố mẹ "ngài" quê gốc ở địa phương này thì địa phương này sẽ tôn vinh tên tuổi "ngài" làm vinh dự cho quê hương. Tiêu chí sau, có vẻ như được ưu tiên trang bị cho việc biên soạn địa chí của những địa phương có thành phố lớn, có trung tâm văn hoá lớn, những nơi từng có mặt hoặc đang có mặt số lượng lớn người hoạt động văn học; dữ kiện để chọn dồi dào thì người biên khảo sẽ khoác bộ mặt cau có của kẻ khó tính, sẽ chẳng những đòi hỏi quê gốc tác gia phải ở tỉnh thành này, mà còn đòi hỏi chính tác gia phải từng sống và hoạt động văn học tại đây nữa. Nhưng ở trung tâm lớn thời nào cũng thường quần tụ nhiều tác gia; trong khi đó, động cơ và mục đích đầu tư cho biên soạn các bộ địa chí là tôn vinh địa phương, là chứng tỏ đất này "địa linh nhân kiệt" hơn những đất khác, cho nên rốt cuộc nhà biên khảo vẫn sử dụng tra vấn "quê gốc" làm căn cứ để loại trừ bớt những tác gia tuy hiển nhiên hoạt động văn học tại đây nhưng chỉ là dân nhập cư từ những nơi khác! Tóm lại, tiêu chí quê quán hầu như vẫn là tiêu chí duy nhất để tập hợp tác gia theo vùng đất trong các công trình địa phương chí. Tiêu chí này, ngoài những công dụng hiển nhiên của việc biên khảo theo chủ đề, cũng chứa đựng nguy cơ làm đơn giản hoá, thậm chí làm méo mó (trong sự hình dung của người tiếp nhận tri thức văn học sử) diện mạo thực của đời sống văn học ở những đô thị lớn qua những giai đoạn khác nhau.

Sở dĩ phải dài lời như trên là vì thực sự tôi chưa rõ đề tài "Văn học Quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945" được dẫn dắt theo những quy tắc nào, nhất là về nghiên cứu tác gia, có vận dụng quy tắc "địa phương chí" hiện hành (như mô tả bên trên) hay không?

Sự việc cụ thể là tôi đưa ra tác gia Phan Khôi (1887-1959): quê gốc không ở Nam Bộ, nhưng có thời gian đáng kể sống và hoạt động báo chí, văn học ở thành phố Sài Gòn trên đất Nam Kỳ (nay gọi là Nam Bộ). Vậy có thể đề cập đến hoạt động của Phan Khôi trong đề tài nghiên cứu này không? Vả chăng, Phan Khôi cũng chỉ là một trong khá đông trường hợp các tác gia "nhập cư" vào báo chương Sài Gòn hiện bị quên lãng thậm chí tại "quê gốc" của mình, ví dụ Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình), Bùi Thế Mỹ, Phan Thứ Khanh (quê Quảng Nam), và hẳn còn không ít các trường hợp khác.

Phần dưới đây sẽ nêu khái lược hoạt động báo chí và văn chương của Phan Khôi tại Sài Gòn, trong những đoạn thời gian ông sống và viết báo viết văn ở đây.

2. Theo một vài tác giả (ví dụ: Phan Thị Nga (1936), Phan Cừ và Phan An (1996),(1) v.v.) và theo kết quả sưu tầm nghiên cứu của bản thân người đang viết những dòng này, thì Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn từ năm 1919 và từ đó đến đầu thập niên 1940 (hoặc cuối thập niên 1930) đã liên tục gắn với đời sống văn chương báo chí Sài Gòn, dù suốt thời gian ấy không phải lúc nào cũng sống ở đây. Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành, là nơi cây bút viết báo viết văn của ông làm việc năng sản nhất, hiệu quả nhất. Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã đề xuất Phan Khôi như một trong không nhiều những tên tuổi xuất chúng của mình trên trường dư luận toàn quốc đương thời.

Phan Khôi can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Và ở Việt Nam, nếu đời sống văn học, trước hết là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, bắt đầu dạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thông hiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của Phan Khôi được thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu,...) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả!

Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài có lẽ là tờ Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo này hầu như ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuối cùng ông đăng Nam phong ("Về việc cấm rượu ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta"// N.P. s. 23, tháng 5/1919) thì cũng ngay trong tháng ấy, ngày 7/5/1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca "Đưa chồng" và "Nhớ chồng", thác lời người vợ có chồng là lính tùng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong. (Sau này vào năm 1958 ở miền Bắc, Phùng Bảo Thạch sẽ "hồi cố" nội dung hai bài này để tố cáo thái độ "ôm chân đế quốc" của Phan Khôi). Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là về đề tài thường thức xã hội và về ngôn ngữ. Đó là mục "Làm dân phải biết" (với những nội dung bài từng kỳ báo lần lượt là: Nước mẹ đẻ; Địa dư nước An Nam; Chính trị nước An Nam; Phong tục nước An Nam; Dân phải nộp thuế;...) và mục "Ghi chép tiếng An Nam" (tôi tìm được 10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12/5 đến 25/6/1919).

Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936, tài liệu dẫn trên) thì "làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc...".

Bài báo "kịch liệt quá" ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theo tìm hiểu của tôi, đó có thể là bài "Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị" đăng hai kỳ báo (LTTV. 14/5 và LTTV. 21/5/1919). Theo thông tin trong bài báo ấy, trước đó ít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lục tỉnh tân văn đã đăng toàn văn bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giả Chương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích có chỗ nói rằng: “chữ "Đông Dương tự trị" đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dương đối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu”, tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toàn quyền Sarraut nói "Đông Dương tự trị" là nhằm đòi thêm quyền cho mình chứ không phải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến Toà soạn Lục tỉnh tân văn cho là "kịch liệt quá" và buộc ông thôi cộng tác?

Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn của Phan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, nhận lời cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành.

Vài ba năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, chưa rõ từ thời điểm cụ thể nào, cũng chưa rõ khi vào có viết ngay cho tờ báo nào hay không; chỉ có nguồn tư liệu (theo Phan Cừ và Phan An, 1996, tư liệu đã dẫn) cho rằng, sau khi vào Nam lần này, vì một lý do gì đó, Phan Khôi phải dạt xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.

Theo tìm hiểu của tôi, thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933 hoặc 1934, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, Hà Nội báo): "Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam" (ta nên lưu ý điều này: bà Phan Thị Nga khi đó đang làm cho báo Tràng An ở Huế; bài báo của bà là kết quả hỏi chuyện trực tiếp Phan Khôi, khi đó đang làm chủ nhiệm tờ Sông Hương cũng ở Huế, nên nhiều điều trong bài có lẽ là ghi lại lời bộc bạch của chính Phan Khôi).

Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc "báo chí sử" Sài Gòn, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thích môi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giả khá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể ái đầy vơi,... lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứt hương thề đăng trên Thần chung từ 4/7/1929; đây cũng là một trong những tác giả cần được xét xem có phải là "tác gia Nam Bộ" hay không). Cuối năm 1927 hai ông hội đồng Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từ tay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếng Pháp Le Courrier Indochinois). Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhận xét rằng "hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo", biến nó từ chỗ "có khuynh hướng thân chính phủ" trở nên "có khuynh hướng đối lập" và "là tờ báo có rất nhiều người đọc".(2) Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắc vào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương văn hoá trong nội dung tờ báo, thì nhiều nhà nghiên cứu (Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Huỳnh Văn Tòng,...) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờ báo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, thì ít thấy nhà nghiên cứu nào ghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viết cho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thể gì hơn. Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này của chính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn: tất cả các bài đưa đăng Đông Pháp thời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII - XVIII, kể cả Nam âm thi thoại mà tên sách và những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-1919, kể cả bài thơ "Dân quạ đình công" làm từ sau "vụ án xin xâu" ở miền Trung hồi cuối thập niên đầu thế kỷ XX, v.v., tất cả, Phan Khôi đều ký tắt hai chữ C.D. – hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Nam phong hồi trước.

Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ "Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy", ĐPTB 28/8/1928; "Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp", ĐPTB 30/8/1928), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là "cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII"; cạnh đó là những bài cũng phản bác "cái thuyết châu Âu sắp tan nát" của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải "Âu hoá", phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại ("Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu", ĐPTB 26/7/1928; "Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát", ĐPTB 15/9/1928; "Tư tưởng của Tây phương và Đông phương", ĐPTB 27/9 và 2/10/1928; "Bác cái thuyết tân cựu điều hoà", ĐPTB 11/10/1928).

Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với Đông Pháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của "văn hoá đọc", khi mà trên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáo như là phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo. Vào dịp có một loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình, toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần do Chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh "Phụ trương thể thao" và "Phụ trương phụ nữ và nhi đồng".

Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng: sáng tác thơ ("Dân quạ đình công", ĐPTB 2/6/1928; "Cái chết của con nhà nghèo", ĐPTB 21/7/1928), bình luận văn học ("Cấm sách, sách cấm", ĐPTB 1/9/1928; "Thi văn với thời đại", ĐPTB 6/10/1928; "Văn chương và văn chương của nhà báo", ĐPTB 27/10/1928); khảo chứng ("Cái dốt cuả triều Huế", ĐPTB 8/5/1928; "Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử: ‘Hà Nội chánh khí ca’", ĐPTB 4/10/1928); giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài ("Cái thế lực của nhà văn hào", ĐPTB 5/6/1928 [nói về L. Tolstoy]; "Hồ Thích với Quốc dân đảng", ĐPTB 18/12/1928; "Ông Eroshenko, thi nhân mù nước Nga", ĐPTB 19/5/1928); dịch thuật văn chương (dịch bài "Quan về vườn", ĐPTB 5/5/1928 của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670]; dịch một số tác phẩm của Eroshenko; dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas-père và cho đăng đều kỳ như một cuốn "tiểu thuyết chánh trị").(3) Chính trên tờ Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã bắt đầu thử việc trong một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong tiểu mục "Câu chuyện hằng ngày" do chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một "mặt nạ tác giả" (4) hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại của nó gắn liền với kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí. Vai trò của Tân Việt trong "Câu chuyện hằng ngày" sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung. Trong việc tìm tòi cách viết hài đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Charles de la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le JournalL' Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời.(5)

Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báoThần chung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc "báo chí sử" Sài Gòn: theo khảo sát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phải vì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả mô tả, mà sự thể đơn giản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác. Nói rõ hơn, tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xin giấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thần chung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên: ông chấm dứt Đông Pháp thời báo từ ngày 22/12/1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫn tại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn với nguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7/1/1929, báo mới với nhan đề Thần chung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) ra mắt số 1. Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tên thành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thì lại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở báo khác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảy ra.

Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện thực đã xảy ra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quả theo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ở ngoài Bắc (22/3/1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toà soạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhà một vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc.(6)

Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục "Câu chuyện hằng ngày" dưới bút danh Tân Việt. Tôi đếm thử được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thần chung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần, nên "Câu chuyện hằng ngay" vẫn ở tình trạng "cách nhật". Nay nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủ nhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là "câu chuyện hằng ngày" với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài. Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi, chuyện các quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả khi cười cợt, khi nghiêm chỉnh.

Trên Thần chung, Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình từ 3/10/1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận "Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta", sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn.(7)

Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về vùng đất Tây Nguyên, về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v. Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò của Phan Khôi. Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30 nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗi bản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi), ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo.

Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930: tuần báo Phụ nữ tân văn. Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức được gọi là "đứng mũi chịu sào" (8) cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu Đào Trinh Nhất thường đảm nhận vai trò chủ bút thì Phan Khôi trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài viết của ông đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ (nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ) trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2/5/1929 đến 21/4/1935.

Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài để viết cho hợp với nhãn một tờ báo mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Hoạt động báo chí đương thời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn mà còn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác động đến xã hội, tạo ra những chuyển biến trong nếp sống. Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương giải phóng phụ nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết ("Việt Nam phụ nữ liệt truyện", PNTV 2/5/1929; 13/6; 4/7; 1/8; 8/8; 15/8; 12/9/1929; "Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do", PNTV 12/9/1929; "Chữ trinh: cái tiết với cái nết", PNTV 19/9/1929; "Luận về phụ nữ tự sát", PNTV 26/9/1929; "Chuyện bà cố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam)", PNTV 17/10/1929; "Nữ công", PNTV 24/10/1929; "Hoàng đế với phụ nữ", PNTV 9/1/1930; "Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình)" PNTV 1/5/1930; "Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ", PNTV 8/5; 15/5/1930; "Thân oan cho Võ Hậu", PNTV 22/5/1930; "Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi", PNTV 21/5/1931; "Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh", PNTV 4/6/1931; "Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay", PNTV 18/6/1931; "Lại nói về tam cang với ngũ luân", PNTV 2/7/1931; "Tống nho với phụ nữ", PNTV 13/8/1931; "Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu", PNTV 20/8/1931; "Vấn đề cải cách cho phụ nữ", PNTV 28/1/1932; "Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan", PNTV 7/7; 21/7/1932; "Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng?", PNTV 14/7/1932; "Thanh niên với tổ quốc", PNTV 13/10/1932; "Câu chuyện lấy vợ đầm", PNTV 6/12/1934)... Ở khía cạnh văn học, Phan Khôi đã nhân chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thử nêu các khía cạnh: văn học của các tác gia phụ nữ ("Về văn học của phụ nữ Việt Nam", PNTV 2/5/1929; "Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thịnh", PNTV 2/5/1929), và văn học về đề tài phụ nữ ("Văn học với nữ tánh", PNTV 9/5/1929; « Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh", PNTV 6/6/1929; "Cái tánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra", PNTV 23/5/1929; "Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta", PNTV [11 kỳ] từ 30/5 đến 29/8/1929, v.v.).

Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong ("Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim", PNTV 29/5/1930; "Cảnh cáo các nhà học phiệt", PNTV 24/7/1930), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,... lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn được đông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả,...Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người anh rể là Lê Dư trong chuyện "nước ta có quốc học", mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử và lịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (PNTV 29/11/1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13/12/1934).

Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v.), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với nhiều loại việc, từ việc đề xuất "viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng"(PNTV 12/6/1930), "đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam" (PNTV 26/6/1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc ("Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi", PNTV 11/6/1931), đến việc phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24/3/1932),... Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong là "vai ngự sử trên đàn văn". Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu "tạp trở" về đủ thứ chuyện cổ kim đông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn [từ 23/10 đến 30/11/1930] đến hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò "thày đồ" dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề "Hán văn độc tu" [phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre] của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18/8 đến 29/12/1932, sau nữa Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37).

Ở phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại ("Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật", PNTV 30/7/1931; "Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký", PNTV 23/6/1932; "Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan", PNTV 15/9/1932; "Cái địa vị khôi hài trên đàn văn", PNTV 3/11/1932; "Sử với tiểu thuyết", PNTV 1/12/1932; "Lối văn học của bình dân", PNTV 15/12/1932), về văn chương và nghề văn nói chung ("Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân", PNTV 4/2/1932; "Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích", PNTV 18/8/1932; "Cái bịnh ăn cắp của Tàu", PNTV 1/9/1932; "Văn học chữ Hán của nước ta", PNTV 22/9/1932; "Sách tiếu lâm đời xưa", PNTV 22/12/1932).

Tất nhiên trong số đó ta không thể quên bài báo "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" (PNTV 10/3/1932), bài báo được coi như lời phát động cho phong trào Thơ mới tiếng Việt (1932-45), mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ XX. Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc, sau suốt ba bốn chục năm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lại một cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong trào cách tân văn học này. Thế nhưng, nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôi gắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh (9) đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi "duy tân","cải lương"trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại một cách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn những năm 1929-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trong những cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổi trong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trong đó có phong trào Thơ mới. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn học sử và văn hoá sử Việt Nam thấy nhận định này là hữu lý.

Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một số hoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao "học bổng phụ nữ" cho học sinh đi du học sang Pháp.

Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập.

Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, sđd.) xếp nó vào loại báo thiên về thông tin thương mại, "tự nhận mình không làm chính trị, đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, có chủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyền thuộc địa" (sđd., tr.398). Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri de Lachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vào chính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26, cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg (theo Huỳnh Văn Tòng, sđd., tr. 411). Có những thời kỳ, Trung lập báo bị các đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó là Nguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệm Phan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu du học Pháp trở về... Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bút danh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báo và Thần chung từng không ít lần châm chọc Trung lập.

Vậy mà tới giữa năm 1930, cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ lại đến với tờ Trung lập. Có điều gì xảy ra đây?

Trước tiên phải kể tai nạn đột ngột xảy ra với tờ Thần chung, việc tờ này bị đóng cửa dẫn đến sự chia lìa của nhóm nhà báo trẻ cấp tiến từng quần tụ nhau quanh tờ báo này. Chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ vẫn còn là chủ nhà in Bảo Tồn, lại hành nghề luật sư; chủ bút Nguyễn Văn Bá thì sang làm chủ bút Công luận báo nhưng lúc làm lúc bỏ, vì khi nào ông này để cho ngòi bút ngả theo ông chủ tờ báo là Jules Haag thì liền bị các đồng nghiệp người Việt chế nhạo; rút cuộc đến 1932 thì hai ông chủ cũ của Thần chung trở thành hai ông chủ mới của tờ Công luận đã đổi chủ. Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn rồi làm chủ bút Đuốc nhà Nam, Ngô Tất Tố trở về Bắc với các tờ báo ở Hà Nội. Hai cây bút quê Quảng Nam là Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi thì bước sang Trung lập.

Khi khảo về quan hệ của các nhóm tài phiệt với báo chí Đông Dương đương thời thuộc Pháp, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng có đưa ra ví dụ nhóm tài phiệt Octave Homberg mua các tờ ImpartialTrung lập rồi về sau bỏ rơi khi nhà tài phiệt này trở về Pháp kinh doanh và bước vào chính trường; sự "bỏ rơi" này được nhà nghiên cứu xem là nguyên nhân dẫn đến chỗ tờ Trung lập thua lỗ và phải đóng cửa vào năm 1933 (sđd, tr. 409-413). Từ sự tìm hiểu của mình, tôi cho rằng nếu sự "bỏ rơi" kia là sự thực thì vẫn cần tìm hiểu thêm về hoạt động của giới quản trị và kinh doanh báo chí người Việt đã tiếp thu và duy trì các tờ báo ấy, chính điều này tạo ra diện mạo cụ thể của những tờ báo đã đổi chủ; và đây là trường hợp của cả tờ Trung lập lẫn tờ Công luận ở Sài Gòn trong những năm 1930.

Về trường hợp tờ Trung lập. Từ 13/8/1929, vai trò Tổng lý (directeur propriétaire) Trung lập báo chuyển từ Nguyễn Phú Khai sang Trần Thiện Quý tự Tôn Hiền. Những điều được toà soạn thông tin trên mặt báo và những biến chuyển thể hiện qua tin tức bài vở đăng ra cho thấy Trần Thiện Quý đã mua lại tờ báo này và đổi nó thành tờ báo khác, có khuynh hướng dân tộc rõ rệt so với tờ báo cũ tuy vẫn mang tên như cũ.(10) Chẵn một năm sau ngày 2/5/1929 (ngày khai sinh tuần báo Phụ nữ tân văn), báo giới Sài Gòn lại nhấn vào cái ngày đáng nhớ này bằng một việc mà họ cho là cũng sẽ đáng nhớ khác nữa, ấy là việc đúng ngày 2/5/1930 chính thức ra mắt tờ Trung lập đổi mới, tuy không ghi chú "bộ mới" hay "tục bản", không đánh số lại, chỉ khai trương một manchette mới (chữ "trung lập" màu đỏ với các nét cách điệu hình thân và cành lá thông) và một bộ biên tập mới, do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (rédacteur en chef). Phan Khôi vẫn giữ nguyên tắc riêng của ông là chỉ cộng tác viết bài chứ không ở trong toà soạn, tuy có lúc bài ông viết được đăng với tên ký Trung Lập tức là ký tên toà soạn.

Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng ở bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm "Những điều nghe thấy" mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục "Những điều nghe thấy".

Ở trên nhân nói về chuyện Phan Khôi vào vai Tân Việt trong "Câu chuyện hằng ngày" ở Đông Pháp thời báoThần chung, tôi có dẫn khái niệm "mặt nạ tác giả", một khái niệm dầu sao cũng mang dấu tư duy Tây phương, trỏ một thứ "thi pháp" của cái "tôi" trong vai lệch ở tản văn; tiếp đây xin thuật thêm một sự việc thực mà hoá ra lại liên quan đến khái niệm ấy. Đó là từ giữa năm 1932, sau khi "Hội chợ Phụ nữ" ở Sài Gòn do báo Phụ nữ tân văn và hội Dục Anh Sài Gòn đồng tổ chức kết thúc, những lời phàn nàn về một vài xử sự không hay của Nguyễn Đức Nhuận (chủ báo Phụ nữ tân văn) đã từ bé xé ra to, lời qua tiếng lại đến mức đưa nhau ra toà. Một nửa báo giới Sài Gòn do Tổng lý Trung lập Trần Thiện Quý và Chủ nhiệm Sài thành Bút Trà dẫn đầu hăng hái lên án vợ chồng chủ báo Phụ nữ tân văn; còn vợ chồng chủ báo ấy thì đưa đơn ra toà kiện hai tờ Sài thànhTrung lập về tội phỉ báng. Tình thế ấy khiến Bùi Thế Mỹ, người lên tiếng bênh vực chủ báo Phụ nữ tân văn lúc sự việc mới phát lộ, phải từ chức chủ bút Trung lập ra đi. Phan Khôi được tiếng là người thân thiết với chủ báo Phụ nữ tân văn, cũng không còn ký tên mình đăng bài trên Trung lập nữa. Trên vài tờ báo khác lúc đó đã thấy đăng những ý kiến trách Trần Thiện Quý đã để cho cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ bỏ Trung lập ra đi. Thế nhưng Thông Reo với chuyên mục "Những điều nghe thấy" thì vẫn xuất hiện đều đặn trên chính tờ Trung lập cho đến tận số cuối cùng, trước khi báo này đột nhiên bị cấm; và đáng lưu ý là Thông Reo cũng có những bài đồng tình với phe nhà báo lên án chủ nhân Phụ nữ tân văn là "con buôn hám lợi". Vậy là chính nhờ "mặt nạ tác giả" đó, trang viết của Phan Khôi vẫn có thể xuất hiện ở những tờ báo mà tình thế và thời điểm khiến họ tên thật (vốn đi liền với nhân thân thật) của ông không thể hoặc không nên xuất hiện (Xin nói thêm: chuyện "mặt nạ tác giả" nói ở đây là chuyện nghề nghiệp hơn là chuyện đạo đức).

Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập - Đuốc nhà Nam xoay quanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến giấu mặt im lặng...). Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽ nói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra. Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến...) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng (bắt đầu từ bài "Ý kiến Trung lập: Phải nói minh bạch", TL 20/6/1930, qua một loạt bài: "Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử?", TL 21/6/1930; "Trung lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu", TL 23/6/1930; "Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào?", TL 24/6/1930; 4 bài nhỏ: "Ai nói dối?"; "Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long"; "Trung lập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ"; "Kiến hiền tư tề yên" đều in trên Trung lập ngày 25/6/1930, v.v. đến loạt bài "Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi" [kỳ I - IV] từ 26/6/1930 đến 30/6/1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ ("Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ", từ kỳ I, 2/7/1930, đến kỳ XIII, 25/7/1930, với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,...). Đó là những bình luận xã hội chính trị mà về nội dung thì những người nghiên cứu lịch sử hiện đại có lẽ có thẩm quyền đánh giá hơn những người nghiên cứu về văn học sử hiện đại. Chỉ xin lưu ý rằng năm 1929, chính Phan Khôi trên báo Thần chung đã có bài luận về bút chiến (không ký tên tác giả, nhưng tôi đoán là do Phan Khôi viết); có thể nghĩ rằng ông cũng mong có dịp thực hiện một cuộc bút chiến đúng như ông hình dung trong ý niệm. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Những gì diễn ra có lẽ không thật giống với hình dung thuần ý niệm, tuy Phan Khôi giữ nguyên tắc của mình. Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12/7/1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài "Viếng mộ ông Lê Chất" của Phan Khôi rồi viết rằng "người mình có cái tật "vì người mà bỏ lời nói" nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến", tức là mượn một câu ở sách Luận ng» để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới về mình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây, Phan Khôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là "đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo", "làm xấu trong trường ngôn luận" ("Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm Đuốc nhà Nam", TL 19/7/1930; "Một sự buồn trong báo giới", TL 21/7; 24/7; 1/8/1930).

Xin kể thêm một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bài báo đăng 4 kỳ nhan đề "Vấn đề cải cách" (TL 9/8; 12/8; 13/8; 18/8/1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: "muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước"; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.

Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được "Phụ trương văn chương", thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởi đầu vào đúng ngày 2/5/1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làm báo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2/5/1931 đến 29/5/1933 ra được cả thảy 104 kỳ. Ở mỗi kỳ, ngoài những mục như "Văn uyển" đăng sáng tác thơ, mục "Giấy thừa mực vụn" đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có một lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam (ví dụ bài "Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam" của Bùi Kỷ từ PTVC số 8: 20/6/1931, đến PTVC số 13: 25/7/1931), nêu các vấn đề mang tính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như "đạo văn" (Cao Minh Chiếm PTVC số 41: 13/2/1932, "tố giác cái án đạo văn" nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác; Mai Lan Quế PTVC số 47: 26/3/1932 nhận thấy họ Cao nghiệt ngã vô lý, đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi PTVC số 48: 2/4/1932 giải rõ những trường hợp ấy không phải là "đạo văn"), hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá, v.v.(11) Chính ở "Phụ trương văn chương" số 2 (TL 9/5/1931) một tác giả ký T.S. đã nêu vấn đề lý thuyết về "nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh" (chứ không phải đợi đến Hải Triều với những cuộc tranh luận sau này vào năm 1936). Nhân nói về phụ trương này, phải kể đến sự đóng góp của một cây bút khác cũng đến từ xứ Quảng là Phan Thứ Khanh, người đã có khá nhiều bài giới thiệu các nội dung lý thuyết mới về văn nghệ như: văn học và quốc dân tính, văn học tiến hoá với sự biến thiên của xã hội, văn học với cách mạng, văn học bình dân, khái niệm "trào lưu", về chủ nghĩa tả chân của Zola và Flaubert, nguyên lai tiểu thuyết Tàu và tiểu thuyết thời Đường, xuất xứ các bộ Thuỷ hử, Tam quốc, Tây du, lược qua về bộ Kim Bình Mai, v.v. Đây cũng là một trong số những tác giả đang bị quên lãng cả ở Sài Gòn đây lẫn ở quê gốc của mình.

Phần văn học Phan Khôi góp mặt với Trung lập cũng gần với các bài loại này ông đăng Phụ nữ tân văn. Thường thì một bài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược lại, và cũng có trường hợp đăng đồng thời cả trên hai tờ đó (thậm chí nhiều tờ khác cũng đăng lại), chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về "quốc học" với Lê Dư, v.v. Riêng ở Trung lập, Phan Khôi còn có những bài về ngôn ngữ, về thể loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người chê bai lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộ Việt Nam tân tự điển của Hội Khai trí Tiến đức, v.v. Ông không chỉ thường xuyên có bài về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật, giới thiệu văn hoá Trung Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệu Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải (PTVC số 36: 31/12/1931; số 37: 9/1/1932). Phụ trương văn chương của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi trích dịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại của Viên Mai, v.v. Nhân đây cũng cần nhắc lại rằng hầu hết các bài trong mục "Những điều nghe thấy" chính là một dạng sáng tác của văn chương báo chí; không có báo chí thì không có đất sống cho loại tản văn này; ngoài ra, trong khá nhiều loại để tài mà các bài trong mục này đề cập cũng có nhiều bài về văn chương nghệ thuật, khá nhiều bài bàn đến văn chương Truyện Kiều, đến các sáng tác đương thời.

Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tác với một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Một trường hợp đã biết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôi chỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung Hoa Ngô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái; sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài "Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử" của ông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Sau này, vào năm 1939, trên tờ Tao đàn ở Hà Nội, Phan Khôi viết rằng khoảng 1928 ông từng đăng bài với bút danh Khải Minh Tử trên Hoa kiều nhật báo nói về văn học chữ Hán của người Việt.(12) Riêng về thông tin này hiện vẫn chưa có kiểm chứng trên tư liệu.

Trên đây là sơ lược về hai thời kỳ Phan Khôi tham gia báo chí văn chương tại Sài Gòn. Giữa năm 1933, ông ra Bắc cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Phụ nữ thời đàm. Giữa năm 1934, ông vào Huế cộng tác với tờ Tràng An, rồi sáng lập và điều hành tờ Sông Hương, tờ báo tư nhân đầu tiên mà ông là chủ trong đời mình. Năm 1937, sau khi nhượng tờ Sông Hương ở Huế này cho nhóm cộng sản của Phan Đăng Lưu, theo một nguồn tài liệu (Phan Cừ, Phan An, 1996, sđd.), Phan Khôi lại vào Sài Gòn, nhưng không biết ông có cộng tác với tờ báo nào tại đây hay không. Do đó cũng chưa rõ ông có một thời kỳ thứ ba làm việc với văn chương báo chí Sài Gòn nữa hay không? Tôi chưa tìm hiểu được kỹ điều này nhưng ngờ rằng không có.

3. Trở lại điều nêu ở phần đầu bài này. Rõ ràng là Phan Khôi có thời gian làm báo viết văn tại Sài Gòn, tức là tại Nam Kỳ (nay ta dùng từ "Nam Bộ"). Hoạt động văn chương báo chí ấy của ông (ở đây chưa kể đến hoạt động văn chương báo chí của ông tại các nơi khác) chẳng những để lại dấu ấn tại đây mà còn có tiếng vang và ảnh hưởng đến tiến trình chung của văn học Việt Nam trên quy mô cả nước. Vậy thì, từ góc độ văn học sử, khi tập trung vào một quy mô nhỏ, ở đây là quy mô vùng văn học Nam Bộ, các nhà nghiên cứu có nên tính đến hoạt động của những "cây bút nhập cư" như Phan Khôi (và không chỉ có Phan Khôi) hay không? Nếu loại bỏ không kể đến những "cây bút nhập cư" đã đến, sống và viết ở đây, thì đời sống văn học thực diễn ra ở đây có vì vậy mà trở nên nghèo nàn hơn thực tế đã có hay không?

Hà Nội, tháng Ba 2006

(1) Phan Thị Nga: "Lối tự học của những bực đàn anh nước ta: [kỳ 1] Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận Lý". Hà Nội báo, Hà Nội, s. 10 (11 Mars 1936); Phan Cừ & Phan An: "Phan Khôi niên biểu" [trong sách] Chương Dân thi thoại (tái bản), Đà Nẵng 1996; Nxb. Đà Nẵng, tr. 152-163.

(2) Huỳnh Văn Tòng: Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Tp HCM; Nxb TP HCM, 2000, tr. 185.

(3) Chi tiết hơn xin xem trong Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1928, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Đà Nẵng; Nxb. Đà Nẵng, 2003.

(4) Khái niệm "mặt nạ tác giả" [maska avtorskaja] được một số học giả Nga định nghĩa như phương thức mà nhà văn dùng để che giấu nhân thân của mình nhằm tạo nên ở độc giả cái hình ảnh một tác giả khác hẳn (so với dạng thực có); đây là thủ pháp chính của mê hoặc (mistifikacija) trong văn chương (theo O.E. Osovsky, Maska Avtorskaja / Mặt nạ tác giả / trong sách: Literaturnaja Enciklopedija Terminov i ponjatij, A. N. Nikoljukin tổng chủ biên, Moskva: HPK "Intelvak", 2001, tr. 511-512).

(5) Về hai nhà báo và nhà văn Pháp này, mới đây dịch giả Trần Thiện Đạo từ Paris đã tra cứu và thông tin về, cho biết: Georges [chứ không phải Charles] de la Fouchardière (1874-1946) năm 1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập tờ L' oeuvre (Xây dựng), viết liên tục 15 năm những bài luận bàn thế sự với giọng hài hước hóm hỉnh, thu hút đủ loại độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến 1939-45; Clément Vautel (1876-1954; tên thật Clément Vaulet; trong bút danh đảo let thành tel): viết cho các báo ngày ở Paris như Le Matin, La Liberté..., đặc biệt giữ mục "Mon film" (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cái nhìn rất "phải lẽ" của một "français moyen" (thường dân), được độc giả đương thời hâm mộ; ngoài ra còn là tác giả một số tiểu thuyết; cũng là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến II. Xin chân thành cảm ơn dịch giả Trần Thiện Đạo về những thông tin trên.

(6) Xem: Vương Lệ Thiên: "Thỏ chết động lòng chồn (Tại sao báo Thần chung bị cấm xuất bản?)", Trung lập, Sài Gòn, 27/3/1930; Phan Khôi: "Có lẽ là điều sai lầm của những người trí giả", Trung lập, Sài Gòn, 10/5/1930.

(7) Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng; Nxb. Đà Nẵng, 2004.

(8) Tin: "Phụ nữ tân văn bị đóng cửa 5 tháng", Trung lập, 14/5/1931.

(9) Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (1865-1932), [in lại có sửa so với bản in lần đầu 1975], Tp. HCM; Nxb. TP HCM, 1992, tr. 235

(10) Chi tiết hơn xin xem: Tiểu dẫn [trong sách] Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1930, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội; Nxb. Hội Nhà văn, 2005, tr. 8-14.

(11) Xem thêm Lại Nguyên Ân: "Vài tư liệu về việc Vũ Trọng Phụng bị gọi ra toà năm 1932", Tiền phong, 5/11/2005; Thế giới mới, s. 660 (7/11/2005).

(12) Phan Khôi: "Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta", Tao đàn, Hà Nội, s. 1, 1 Mars 1939, tr. 13-18; s. 2, 16 Mars 1939, tr. 107-114; dẫn theo Sưu tập trọn bộ TAO ĐÀN 1939, Nguyễn Ngọc Thiện và Lữ Huy Nguyên sưu tầm, Hà Nội; Nxb Văn học, 1998.