Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 11 tháng 11, 2021

Mênh mông chật chội… (3)

Lại Nguyên Ân

TẢN MẠN VỀ CÂY TRONG PHỐ

Quan sát thú chơi hoa cảnh của người xứ mình, càng ngày trong tôi càng củng cố cái nhận xét cho rằng người xứ mình có một sự yêu thích khác thường đối với các giống hoa cảnh xứ lạ, nhất là xứ lạnh. Cố nhiên bạn đọc có thể phản bác tôi và tôi cũng sẵn lòng tự phản bác mình, rằng thú chơi phong lan chẳng hạn, chẳng là gắn với loài thực vật xứ nóng, đặc trưng của rừng nhiệt đới đấy ư? Dẫu vậy, tôi nghĩ, sự yêu thích hoa cảnh ôn đới vẫn là một nét đặc trưng trong thú chơi hoa cảnh của người xứ mình.

Vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng vì lãnh thổ nước mình nằm ở vùng nhiệt đới nên các giống thực vật ôn đới khó trồng ở xứ mình; mà cái gì khó thì mặc nhiên trở thành quý hiếm?

Thú chơi thuỷ tiên và dịp Tết ta hẳn đã có rất lâu rồi. Chuyện thi gọt thuỷ tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa, chuyện mơ mộng bên mấy đoá thuỷ tiên…, − đã đi vào thơ văn. Vậy mà đến nay, giống này vẫn cứ luôn luôn là mặt hàng ngoại nhập, không gây giống được trên đất mình.

Chỉ dăm năm gần đây, trà mi các loại mới trở thành mặt hàng “đại trà” giá hạ dễ mua mà cũng tương đối dễ gây trồng, chứ cả một thời gian dài xưa kia, người chơi hoa xứ Bắc mình vẫn xem trà mi là giống rất hiếm quý. Đối với người Tây phương, trà mi (camélia) hình như cũng là loại hoa hữu danh; ta nhớ Dumas-Con (Dumas-fils, 1824-1895) đặt tên tác phẩm theo cái tên mà nữ nhân vật chính trong truyện được mệnh danh: La dame aux Camélias, ta vẫn dịch là Trà Hoa Nữ, tức là “Nàng Hoa Trà” vậy. Nếu ai có dịp đi lên các vùng từ vĩ độ 25o trở lên, ví dụ ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ…, sẽ thấy ở đó các loại trà mi có khi được trồng làm hàng rào, có khi được trồng làm cây vòm để cắt gọt cành là tạo thành những nấm xanh tròn nơi công viên, có khi chúng “tự mọc” gần như cây hoang, chẳng được chăm chút gì đặc biệt mà vẫn nở hoa suốt từ xuân qua hạ sang thu.

Có lần trong một công viên ở Sacramento (nơi đặt thủ phủ bang California, Mỹ), tôi ngạc nhiên nhận ra những cây mộc hương cao đến 4-5 mét nhưng lá và hoa thì vẫn với kích cỡ như lá hoa trên những cây mộc hương (aristoloche) thường được trồng trong các ngôi chùa làng xứ ta mà ta quen xem như loại cây bụi với chiều cao chỉ trên dưới 1 mét, và mùi hương thì hình như nồng hơn, trong trí nhớ của tôi. Vậy là mộc hương cũng có gốc từ xứ lạnh phương Bắc. Dẫu vậy, ở xứ ta nó lại được biết đến dường như kỹ lưỡng hơn. Tôi nhớ những năm 1960-70, thơ Xuân Diệu và Chế Lan Viên hay nhắc đến sắc thái lạ của hương hoa mộc

Mùi hương đạm ấy sao nồng

Ngỡ khuất sau làn ngõ biếc

Trong hồn thơm mãi vào trong

“Đạm” (chứ không phải “đậm”) ngược với “nồng” (“nồng”= đậm đặc); nhưng ngược với “nồng” mà lại không hàm cái ý “loãng”, “nhạt”; “đạm” gần với “thanh”, nó như trạng thái tự đủ trong cái thưa thoáng của mình. Qua hương hoa mộc, Xuân Diệu và Chế Lan Viên dường như muốn phát hiện cho mình nét gì đó thú vị nơi những tâm hồn nương mình chốn cửa Phật.

Nhắc đến hoa xứ lạ, tôi lại nhớ cả chặng đường từ lúc mình ngẫu nhiên nghe thấy cái tên lạ “hoa sen núi” hay là “đại liên sơn” đến chỗ tìm biết cái tên đã có từ lâu của nó: “magnolia”, “mộc lan”. Chẳng là dạo hè 1998, lúc vào thăm một ngôi vườn cạnh nhà sáng tác Đà Lạt, tôi được chủ vườn chỉ cho những cánh hoa rụng đã gần khô của một giống cây nghe nói khi ấy vừa được tìm thấy trong vùng rừng quanh Đà Lạt mà người ta tạm gọi là “hoa sen núi”, lại thêm một định danh Hán Việt tân tạo hơi lủng củng nữa là “đại liên sơn”, cốt ghi lấy đặc điểm những cánh hoa màu trắng lớn cỡ cánh hoa sen mọc trên cây thân gỗ. Hai năm sau, cũng dịp cuối hè đầu thu, tôi có dịp thấy thứ cây hoa như vậy ở khắp vùng từ bắc đến nam California (Mỹ); bạn bè người Việt cho biết tên nó là magnolia và đã được dịch từ lâu ra chữ Hán là mộc lan, tên cây chữ Việt cũng phiên âm tên chữ Hán này. Nhà một bạn người Việt của chúng tôi ở San Jose nằm trên phố mang tên giống cây này: Magnolia Avenue, tức là “phố Mộc Lan”. Lần ấy, ngay khi trở về Hà Nội, tôi vội viết điều này lên báo, nhắn các chủ vườn Đà Lạt nên trở lại dùng cái tên mộc lan cho giống cây hoa mới phát hiện là có trong vùng rừng ven thành phố nói trên. Điều thú vị là một nhà báo, chị Phạm Tâm Hiếu, đã cho tôi biết rằng thứ cây hoa mà tôi tả trong bài báo in kèm ảnh chụp ấy, ngay ở Hà Nội cũng có. Cây thứ nhất chị trỏ tận nơi cho tôi là cây magnolia trong khuôn viên chùa Kim Liên gần khách sạn Thắng Lợi. Từ mùa ấy, năm nào tôi cũng đến ngắm cây ít ra một lần, nhất là vào đầu hè, hoa nở rộ, những cánh hoa lớn như cánh hoa sen, trắng muốt, hiện diện trên cành cây thân gỗ lá to dày, cũng là nét khác lạ; hoa của loài mộc lan này cũng có hương, một mùi hương chưa quen nên chưa dễ gọi tên. Dần dà tôi tìm thấy thêm những “địa chỉ mộc lan” mới ở Hà Nội: cây mộc lan vươn cao từ trong khuôn viên chùa Lý Quốc Sư, khá nhiều cành lớn đương đeo bầu chiết cây, hẳn để dành biếu tặng những thiền từ phật tự nơi khác. Một lần theo du thuyền Hồ Tây ghé phủ Tây Hồ, chúng tôi cũng gặp một cây mộc lan nhỏ đang trổ hoa được trồng bên tường phủ, chỗ gần bể thiêu hương (cây này ít lâu sau đã được đem tặng nơi khác). Trên đất Hà Nội ít ra cũng có chừng 5-6 cây mộc lan; lớn nhất có lẽ là 2 cây mộc lan trước cửa Câu lạc bộ Ba Đình; cuối hè 2003 tôi còn kịp vào xem hoa vài ngày trước khi cả hai cây được di chuyển đi đâu đó nhường đất cho việc xây dựng. Nhưng cây magnolia có màu lá xanh đậm nhất (trong số những cây này có ở Hà Nội) là cây trong khuôn viên sứ quán Đức mà khách qua đường Điện Biên-Trần Phú nhìn vào có thể nhận ra, nhất là vào mùa cây trổ hoa, dịp cuối xuân đầu hạ.[1]

Cũng một chuyện hoa có gốc gác xứ lạnh là chuyện mùa đông vừa rồi Đại sứ quán Nhật Bản tặng cây giống hoa anh đào cho Hà Nội. Nhìn gần những cây anh đào cao chừng nửa mét được trồng chính giữa bồn cây rộng kiêm giải phân cách giữa hai chiều đường Liễu Giai, tôi có cảm tưởng đã gặp loại cây này đâu đó trên đất Việt; có lẽ là Đà Lạt. Ở độ cao trên 1200 mét so với mực nước biển, giống cây này có vẻ phát triển tốt. Đến Đà Lạt vào mùa hè, không được thấy cây này nở hoa, ta chỉ thấy cây lá mỡ màng xanh tốt, cây cao chừng 5-6 mét, có cây đường kính thân lớn chừng vài ba chục phân, với lớp vỏ sần sùi đặc trưng cho các giống đào mận. Mấy bạn sống ở đây cho biết có năm thuận, hoa nở từng chùm lớn rất đẹp, đầu hè lại được một lứa quả, loại quả nhỏ cỡ đầu ngón tay, cuống dài, người ta đã thử ngâm rượu; thứ rượu có vị gần với rượu ngâm đào, mận, mơ ấy, tôi đã được nếm. Chưa biết giống đào ấy có chính cống là anh đào sakura không, nhưng nghe người ta nói thì đó cũng là giống từ Nhật Bản, được đưa đến trồng ở đây từ hồi những năm 1960 (gần đây báo chí gọi loại này là mai anh đào, cũng không cho thấy gì rõ ràng hơn). Dưới các góc vườn trong thành phố Đà Lạt nhìn kỹ có thể thấy những cây con nảy từ hạt quả “mai anh đào” rụng mùa trước; những cây con nom rất khó phân biệt với các cây mận cây mơ nảy từ hạt ở các vườn nhà ngoài Bắc. Có lẽ trồng cây từ hạt sẽ chậm có cây trưởng thành nên hầu hết các cây mai anh đào nhỏ đang được trồng quanh hồ Xuân Hương ở thành phố Đà Lạt hiện giờ có vẻ đều là cành chiết từ cây lớn. Ở thành phố trên cao nguyên này có lẽ sẽ không xa lắm để trở thành hiện thực cái hy vọng một ngày kia việc đến đây ngắm mai anh đào nở sẽ trở thành nội dung các tour du lịch. Còn ở Hà Nội, đợi chờ anh đào nở trên đường Liễu Giai có vẻ còn khá xa vời. Một nhà ngoại giao người Nhật nhận xét với báo chí rằng khí hậu Hà Nội khá khắc nghiệt đối với loài cây này (hẳn ông muốn nói tới trên sáu tháng nóng bức mà loài cây này di thực đến đây sẽ phải chịu đựng, thích nghi), nhưng ông và cả chúng ta nữa, đều mong những cây anh đào này sẽ sống sẽ lớn sẽ trổ hoa trên đất cũ Thăng Long. [2]

Tiện thể tôi có nhận xét rằng các viên chức ngoại giao Nhật dường như khá chú ý đến chủng loại cây cối quanh khu họ ở. Dãy anh đào vừa nói trên nhìn thẳng vào cổng phía tây toà sứ quán; dọc phía đông khuôn viên toà sứ quán, bên trong tường rào được trồng các dãy cây ngọc lan, bên ngoài tường, dọc vỉa hè các phố Liễu Giai, Vạn Phúc được trồng khá nhiều cây hoàng lan; phía hè đường Vạn Phúc bên kia sứ quán, tình cờ chăng, có một gốc phượng vĩ hoa tím có lẽ là độc nhất ở Hà Nội, cùng một thứ phượng tím mà Nguyễn Quang Sáng đã đưa vào phim truyện, thứ phượng tím mà việc nhân giống thành công để trồng thành từng dãy trên phố Đà Lạt được báo chí đưa tin như một sự kiện văn hoá.

Chợt nhớ chuyện cuối thu năm nọ một thành phố nào đó dọc miền Trung phải cho chặt bớt các cây hoa sữa ở những đoạn mật đọ cây quá dày, mùi hoa nồng khiến người trong vùng không chịu nổi, tôi lại phải bừng tỉnh để xin nhắn các bạn Đà Lạt chớ có trồng phượng tím với mật độ quá dày quá thuần chủng trong một không gian hẹp. Vì sao ư? chả là vài bạn người Việt ở quanh vùng Los Angeles kể rằng ở một số đoạn đường trồng dày phượng tím, mùa hoa nở nhiều thì mùi hoa cũng gây phản cảm nặng cho khứu giác con người.

Tôi đang lan man về điều tôi cho rằng người xứ mình thích hoa cảnh xứ lạ. Sự ưa thích thiên lệch ấy có thể có lúc phải trả giá. Có một chuyện đã xảy ra với một người kinh doanh hoa cảnh cách nay vài ba năm, chừng như là vào đầu năm 2001, năm được coi là đích thực mở đầu thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ ba tính theo lịch của đạo Thiên Chúa; anh bạn trẻ thuộc loại “lãng mạn hoa kiểng” ấy dám mua từ Vân Nam về Hà Nội dăm gốc mẫu đơn tiên. Người Trung Quốc coi loài này là chúa của các loài hoa. Nhiều thế hệ hoạ sĩ Tàu từng thả ngọn bút vẽ mê đắm của họ theo vẻ đẹp trùng phức rực rỡ của giống hoa này. Thưở nhỏ, xem những phiên bản tranh Tàu, tôi cứ nghĩ đấy là họ vẽ theo hoa thược dược (một loại cây thân rau dễ trồng) rồi mơ mộng phóng đại tầm mức các tầng cánh của bông hoa đó lên. Những năm 1980, một lần trong phòng khách một khách sạn dưới chân núi Alatau (Kazakhstan) có đỉnh tuyết phủ giữa mùa hè, tôi lần đầu tiên trong đời nhìn thấy một cành thân gỗ với một bông hoa lớn có lẽ của loài hoa ấy mà người ta cho tôi biết dưới cái tên tiếng Nga là “pion”. Mãi đến gần giao thừa hai thiên niên kỷ, được ngắm cây thật nụ thật hoa thật, tôi mới tin cái đối tượng mô tả của các hoạ sĩ Trung Hoa kia là loài có thật. Đây cố nhiên không phải thứ mẫu đơn vốn có ở xứ ta, loại mọc hoang được gọi là bông trang ( thơ Ý Nhi: …bông trang dại vào mùa chín đỏ…), loại trồng vườn gọi là mẫu đơn với hai màu thường gặp là đỏ hoặc trắng, gần đây người ta gây được (hoặc nhập về) giống mới hoa lớn đỏ thắm hơn lá xanh đậm hơn. Đây là một loài mẫu đơn khác, tiếng Anh gọi là peony, tiếng Pháp gọi là pivoine; thân gỗ, lá chia ba thuỳ gần giống lá thược dược, nụ hoa lúc sắp nở cũng hơi giống nụ thược dược, cánh hoa nở ra cũng tương tự cánh hoa thược dược nhưng không khuôn phép như loài hoa nở ra trên cây thân rau nọ. Tôi ngờ rằng cành mẫu đơn trong truyền thuyết mà chàng Từ Thức đền giúp nàng tiên giả dạng người trần đi hội chùa Tiên Du vô tình làm gãy, − là mượn uy danh “chúa hoa” của loài cây lạ kia chứ không phải hoa mẫu đơn thường gặp nơi các chùa hoặc vườn nhà xứ mình. Đó, xin nhắc lại, là hoa của một loài cây xứ lạnh, không chịu nổi môi trường từ vài chục độ trở lên. Sau Tết năm ấy tôi mới biết anh bạn nọ bị lỗ vốn khá lớn vì mấy gốc mẫu đơn tiên nọ; chúng nở rất mau tàn cũng rất mau, không kịp bán cho dù là những người chơi hoa hào phóng nhất; cây hoa cũng không sống được không gây trồng được ở đất này, tương tự giống thuỷ tiên vậy. Đành an ủi người bạn trẻ: vụ lỗ lã này âu cũng nên xem như một trả giá, một kỳ tích về …tình yêu hoa lạ!

***

Bây giờ xin trở lại nói chuyện cây lá quen thuộc xứ mình.

Chẳng rõ việc trồng cây ở đô thị đã trở thành việc làm có quản lý, ít nhiều có quy hoạch, là từ khi nào? Phải chăng là từ thời có các toà Đốc lý, tức chính quyền quản lý đô thị thuộc địa của người Pháp? Chẳng rõ những thứ cây đã thân thuộc với phố xá như phượng vĩ, khuynh diệp, sao đen…có phải là những giống nội địa? Hay chúng, giống như cau châu Phi, bao báp châu Phi…đã được địa vực hoá (localisation) vào xứ ta, với bàn tay của các nhà canh nông thực dân? Cây cối vốn dĩ vô tổ quốc, ở đâu thích nghi được là chúng tồn tại, tự biến đổi ít nhiều mà tồn tại. Cây bách tán hẳn không phải cây xứ nóng, nhưng giới kinh doanh hoa kiểng ở ta bảo rằng loại bách tán do các chủ vườn Nam Bộ trồng ươm bán ra mới là loại bách tán to đẹp.

Cho đến bây giờ, chẳng rõ giới quản lý đô thị đã hoàn toàn chủ động trong chuyện cây trồng trên phố? Kinh nghiệm cho thấy việc chọn cây trồng trên vỉa hè các loại đường, − không phải là việc dễ dàng để có thể tuỳ tiện. Cây dễ trồng, mau lớn, tán lá rậm, tưởng thích hợp với phố xá nhiều nắng nóng, nhưng xà cừ lại là đáp án gây thất vọng. Các loại đa và si thường đòi không gian lớn, − khoảng đất rộng để cắm và lan các loại rễ, không gian tầm thấp để buông cành phụ rễ chùm, không gian tầm cao để toả rộng cành lá, − cho nên không dễ để bị sắp đặt vào bất cứ đoạn vỉa hè nào. Thế mà cây trên phố, cây trong khuôn viên các dinh thự lớn lại phải là cây có thể tồn tại lâu dài, dáng vóc dễ coi. Những giống cây có thể trở thành cổ thụ như thế, đối với đô thị miền bắc như Hà Nội chẳng hạn, chỉ có thể kể đến sấu, muỗm, long não…Chẳng biết có phải vì bí vì thiếu hiểu biết hay vì liều, mươi năm gần đây người ta cho trồng trên nhiều hè đường đô thị hoá gấp gáp những giống cây vốn chỉ đáp ứng yêu cầu phủ xanh đất trống đồi trọc, loại như keo tai tượng, keo lá chàm…, chỉ sau dăm ba năm cây đã già, đáng chặt đi để trồng mới rồi.

Trong chuyện thay cây trồng trên phố Hà Nội, có ai đó từng kể cho tôi một sự việc… ngoạn mục. Chả là đoạn đường Hùng Vương từ cuối những năm 1970 được nhất loạt trồng mới loại chò nâu lấy giống từ núi Nghĩa Lĩnh, Phú Thọ. Sau dăm bảy năm, không ít cây khô chết, người ta đồ chừng loại cây ấy không thích hợp với đất này. Những tìm kiếm lặng lẽ được tiến hành. Rồi một loại cây mới cũng lặng lẽ được đưa trồng thay những cây chò nâu khô chết. Ấy là một loại cây quen thuộc ở đất Nam Bộ: cây dầu nước. Điều ngoạn mục là cây dầu nước thoạt nhìn không khác gì cây chò nâu, chỉ nhìn kỹ mới thấy vòm lá xanh hơn và rậm hơn lại toả rộng hơn tuy ít vươn cao so với chò nâu; thử cầm hai chiếc lá chò nâu và dầu nước mà so đọ thì nếu không là chuyên gia chắc không thể nhận ra sự khác biệt. Đến bây giờ, chừng như cây dầu nước đang có mặt kề cận chò nâu ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh rồi!

Cùng trên đề tài chọn cây trồng trên hè phố, dọc các quốc lộ, tỉnh lộ…, tôi nhớ một lần được nghe một lý thuyết gọi là “bản địa hoá” cây trồng, theo đó, thay vì chọn trồng các giống cây từ xứ lạ theo kiểu “quốc tế hoá”, người ta khuyên nên chọn nhân giống và trồng ở vùng mình những loài cây từng có lâu đời tại mỗi địa phương. Chẳng biết thuyết này đúng tới đâu, nhưng nó xui tôi nhớ đến những loài chắc hẳn là vốn có từ lâu ở xứ mình. Cây ruối thuộc giống ruối đã có thể trở thành cổ thụ như ở Đường Lâm, Sơn Tây, không hiếm gì trong vùng Hà Nội; có ai tính trồng ruối làm cây trên hè đường? Cây thị với khả năng gợi liên tưởng tới tích Tấm Cám, liệu có thể cho nó đứng trên hè phố như từng đứng trong vườn trong làng? Cây hoa gạo hẳn là rất thích hợp để trồng ven các quốc lộ, tỉnh lộ, trồng cả cho những hè đường trên các phố rộng nữa, nhưng mấy chục năm nay, các sở nông lâm chưa bao giờ nhân giống cấp giống cây này. Tiết cuối xuân đi ra ngoại ô, thấy hoa gạo ngày một thưa vắng, ta bỗng vừa nhớ vừa lo. Lại chợt nhận ra rằng cây gạo bên Hồ Gươm có mặt trong những tấm bưu ảnh chụp từ cuối thế kỷ XIX nay vẫn còn đó nhưng già cỗi lắm rồi, thế mà quanh hồ chưa thấy có cây gạo nào khác được trồng thêm; nỗi lo đâu phải vô cớ? Có một lần ở một tiệm trà trên phố Bolsa (trong quận Cam, bang California, Mỹ), gặp một sư thầy người Việt vừa từ Paris qua Mỹ; vị tu hành trẻ này hỏi tôi: hoa gạo là hoa thế nào, cách trồng nó ra sao, có thể gởi hạt sang đây để trồng trên đất Cali này chăng? Chẳng ai dám bảo cây gạo hoa gạo (chữ Pháp kapokier, chữ Hán mộc miên) là của riêng đất mình, nhưng những gợi nhớ về các cuộc hành hương bất chợt gặp hoa gạo giữa đường, bóng cây hoa gạo cao cao đầu làng thấp thoáng trong các hồi ức quê hương…; thế thì việc người gốc Việt ở ngoài nước chọn hoa gạo để tạo một dấu hiệu quê hương cho vơi nỗi sầu xứ giữa nơi đất khách quê người, sự lựa chọn ấy hẳn không phải là vô lý.

Năm trước có một vài nhà báo nêu một việc mà các anh gọi là nạn “tàn sát lộc vừng”. Sự việc được các anh nêu từ thực tế miền Trung, nhưng ngay giữa Hà Nội ta cũng có thể thấy dấu hiệu của sự triệt phá và thu gom giống cây này, khi mà hằng ngày các chợ cây cảnh các xe đạp thồ bán tràn ngập các cỡ cây lộc vừng từ lớn tới nhỏ, khi mà các loại nhà hàng ăn uống ở khắp nơi trên đất Bắc hễ có khuôn viên rộng là trở thành nơi trưng ra chen chúc những “cổ thụ lộc vừng” với những thân gốc lớn khác thường, với hẩu hết các cành lớn bị cắt xén, cành nhỏ bị gọt tỉa…nếu có đẹp cũng là một cái đẹp tội nghiệp…Lộc vừng là giống chỉ có trong tự nhiên, chưa có sở nông lâm nào nhân giống cấp giống cây này; tất cả những cây lộc vừng hiện trở thành hàng hoá kia đều là bị khai thác từ mọi sườn đồi bờ suối các miền. Chiều theo thị hiếu thị dân, hầu hết các cây lộc vừng khai thác được đều bị ép xác lại thành “bonsai”, thu gọn vào chậu cảnh. Trong khi ấy các công viên có hồ ở Hà Nội chẳng hạn, lại rất hiếm chỗ có cây lộc vừng! Người ta thi nhau chụp ảnh, làm thơ về gốc lộc vừng cổ thụ bên Hồ Gươm, Cái gốc lộc vừng ba thân chĩa ra Hồ Gươm, sau khi Nguyễn Tuân mô tả mùa hoa “xuân thu nhị kỳ” của nó, phát hiện nó cho công chúng văn học trong một bài bút ký thời chiến; từ đó tới nay có biết bao người chụp ảnh làm thơ “ăn theo” nhà tuỳ bút họ Nguyễn, có điều họ đều quên nói với mọi người cái thực tế rằng đấy hầu như là cây lộc vừng độc nhất ở các công viên Hà Nội, rằng cây đó đã quá già. Trong khi lộc vừng ngày càng đầy chật trong mỗi tư gia thì ở các công viên dọc các đường phố vẫn khó thấy bóng lộc vừng. Đây là thứ cây của bờ suối đất phèn, cây của những bờ ruộng ngập nước đồng chiêm miền Bắc.

“Con bói cá đậu cành lộc vừng rình con tép mại” trong trí tôi thoảng nhớ câu thơ ai đó viết về đồng chiêm miền Bắc.

Có lần bạn tôi khoe chậu cây lớn lộc vừng vừa mua được, tôi nửa đùa nửa thật bảo: Nếu tôi có quyền, tôi sẽ cho thu mua tất cả các cây “bonsai” lộc vừng trong thành phố, giải phóng chúng khỏi khung chậu chật chội, đem trồng ven các hồ trong thành phố; dăm năm nữa, Hà Nội sẽ có thêm nhiều điểm công cộng ngắm hoa lộc vừng!

Được tiếng là thành phố nhiều cây xanh, nhưng ở Hà Nội hiện có quá ít chỗ công cộng được thiết kế dành cho người ta đến ngắm cây ngắm hoa, quá ít loài cây loài hoa được dành để ngắm nhìn nơi công cộng. Hình như chưa có công viên nào ở Hà Nội dám làm cái việc không đến nỗi khó là trồng thành một vùng chừng vài chục cây đào theo lối tự nhiên, nghĩa là không xén tỉa, tạo thành rừng nhỏ, để mùa hoa sẽ thành nơi cho du khách thưởng lãm, chụp ảnh. Trí tưởng tượng của các kỹ sư làm việc ở các công ty công viên có vấn đề chăng, hay có điều gì khác? Khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật từng có dăm bảy cây đào cổ thụ như thế, nhưng nay thì đã bị chặt bỏ hết rồi. Phong lan các loại, hoặc lấy từ rừng hoặc sản xuất từ các trang trại thì luôn luôn có bán đầy các chợ, nhưng người ta thường chỉ mua về bày ở nhà riêng phòng riêng, rất hiếm công viên công thự có trồng phong lan, dù có cây lớn, dư chỗ cho các loài phong lan rừng đeo bám. Trường hợp mấy chùm phi điệp tím nhạt mỗi mùa vẫn từ mấy cành gội cao buông xuống, như ở vườn Thư viện Quốc gia, có lẽ là chuyện ngẫu nhiên.

Ở xứ ta, đô thị đang tăng dần tỉ trọng về diện tích, về dân số. Không gian đô thị không phải là không gian làng xã; thiên nhiên, cây cối, tức là phần không gian tự nhiên, sẽ bị thu hẹp đáng kể trong không gian đô thị. Phải tổ chức ra sao cái không gian bị thu hẹp ấy để con người sinh ra và lớn lên trong các đô thị vẫn còn được giao tiếp, được thụ hưởng cái thiên nhiên tự nhiên dù đã bị thu hẹp kia? Điều mà các chuyên gia xây dựng và quản lý đô thị quan tâm theo cách của họ, suy cho cùng, cũng là mối bận tâm của người viết những dòng tản mạn này, cố nhiên, theo cách của mình.

Tuần đầu tháng Giêng 2004

------

[1] Ghi thêm (2007): Năm 2006, khi đọc một bài trên Tuổi trẻ cuối tuần (Tp. HCM, số 19/2006) rằng tại khuôn viên chùa Bối Khê ở Hà Tây cũng có thứ cây hoa tương tự mà tác giả bài đó tạm gọi là “hoa sen kỳ lạ”, tôi cũng đã đem kinh nghiệm của mình ra đính chính với bạn đọc của báo ấy. Lại nữa, mùa hè 2007, có dịp đi theo tour du lịch đến Thượng Hải, Hàng Châu (Trung Quốc), tôi thấy ở vùng này có rất nhiều cây magnolia, nhưng người Trung Quốc lại gọi nó là “ngọc lan”. Trong khuôn viên toà nhà được gọi là “dự viên”, cũng được gọi là miếu thành hoàng ở Thượng Hải, có một khoảng sân trồng một cây “ngọc lan” ấy (có chú tên latin là “magnolia grandiflora” cùng với tên chữ Hán “ngọc lan”) gần một cây ngân hạnh (ginkgo bloba, cây này còn được gọi là bạch quả), cả hai cây đều trên 200 năm tuổi, được xem như một cặp đôi mang biểu tượng nam nữ chung tình. Vậy là chuyện tên gọi cũng không dễ thống nhất. Tôi thấy, hoa magnolia tuy cỡ lớn nhưng lại có cấu tạo khá giống hoa ngọc lan ở miền Bắc Việt Nam; lá magnolia dày, mặt trên xanh đậm, mặt dưới ánh mịn nhung nâu, còn lá ngọc lan xứ ta thì hơi mỏng hơn, màu xanh cũng nhạt hơn.

[2] Ghi thêm (2007): dãy cây anh đào này chỉ còn lại khoảng 12-13 cây, đến trước lúc Hà Nội tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC (tháng 10/2006), đã được chuyển khỏi dải phân cách giữa hai chiều đường Liễu Giai đưa đi đâu không rõ, có lẽ để nhường đất cho những cây cau châu Phi được trồng mới trên dải phân cách ấy.