Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 29 tháng 9, 2021

Nguyễn Linh Khiếu, nếu ta có một nắm đất

Nguyễn Đức Tùng

clip_image001

Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu

Thơ Nguyễn Linh Khiếu là dòng thơ trữ tình mới. Anh tin vào khả năng của ngôn ngữ trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa, mang đi ý niệm truyền sinh, phồn thực, ca ngợi thiên nhiên, trong khi vẫn thường xuyên tra hỏi các vấn nạn lịch sử. Đó là kết hợp giữa tự sự sinh thái và trữ tình xã hội. Những điều ấy được thực hiện trong thể thơ tự do, với những câu dài, kỹ thuật trùng điệp, với các nút thắt mở của trường ca. Nguyễn Linh Khiếu cần thơ trữ tình để vượt qua các khoảng cách, kết nối sự vật trong không gian và thời gian. Anh cũng vượt qua các tập quán, thiết chế, điển lễ, các rào cản xã hội, bằng cách đối thoại với thiên nhiên; và tôi cho rằng đó là chọn lựa thích hợp. Thơ của anh mở ra từng đợt như sóng, nhiều bài nối tiếp nhau, ngay cả những bài ngắn, độc lập, cũng dễ dàng được đặt vào giữa các bài khác, thành những chuỗi, thành chủ đề.

nếu ta có một nắm đất
ta sẽ vùi hạt hạnh vào trong
cầm trên tay đợi khi mùa xuân tới
hạt hạnh trong tay sẽ lặng lẽ nảy mầm

nếu ta có một cánh đồng
ta sẽ cày bừa xới vun đất đai màu mỡ
trên cánh đồng ta chỉ trồng hoa hạnh
ai đi qua cũng trầm trồ cánh đồng hoa hạnh của nhà thơ

nếu ta có một quốc gia
trên lãnh thổ nhiệt đới phì nhiêu của mình ta chỉ trồng hoa hạnh
người yêu hoa khắp thế gian hành hương về chiêm ngưỡng
thiên đường hoa hạnh của thi nhân.

Câu hỏi của Nguyễn Linh Khiếu nhiều hơn câu trả lời. Câu trả lời giới hạn trí tưởng tượng, trong khi câu hỏi mở rộng chúng. Câu hỏi của anh: chúng ta đến từ đâu, chúng ta là ai, tự do là gì, chúng ta đi về đâu, ý nghĩa của tồn tại của dân tộc. Thơ cũng cố gắng giải thích nhiều sự vật, tuy vậy giải thích không phải là công việc chính. Ngôn ngữ thơ cần một tiếp cận toàn bộ, trọn vẹn, không tách rời từng bộ phận. Câu hỏi: mỗi con người đứng ở đâu trong dòng chảy của lịch sử.

đây những người đàn ông bị săn lùng dồn đuổi tận cùng tuyệt diệt

đây những người đàn bà bị chà đạp bị giày vò hãm hiếp

Thiên nhiên đối với anh là hiện thực đẹp đẽ hoang dại, dung hợp cao quý và dung tục. Chất dã thú trong thiên nhiên của Nguyễn Linh Khiếu là sự hồn nhiên nguyên thủy. Cái tàn bạo đáng sợ, tính ác, cũng có mặt trong thơ anh nhưng không nổi bật bằng tính cao quý, thiêng liêng, sự liên tục, như người mẹ.

ta có thể cầm nắm sự thật trên tay

ta có thể liếm lưỡi vào sự thật

ta có thể đong đầy sự thật trong hai mắt

anh yêu em chỉ là một khoảnh khắc

Thơ Nguyễn Linh Khiếu đầy cảm hứng khoảnh khắc, một thứ tự sự có khuynh hướng triết học, vốn mang tính siêu hình, trừu tượng. Như vậy những tư duy hình ảnh của thơ anh có thể dẫn đường đến tư duy triết học, là nhờ sự tiếp xúc không ngừng giữa người và người, người và vạn vật, sự tương tác giữa chúng có tính cụ thể, ngay lập tức.

dòng nước lạnh lẽo kia chẳng nói năng gì

Kỳ Cùng mùa đông tiếng thở dài vô bờ bến

những gì đã mất thỉnh thoảng đời ta lại mất

Thơ sinh thái đương đại, khác với cổ điển, là mối quan hệ tế vi giữa cảnh vật và ý thức, là sự trở về với thiên nhiên, sự làm mới lại một tâm hồn đi giữa cỏ cây, nguyên sơ, hoang dại, trong khi vẫn không từ bỏ những quan tâm khác, chính trị hoặc xã hội. Xung đột của thơ anh là xung đột giữa những người đi tìm sự toàn vẹn và quá trình phân rã tinh thần của xã hội Việt Nam.

một dân tộc lấy chiến tranh để giải quyết những bất đồng dân tộc đó là dân tộc súc vật

một dân tộc luôn luôn phải tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc luôn luôn ngập chìm trong nội chiến đó là dân tộc đang đi trên con đường tự hủy diệt mình

Những câu thơ như thế này hoàn toàn có thể được gieo xuống hoặc đọc lên một cách tự nhiên giữa những câu anh viết về sông Hồng, về quan họ, về bông mộc miên hay linh thảo hay khuôn mặt mê hồn của phụ nữ.

Đó là tính tích hợp. Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, cảm giác, nhận thức, ấn tượng về nơi chốn là mạnh mẽ. Thơ của nhiều người cũng vậy, nhưng ở anh, nơi chốn không chỉ là đối tượng mô tả mà còn là một ẩn dụ, với những ý nghĩa bên dưới, chìm khuất; bài thơ của anh, vì vậy, trông lớn hơn kích thước của nó. Nhờ đâu có tác dụng ấy? Nhờ việc sử dụng sự biến đổi của các ý tưởng hay của cú pháp. Khi đọc chúng ta chờ đợi những mẫu thức đã xảy ra, như khi bạn đọc thơ lục bát, sau câu sáu tất phải đến câu tám, như khi bạn gặp một hình ảnh ví dụ vầng trăng, bạn sẽ nghĩ đến, mặt nước, sương mù, tiếng vạc ăn đêm. Tôi gọi đó là kỳ vọng (expectations). Nguyễn Linh Khiếu thay đổi các kỳ vọng, gây ngạc nhiên ở độc giả.

chẳng hiểu sao lần nào qua biên giới

mộc miên cũng rực đỏ triền sông, rực đỏ vách núi, rực đỏ tâm can

mộc miên đỏ một trời biên viễn

như máu tươi ròng rã ngàn năm

 

dưới gốc mộc miên người lính biên phòng cùng ta nâng chén

người xa nhà rượu ngô như lửa đêm đông

thanh vắng vẳng tiếng hoa tầm tã

khuya khoắt bóng ai rình rập dưới triền sông

 

có ai trồng mộc miên biên giới

hay biên cương cây tìm đến mọc lên

hoa cứ máu tươi suốt ngàn năm tê tái

cây cứ sừng sững mướt xanh cột mốc biên cương.

Phải lắng nghe thật lâu mới nghe ra "tiếng hoa tầm tã". Phải thức thật khuya mới biết nơi "biên cương cây tìm đến mọc lên". Phải canh cánh bên lòng mới thấy "khuya khoắt bóng ai rình rập". Tính chất kỳ lạ của cuộc chiến tranh nằm ở câu này. Nguyễn Linh Khiếu ít nói về bản thân mình. Cho đến khi anh chạm tới khái niệm tự do. Cái tôi Nguyễn Linh Khiếu là một cái tôi ý thức; ý thức của anh là ý thức tự do. Chính ở đây mà anh bước qua ranh giới giữa chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại. Chính ở đây anh làm nên giá trị cốt lõi của tập Phồn sinh và những bài thơ khác. Thế giới của Nguyễn Linh Khiếu là một trường tương tác. Mặc dù gắn bó với thiên nhiên và nông thôn, nhà thơ không hề xa rời đời sống đô thị bộn bề, và một xã hội ngày càng quay cuồng điên đảo, với những vấn nạn xã hội và chính trị, nhưng anh biết dừng lại đúng lúc. Thái độ công dân và thái độ của văn chương có thể khác nhau, nhưng khi chúng đồng nhất, Nguyễn Linh Khiếu bộc lộ khả năng sử dụng một ngôn ngữ vừa khái quát, trừu tượng, vừa trực tiếp.

làm thế nào thì phải đánh nhau

làm thế nào thì không phải đánh nhau

Đó là anh nói về quá khứ hay về tương lai? Tôi nghĩ, cả hai. Thơ anh, như thế, đầy nhận thức, các thông tin, hiểu biết, chứ không phải chỉ là sự mô tả thế giới bên ngoài. Việc làm mới ngôn ngữ ở Nguyễn Linh Khiếu dừng lại ở việc anh tạo ra được những câu thơ đẹp nhưng hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc văn phạm. Tôi mong được thấy nhiều hơn nữa những biến đổi hình thức, sự tương tác giữa câu thơ và câu ngữ pháp, mong được thấy nhiều hơn những ngạc nhiên trong câu, sự bất ngờ khó tiên đoán, các khúc quanh ý tưởng, sự đột ngột của các hình ảnh.

Tư tưởng của bạn phóng khoáng: bạn cần một ngôn ngữ bất cẩn.

Có một quan hệ giữa các bài thơ, làm cho tiếng nói của nhà thơ trở nên thống nhất, nhưng điều này cũng có thể dẫn đến việc lặp lại chính mình. Tôi tin nếu các nhân vật trong thơ hiện rõ khuôn mặt của họ hơn, những tiếng nói khác nhau được vang lên gần hơn, thì câu chuyện mà anh kể lại sẽ thuyết phục. Câu hỏi là: liệu điều này có làm anh rời bỏ tính trữ tình hay không? Chỉ có nhà thơ mới trả lời được. Một cấu trúc tự sự tốt đẹp giữ cho tiếng nói vang vọng nhiều lần, các hình ảnh được chiếu sáng, trong khi một cấu trúc kém sẽ làm mai một các cảm xúc tươi ròng.

nây nẩy những bắp non tươi ẩn hiện

mùa nước sinh đang hổn hển trở về

Vui thú và hân hưởng là đặc trưng của thơ Nguyễn Linh Khiếu: hối hả, thúc giục, ca ngợi, hào sảng, tự do. Không phải người nào cũng khao khát tự do; đối với nhiều người, những thứ khác quan trọng hơn: thói quen, sự an thân, danh vọng, miếng ăn, quyền lực, tín ngưỡng. Tính hồn nhiên là bản chất của tạo vật, sự tự nhiên là âm nhạc của trời đất. Thời ấu thơ chúng ta từng sở hữu tính chất hồn nhiên, khi lớn lên chúng ta đánh mất.

không có tự do mọi sáng tạo thi ca chỉ là văn tế

mọi sáng tạo văn chương chữ nghĩa chỉ là điếu văn

mọi sáng tạo âm nhạc chỉ là bát âm nhạc hiếu

mọi sáng tạo điện ảnh chỉ là trình diễn nghi lễ cầu cúng nghĩa địa

Thơ anh dày đặc chữ, đó là một thi pháp rậm rạp (macro), bao gồm những câu tự do và thơ văn xuôi. Nhiều người tin rằng thơ là khởi đầu của ngôn ngữ. Âm thanh của một chữ khi được nhân loại sinh ra gây cảm giác vui thú, phù hợp với ý nghĩa mà nó biểu trưng. Tuy vậy qua nhiều thời kỳ các nhà thơ bao giờ cũng có một cố gắng, đó là làm cho ngôn ngữ thơ trở nên khác đi so với tiếng nói hằng ngày. Một ngôn ngữ mới lạ sẽ tạo ra cảm xúc mới, và do đó làm giàu tiếng Việt. Các nhà thơ khác nhau ở chỗ sau một vài chữ mở đầu, các chữ về sau trong một câu có thể đoán trước được hay không. Những câu thơ cũ, chúng ta đoán được. Ở những câu thơ mới, bạn không đoán được. Đó là vì chữ mới, ý tưởng mới, hay hình ảnh mới. Đây là một trong những quan điểm của nhà ngôn ngữ học Lotman.

là mỡ màu ta đả đảo những ngăn cấm chia cắt cục bộ địa phương

là mỡ màu ta đả đảo phong kiến tối tăm cha truyền con nối gia đình trị

là mỡ màu ta đả đảo những giới hạn những định kiến những qui định những khuôn mẫu những già nua những cỗi cằn mốc meo mục ruỗng những giả dối nhân danh lừa phỉnh

là mỡ màu ta cổ vũ tự do

là mỡ màu ta cổ vũ dân chủ

Tiếng nói của Nguyễn Linh Khiếu dữ dội mà vẫn đĩnh đạc, đôi khi mượt mà, là một tấm lụa dệt bằng tiếc thương, đau đớn bàng hoàng, lòng thương cảm. Nhưng đó không phải chỉ là dải lụa, không phải chỉ có tình yêu, còn là ý thức đề kháng: chống lại cái xấu, cái ác, cái độc tài, bất nhân. Anh chống lại những kẻ chống lại nhân dân. Không một quan hệ nào giữa người và người mà bình đẳng cho bằng tình yêu. Đọc thơ anh, có thể thấy hai quá trình, ca tụng và phản tỉnh, thưởng thức và thách thức, phồn sinh và hủy diệt. Đó là một bút pháp ở khoảng giữa hiện đại và hậu hiện đại.

thời đại của lịch sử đẫm máu những trời đẫm máu những đất đẫm máu những biển đẫm máu những núi đồi đẫm máu những bình minh đẫm máu những ban trưa đẫm máu những hoàng hôn đẫm máu những đêm khuya đẫm máu những quốc gia đẫm máu những địa danh đẫm máu những dòng sông đẫm máu những thành phố đẫm máu những bản làng đẫm máu những phố thị đẫm máu những thôn dã đẫm máu những cánh đồng đẫm máu

Một người thường xuyên tra vấn các nhầm lẫn lịch sử, xem xét lại các giá trị, thế nào cuối cùng cũng có lúc, dù chỉ đâu một lúc, thấy mình là một với chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại cũng là cái bẫy nhung: không một sáng tạo nào không trở thành thói quen, không một ngôn ngữ mới nào, dù mới đến đâu, mà không ghét bỏ sự thách thức đối với chính nó. Bài thơ là đối thoại giữa tác giả và một nhà thơ đi trước. Nhiều người tin vào sự màu nhiệm của sáng tạo, như kiểu nữ thần thơ ca, huyền bí, nhưng thực ra quá trình sáng tạo bao giờ cũng gồm hai phần, phần được chiếu sáng và phần vô thức. Khi một bài thơ xuất hiện, nhà thơ đứng trước hai lựa chọn, hoặc biến nó thành người phát ngôn cho ý niệm, hoặc buông thả cho bài thơ hình thành trôi nổi, vô mục đích. Hướng đi của bài thơ được quyết định vào giây phút khó khăn ấy. Hãy nghe anh nói về chiến tranh. Và không phải chỉ chiến tranh.

trên tất cả thông tấn báo chí phát thanh truyền hình

trên tất cả các diễn đàn các hội nghị hội thảo tọa đàm giao lưu gặp gỡ

trên tất cả văn chương sân khấu điện ảnh nhiếp ảnh hội họa

trên tất cả các lễ hội sinh hoạt cộng đồng

trên tất cả các lớp học giảng đường hội trường tiền sảnh

trên tất cả các nhà trẻ các lớp mầm non các lớp mẫu giáo

trên tất cả các lớp tiểu học các lớp phổ thông cơ sở các lớp phổ thông trung học các trường dạy nghề các trường trung cấp các trường cao đẳng các học viện các trường đại học

vẫn đằng đằng sát khí

vẫn mịt mù khói lửa chiến tranh

vẫn loảng xoảng súng đạn

Bất kỳ một biến đổi về cấu trúc nào cũng gây ra tình trạng áp lực, khi ấy người đọc không còn chắc chắn về hướng đi của bài thơ nữa: sự êm ái của thơ Việt từ đây buộc phải thay đổi. Một đặc điểm của Nguyễn Linh Khiếu là, tuy vậy, những câu thơ của anh được sắp xếp sao cho hợp lý, ngay những câu dài nhất, ngữ pháp vẫn không rắc rối, vẫn sáng sủa. Bức tranh của anh hấp dẫn nhưng dễ hiểu, thiếu các nếp gãy nứt. Cánh cửa sẵn sàng mở ra trước người đọc, vừa là ưu điểm vừa là khuyết điểm. Tư duy thơ anh là một tư duy hiện đại - tuyến tính, mặc dù vậy, với chủ ý hay không , anh đôi lần vượt qua giới hạn của nó, tạo ra tình trạng khác.

khi đó con người là thức ăn của ba ba thuồng luồng hay ba ba thuồng luồng làm thức ăn của người

ta làm sao hiểu được Sông Hồng thuở xa xưa

sông Hồng thuở ta chưa từng có

không có ta liệu có Sông Hồng hay không

không có Sông Hồng liệu có ta hay không

Các hình ảnh của anh đẹp như hội họa, không yên tĩnh mà vận động quanh các chủ đề. Anh nhìn sự vật trong chi tiết cụ thể, cảnh vật mà anh mô tả là cảnh vật của tâm trí, cái mà Mặc Đỗ đặt là tâm cảnh. Chúng ta có những vùng châu thổ lớn, sông Hồng, sông Cửu Long, những làng mạc quanh sông khắp ba miền đất nước, vì vậy cảnh vật trong thơ anh không xa lạ gì với người Việt. Nhưng sự mô tả ấy không chỉ là mô tả, chúng hướng tới câu hỏi siêu hình, gợi lại cho người đọc biết bao nhiêu suy nghĩ vcon người. Trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, qua chữ “phồn sinh” do anh tạo ra, như một quan niệm, lịch sử được tái xây dựng. Sông và cánh đồng, cây cỏ và gió bão không chỉ là bản thân chúng, mà còn là mùa màng, nhịp điệu của đất nước nông nghiệp, của đời sống thôn xóm, sự hiện diện và trở về của người chết, sự nhớ lại. Trong một xã hội chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, đời sống người Việt gắn bó với thôn quê, với thiên nhiên, mùa màng, vì vậy khi anh nói về đất nước, anh nâng khái niệm đất nước lên thành một khái niệm ngôn ngữ và văn hóa. Lịch sử đất nước trong thơ anh trở thành lịch sử thơ ca.

Đặc tính lớn của thơ Nguyễn Linh Khiếu là ở đây: anh lấy sự ca ngợi làm hình thức phản kháng, cái nhìn của anh nghiêng về cái tốt đẹp, nhưng không bao giờ rời bỏ ý thức phê phán đối với hiện thực. Thơ anh có thể đi trước nhiều người cùng thời một bước, về khía cạnh này. Tôi cũng nghĩ quan niệm phồn sinh của Nguyễn Linh Khiếu có hai nguồn gốc: tín ngưỡng phồn thực hay văn hóa phồn thực, đó là tín ngưỡng ca tụng sự sinh sôi nảy nở, sự giao hợp của người, muông thú, thực vật, và thứ hai là, các điển lễ và hình tượng đi kèm chúng.  

những giống đực thiêng liêng

những giống cái thiêng liêng

những cặp đôi thiêng liêng

những nhịp điệu giao phối thiêng liêng

 

chẳng có gì trong thế giới này vĩ đại

và thiêng liêng hơn đực cái

Quan niệm phồn sinh, phồn thực, tôi nghĩ, không xa tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là sự kính trọng và yêu mến sự sống muôn loài. Lòng nhân ái đối với con người, phát triển thành lòng yêu thương đối với vạn vật, trong đó có tình yêu giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa anh chị em, bà con, lối xóm. Ở phương Tây tình yêu ấy tạo thành các cuộc cách mạng, ở phương Đông nó tạo thành những thay đổi cá nhân, sự tiến triển của tâm hồn mỗi người. Khi tôi nói Nguyễn Linh Khiếu gần với tư tưởng Phật giáo là nói về mặt sinh thái học, nhưng tư tưởng Phật giáo khác với khuynh hướng sinh thái học hiện đại. Tư tưởng Phật giáo quan tâm đến thiên nhiên như một hiện hữu thường hằng, tác động của thiên nhiên đối với con người, trong khi sinh thái học hiện đại ngược lại, quan tâm nhiều hơn đến tác động của con người đối với thiên nhiên.

 ta sống một giây thế giới này chỉ có một giây

ta sống một phút thế giới này chỉ có một phút

ta sống một giờ thế giới này chỉ có một giờ

ta sống một ngày thế giới này chỉ có một ngày

Không có gì xảy ra trong bài thơ này, thế mà dường như mọi thứ đều chuyển động. Nếu chúng ta nhận biết bản tướng của thế giới, chúng ta sẽ biết chúng ta đứng ở đâu trong thời gian và không gian, chúng ta biết cần phải hành động như thế nào trong sự hòa hợp với cái khác, người khác, vật khác. Trên đường đi tìm hòa hợp giữa cái ta và cái khác, Phật giáo tìm ra nguyên lý bất nhị. Thơ Nguyễn Linh Khiếu là một kiểu hành thiền khác, thơ mộng, an trú trong hiện tại, tăng cường nhân cách của con người. Thay đổi là nền tảng của sự vật. Chính nhờ nhìn thấy sự thay đổi của vật mà con người có thể an trú trong rỗng không, mất mát, tạm thời. Quan niệm vô thường ấy chiếu rọi bản thể của sự vật, dưới sự quan sát thận trọng và chăm chú, sự quán tưởng, hành giả và thi sĩ sẽ nhìn thấy ở thời gian những khắc thời gian nhỏ bé, những khoảng cách li ti. Trong sự dịch chuyển, thế giới làm nên bởi trống rỗng. Thế giới hiện hữu thì vật hiện hữu, nhưng đó là một hiện hữu kỳ lạ, tựa như giấc mộng.

Dọc con đường khất thực, các thí chủ quỳ gối trên những đệm mỏng trước cổng nhà mình chờ sẵn. Họ bao gồm cả đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ. Tất cả phải quỳ vì không ai được đứng cao hơn các nhà sư. Khi dâng lễ, người dâng cúng tuyệt đối không được ngẩng lên nhìn mặt nhà sư. Nhà sư sau khi nhận lễ chắp tay vái tạ và rì rầm đọc một đoạn kinh chúc phúc cho thí chủ thiện tâm, người dâng lễ cũng chấp tay trước ngực và vái chào nhà sư buổi sáng.

Nhiều bút ký, du ký và tùy bút của Nguyễn Linh Khiếu là những bài thơ văn xuôi (prose poems) thành công. Muốn biết sự sáng tạo của một nhà thơ, cần xem mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính độc đáo. Truyền thống là sự kế thừa từ những người viết trong quá khứ, đôi khi như một ân huệ, đôi khi gánh nặng. Khi viết, bất kỳ nhà thơ nào cũng tìm cách vượt ra khỏi cái bóng của người khác, cái mà Harold Bloom gọi là anxiety of influence. Ngôn ngữ là một lịch sử, mỗi chữ đều chứa trong nó nhiều cuộc đời, nhiều ý nghĩa, những phân vân của người đi trước. Bởi vậy, viết bao giờ cũng là viết lại. Nguyễn Linh Khiếu không xa các truyền thống; các câu thơ có cấu trúc mạch lạc. Anh không tìm cách thách thức các mệnh đề, tôi ít khi thấy anh đảo câu, vì vậy chữ của anh đẹp, ít bất ngờ. Mặc dù nhắc tới đề tài văn hóa, anh lại ít khi sử dụng điển tích. Hai tính cách độc đáo của thơ anh, xét về hình thức ngh ệ thuật: đầu tiên là việc sử dụng các câu thơ dài và nghệ thuật trùng điệp. Nhiều nhà thơ cũng dùng kỹ thuật này nhưng ở Nguyễn Linh Khiếu chúng được đẩy đến tối đa, và trong nhiều trường hợp, tối ưu hóa. Tính độc đáo thứ hai nằm ở các hình tượng lớn. Là một nghệ thuật của trường ca.

bao nhiêu nắng mưa bao nhiêu nóng lạnh bao nhiêu hưng vong

bao nhiêu xa hoa bao nhiêu lộng lẫy bao nhiêu tăm tối bao nhiêu bạo tàn

Thơ Nguyễn Linh Khiếu gần với Walt Whitman. Đó là một thứ hậu lãng mạn, khởi động tâm lý học và triết học về con người bằng tư duy tình dục. Viết về tình dục xưa nay vẫn khó; biết dừng lại đúng lúc là một trong những bí ẩn quan trọng của thơ tình dục. Nhưng phồn thực, các xúc động nguyên thủy, vốn chống lại lý trí. Đâu là tiêu chuẩn đạo đức và tiêu chuẩn cộng đồng? Người Việt cổ đại đối xử với tình dục như thế nào? Tình dục vừa là văn hóa vừa là chính trị, vừa là khởi thủy, vừa là kết tinh những phẩm tính cao cả. Các xúc động nguyên thủy có lẽ chưa phải là văn hóa, mà cũng không phải sự chống lại văn hóa, đó là điều gì đi giữa hai thứ ấy. Viết về phồn thực, phồn sinh, sự sinh nở, truyền giống, bất kỳ tác giả nào cũng cần am hiểu muôn khía cạnh của đời sống một cộng đồng, trong khi vẫn phải tự tin, thong dong đi giữa những cảm xúc cá nhân của mình. Viết là một hành động chống im lặng, là sự thách thức các trật tự truyền thống, chuẩn mực. Thơ Nguyễn Linh Khiếu trong khi ca ngợi rực rỡ những mối quan hệ giữa người và người, cha mẹ và con cái, người nam và nữ, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện tại và truyền thống, vẫn dựng lên thách thức đối với các giá trị, đặt ra những câu hỏi lớn, làm lay chuyển niềm tin, tái xây dựng các diện mạo, khơi gợi ở người đọc sự đánh giá lại.

Một bài thơ phải làm gì để đập vỡ các huyền thoại: tấn công vào sự không công bằng, những ảo tưởng. Trong một thời đại nhiễu nhương, thơ là nguy hiểm. Trong nhiều thời kỳ lịch sử ở dưới những nhà nước khác nhau, có lúc thơ ca bị cấm đoán. Đối với một xã hội tìm cách tước bỏ tâm hồn dân tộc ra khỏi đời sống văn minh vật chất của nó, sự phát triển kinh tế điên cuồng của nó, thơ là nguy hiểm. Bởi vì chúng tạo nên niềm tin vào cái giản dị, vào sự liên tục của số phận, vào sự thanh khiết, và do đó, là cổ vũ cao nhất đối với tự do.

giải phóng khỏi lừa đảo lưu manh

giải phóng khỏi giả nhân giả nghĩa

giải phóng khỏi dối trá mị dân

giải phóng khỏi áp bức cường quyền

giải phóng khỏi lễ nghi thần tượng

giải phóng khỏi ràng buộc khuôn phép

giải phóng khỏi u mê mộng mị

giải phóng khỏi lãnh đạo bề trên

Có nhiều kiến thức trong một bài thơ của Nguyễn Linh Khiếu, những kiến thức về cây cỏ, chim muông, về đồng bằng sông Hồng, về địa lý, về khí quyển, có những kiến thức về lịch sử, về con người, về nhân chủng học. Tôi cho rằng anh là một trong những nhà thơ biến thơ ca, nhất là những bài thơ dài và trường ca, thành một thứ tùy bút, tiểu luận, phê bình. Thơ trữ tình thành một nghệ thuật quan sát và ngược lại, lyric narrative. Sự nhạy cảm trong thơ trở thành nhận định chính xác khách quan, trở thành những quan sát hóm hỉnh và thông minh. Một người có tầm nhìn:

khi đó Sông Hồng chảy từ núi xuống hay chảy từ biển lên núi đồi

từ đất lên trời hay từ trời xuống đất

khi đó dòng sông chảy dọc hay chảy ngang

khi đó dòng sông uốn lượn hay một dòng thẳng tắp

Bài thơ tạm dừng lại. Sau khi nó đã triết lý, đã ca hát, đã chạy trong những máng xối như nước, đã thổi qua khe núi như gió, bài thơ dừng lại như người giữa hai giờ làm việc, ngồi xuống trên cỏ. Bài thơ có lúc dừng lại như vậy. Phản ứng, áp lực. Sự không thỏa mãn. Như vậy khi một bài thơ dừng lại ở chỗ nghỉ, đó không phải là sự nghỉ tuyệt đối. Sóng trên mặt lặng xuống, lực chảy luồn dưới đáy. Trung tâm của bài thơ là hình ảnh quan trọng nhất, một ý tưởng vươn lên thành hình ảnh, không phải một nhãn tự. Nguyễn Linh Khiếu ít có những câu độc lập có thể trích riêng ra được. Khuynh hướng các nhà thơ hiện nay đều thế. Các câu nương vào nhau như một hệ thống, bạn không trích xuất một cách dễ dàng. Sự mô tả trong thơ nặng thuyết phục, giọng kể lưu loát, hình ảnh dày đặc, giọng ấy là giọng hát, ca ngợi, sử thi.

mưa ròng ròng trên thịt da tinh khiết

thịt da ta mười ba

thịt da nàng mười ba

mười ba tuổi thịt da bồi hồi trong mưa

mười ba tuổi mưa thổn thức trên thịt da ngùn ngụt

Đời sống của nghệ sĩ là nguồn gốc của những bài thơ. Sự sáng tạo xảy ra cùng lúc giữa người làm thơ và những vật liệu anh chạm tới. Những vật liệu ấy như có linh hồn, thay đổi. Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào có giá trị cũng đều lăm le xuyên qua biên giới của sự hiểu biết, đặt chân vào huyền bí. Dù đó là thơ hay tiểu thuyết, kịch hay truyện chớp, bao giờ cũng có một phần gần như linh thiêng của ngôn ngữ chờ bạn ở đó, bạn như một người đọc. Thơ anh đôi khi có cái hư hư ảo ảo, mờ nhạt. Thơ anh là cuộc đối thoại, lời tâm tình mang tính đối thoại, giữa tác giả và người đọc, giữa con người và hoàn cảnh, giữa lịch sử và cái lẽ-ra-nên-là lịch sử. Những đối thoại ấy, thân mật nhưng thẳng thắn, nơi người nói đặt hết lòng tin vào kẻ khác, xâu chuỗi các bài thơ. Đó là tính thuyết phục trong thơ Nguyễn Linh Khiếu, vì đối thoại làm cho sự tiếp xúc giữa người viết và người đọc tăng lên, người đọc hóa thân thành tác giả, cùng xúc cảm, lo nghĩ như anh.

vì sao phải đi thật xa chúng ta mới là mình

phải đến nơi không ai biết mình ta mới có một chút tự do nhỏ bé

Ngay cả khi anh tuyên bố, kêu gọi, điều mà anh thường làm, thì giọng của anh vẫn mở ra khả năng đối thoại. Ngay cả khi anh nói về những cái to tát, thì chất giọng ấy vẫn tâm tình.

chỉ khi nào thực sự sống trong hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì con người mới thực sự là con người

chỉ khi nào thực sự sống trong hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì dân tộc mới thực sự là dân tộc

khi nào không có hòa bình tự do bình đẳng dân chủ thì con người còn phải đi tìm giá trị của mình trên khắp thế gian

Nguyễn Linh Khiếu là người đi tìm những khoảnh khắc giao hòa giữa cái tôi và tha nhân. Anh chú ý tới khoảnh khắc, làm sống lại chúng, tìm cách đặt chúng vào tấm thảm dệt của thời gian, không phải để giải thích mà để tự mình và người đọc có thể sống lại giây lát ấy, thuyết phục người khác về vẻ đẹp của chúng, của sự tồn tại trong thời gian, vẻ đẹp của nhịp điệu. Anh thường xuyên băng qua các ranh giới, ngã ba, ngã tư, kiên nhẫn và xông xáo, hồn nhiên và có chủ đích, tìm kiếm bằng được trong hiện tại khuôn mặt của quá khứ. Vì từ một khoảnh khắc, thơ có thể nhìn thấy vĩnh hằng.

đối diện với nàng ta khám phá ra mình

ta đồng hiện một chân dung cuộc sống

một khuôn mặt hiện ra một đất nước hiện ra

đất nước của mưa thuận gió hòa trời yên biển lặng

đất nước của bốn mùa xuân hạ thu đông thánh thót hoa thơm trái ngọt

Nguyễn Linh Khiếu ít nói về thân phận cá nhân. Tôi không mấy khi thấy anh thất tình. Anh ít nói về xúc cảm âm tính. Đó là một giọng thơ khỏe, “vui”, hiếm gặp trong thơ Việt từ trước đến nay. Khi vui, người ta ít sâu sắc, nhưng Nguyễn Linh Khiếu thì ngược lại, bàng bạc trong thơ anh những trầm tư lạ thường, sâu xa, quyết liệt. Anh hướng nhiều hơn đến cõi đời, nhịp thở non sông đất nước, lòng lo toan xã hội. Đó là một thứ thơ hướng ngoại, nhưng dù hướng ngoại, lại không tách mình ra khỏi thiên nhiên. Người khác biến thế giới nội tâm thành ngoại cảnh, trong khi Nguyễn Linh Khiếu biến ngoại cảnh thành nội tâm: anh nhìn thấy số phận mỗi cá nhân qua số phận cộng đồng, anh nhìn thấy sự suy tàn của mặt đất như những giá trị đạo đức suy tàn, anh lấy tình nghĩa cỏ cây làm tình nghĩa con người. Anh thiết lập các mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn.

để tồn tại trên thế giới này

để khám phá ra khuôn mặt mình

để xứng danh một đàn ông đích thực

để chứng tỏ kho giống nòi quí báu nhân loại

ta phải bắt đầu từ khuôn mặt thiếu nữ

Nguyễn Linh Khiếu sống trong hiện tại bão táp, không sợ cái hiện tại ấy vì anh đặt nó trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai. Trong một giọng thơ đôi khi nồng nhiệt, đôi khi trầm lặng, tôi ít thấy sự uể oải phế tàn, tuyệt vọng, hay ngược lại, dửng dưng, cười cợt, chế nhạo. Khi quay về với đời sống nội tâm, anh có giọng thơ lạ, vượt qua quy ước, lay động sbình an ở người đọc.

Những thời đại giả danh dân chủ con người chẳng biết sống chết thế nào

Những thời đại giả danh dân chủ con người vô cùng hoang mang vô cùng bế tắc vô cùng hoảng loạn vô cùng khiếp sợ vô cùng bi đát vô cùng tuyệt vọng vô cùng không còn là con người

Nguyễn Linh Khiếu nhìn ra sự khác biệt giữa tối và sáng, giữa sự thật giữa và cái giả tạo, chúng ngày một đầy rẫy trong xã hội chúng ta, và ít ai nói được như anh. Thơ ấy hãy còn ít chất hài hước, sự châm biếm, chất dân gian đường phố; cảm xúc chủ đạo vẫn là từ một tâm trạng suy nghĩ, đĩnh đạc nhiều hơn bông lơn, mang tính hiện đại chủ nghĩa. Anh có một niềm cảm hứng đối với những tình cảm lớn: tự do, quê hương, số phận con người, lịch sử, sự bạo động, các tội ác, tình yêu tự do, tình dục tự do, phồn thực, nguyên sơ, cái tốt đẹp. Tựa như cuộc trở về nguồn cội, nhưng cũng lại như hành hương tôn giáo, đi tới vùng đất lạ để chiêm ngưỡng niềm tin. Một thứ thơ gần siêu thực hoặc huyền thoại.

trên xứ sở châu thổ Sông Hồng của ta rực rỡ sắc màu Sinh sôi

vang lừng âm thanh đâm chồi nảy lộc

sôi động thanh điệu cường tráng

xao xuyến giai điệu cành la cành bổng

lộng lẫy sắc màu căng mẩy

tràn trề tinh thần luyến ái

Nguyễn Linh Khiếu viết nhiều câu thơ tiếp cận văn xuôi, có thể xem là thơ xuôi. Không có gì đáng ngạc nhiên là nhiều người nghĩ rằng thơ anh là sự ca ngợi sự phồn thịnh của đất đai, sinh nở, của nòi giống. Tất nhiên điều ấy là đúng, nhưng không diễn tả hết những khía cạnh khác của Nguyễn Linh Khiếu: yếu tố trí tuệ, sự phê phán, sự cảnh tỉnh, sự so sánh các giá trị, lòng khao khát tự do, cuộc chiến đấu thầm lặng của anh. Làm thế nào để không bi quan trong thời đại này? Làm thế nào nhân dân được quyền nói thật và có quyền nghe sự thật?

do công việc nhiều lần ta đến nhà một vị tướng

dáng vóc ông nhỏ nhắn

phong thái ông nhân hòa

tinh thần ông lão thực

đời sống ông giản dị

giọng nói ông ôn tồn

 

ông ân cần tận tâm như một ông giáo làng

ông thân thiết bao dung nhân từ như cha

ông hiền hòa độ lượng như một người ông

ông khoan thai ung dung tự tại như một tiên ông

 

không biết lực lượng nào trú ngụ trong ông để ông ra quyết định

những trận đánh vĩ đại của ông hàng ngàn người biến khỏi mặt đất

mỗi chiến thắng đẫm máu của ông

khăn tang trắng xóa mặt đất

 

mỗi lần bắt tay ông ra về

bàn tay ông nhũn nhùn lạnh ngắt

bỗng nhiên lạnh buốt sống lưng nổi da gà

 

quốc gia tuy lớn mạnh hiếu chiến tất diệt vong

một dân tộc tìm vinh quang trong chiến tranh chém giết đó là một dân tộc hạ đẳng

một dân tộc hung hăng hiếu chiến luôn luôn đi xâm lược luôn luôn khủng bố luôn luôn gây chiến luôn luôn đè đầu cưỡi cổ dân tộc khác đó là dân tộc man rợ dã thú

một dân tộc lấy chiến tranh để giải quyết những bất đồng dân tộc đó là dân tộc súc vật

một dân tộc luôn luôn phải tiến hành những cuộc chiến tranh vệ quốc luôn luôn ngập chìm trong nội chiến đó là dân tộc đang đi trên con đường tự hủy diệt mình

 

mỗi khi chiến tranh xẩy ra thú tính được tôn vinh con người hiện nguyên hình đó là loại thú dữ man rợ

trong chiến tranh ai giết được nhiều đồng loại đó là người lập được nhiều chiến công người đó là dũng sỹ người đó là anh hùng người đó sẽ được tôn vinh được ca ngợi trở thành thần tượng trở thành lãnh tụ

trong chiến tranh thần tượng của mọi người là dũng sỹ là anh hùng là người được tôn vinh là tướng soái là chỉ huy là lãnh tụ

trong chiến tranh thần tượng của cả thời đại là những hung thần

 

tất cả mọi người bị giết trong chiến tranh đều do lãnh tụ

tất cả mọi người sống sót trong chiến tranh đều ngoài ý muốn các lãnh tụ

lãnh tụ là người phát động chiến tranh

lãnh tụ là người tiến hành chiến tranh

lãnh tụ là người chấm dứt chiến tranh

trong chiến tranh tất cả mọi người có mặt trên chiến trường nhưng lãnh tụ ở nơi an toàn nhất

Một bài thơ không có kết luận có mang chúng ta lại gần nhau hơn, với những câu hỏi trong đó không? Những bi kịch của hòa bình và cuộc chiến tranh dai dẳng không những đã chia rẽ một dân tộc, mà còn xé rách lịch s ra nhiều mảnh, tàn phá các cộng đồng, xóa trộn chúng. Tập thơ Phồn sinh là những trải nghiệm cá nhân của thi sĩ ở vùng châu thổ sông Hồng, thơ ấy nói thay cho người chết, nói thay cho những mất mát, thơ ấy nói thay cho hy vọng. Cuộc đời rộng lớn hơn bài thơ, rộng lớn hơn triết học, hơn bất kỳ một lý thuyết cách mạng xã hội nào.

ta hạnh phúc trong từ trường 23o5 nghiêng của trái đất

ta chẳng bao giờ thăng bằng cứ chênh vênh run rẩy sắp sửa đổ ngã

trong thế giới nghiêng ngả

hạnh phúc là những khoảnh khắc không cân bằng

Trong thơ anh, có những cửa sổ, ở đó các sự kiện xảy ra bất ngờ. Chừng nào các sự kiện ấy xuất hiện một cách tự nhiên, bài thơ liền được nó dẫn đi, nhận được năng lượng từ nó. Tôi hy vọng trong những tác phẩm sắp tới, Nguyễn Linh Khiếu phát triển hơn nữa khả năng của anh: sự quan sát tinh tường, sự lắng nghe sâu, sự phê phán có tính xã hội và lịch sử, tính trữ tình thế sự.

ta ra đi từ châu thổ Sông Hồng

miền lúa nước huy hoàng

miền trâu nước hùng vĩ

miền chim nước sặc sỡ

miền nhân nước phì nhiêu

miền thủy sinh phi thường

miền lưỡng cư mộng mị

nơi vị thần tình yêu ngự trị

ngôi đền yêu bất tử miên man nhiệt đới miên man gió mùa

Ngôn ngữ thơ và cảnh vật đồng bằng sông Hồng, tạo ra một quyền năng lớn lao, của sự hoà điệu và sự cô độc. Nguyễn Linh Khiếu sở trường về việc làm bộc lộ tính yếu đuối, sự dễ đổ vỡ, tính thương tổn của thiên nhiên, một thiên nhiên có con người ở bên trong, đi lại, cười nói, sống và chết, làm tình, thù hận, tha thứ.

truyền giống là hành vi truyền thống

truyền giống là hành vi hiện đại

truyền giống là hành vi hậu hiện đại

Trong nhiều bài, anh cũng có lạm dụng điệp ngữ và lắp láy.

Một bài thơ có thể xóa nhòa người đọc hay có thể làm tác giả biến mất. Hay là ngược lại, ngôn ngữ thơ ca làm chúng ta thấy nhau rõ ràng hơn, tin cậy hơn, mặc dù một bài thơ không bao giờ có những kết luận. Bài thơ là một tổ chức phức hợp, gồm âm điệu, chữ, ý tưởng, hình ảnh. Bạn lắng nghe một bài thơ trước khi hiểu ý nghĩa của nó. Bạn thích bài thơ trước khi biết tại sao. Sự duyên dáng, tức là tập hợp các cử động, sự chuyển động nhịp nhàng, là sức hấp dẫn đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất đối với người khác. Tuy vậy sức mạnh bên trong của bài thơ là cảm xúc.

ta sinh ra nơi châu thổ Sông Hồng

dòng mẫu hệ ngàn đời mênh mông bao dung chảy xiết

mẫu hệ là nhân từ

mẫu hệ là thịnh vượng

mẫu hệ là bản sắc

mẫu hệ là nguyên lý sắc tộc

Nguyễn Linh Khiếu là người yêu ngôn ngữ, mặc dù vậy anh không phải là người chủ trương lấy ngôn ngữ làm trung tâm. Đó là một loại thơ dũng cảm, là tiếng nói chân thực của một nhà thơ công dân, là cái nhìn thấu suốt các duyên nợ, nhân quả, tìm cách mở nút thắt của các trò chơi lịch sử, dấu vết của tội ác, bộ mặt của thỏa hiệp.

40 năm

chiến tranh vẫn nằm chềnh ềnh trên mảnh đất này không chịu ra đi

40 năm

chiến tranh vẫn không ngừng quay cuồng tiếp diễn

những nhảy nhót vặn vẹo cụt chân cụt tay

những gương mặt tối tăm không mắt

những thịt da khâu vá chằng chịt

Các hình thức nghệ thuật được cảm nhận thông qua mối quan hệ của chúng với quy ước, sức đề kháng với thói quen cũ kỹ. Nếu việc làm mới được cho là quan trọng hơn cả, ngôn ngữ thơ có thể trở nên tối tăm, mù mịt, bài thơ lạc lối. Ngược lại, nếu không quan tâm đến chuyện mới hay cũ, nhà thơ dễ dàng rơi vào bẫy của những cảm xúc và lối nói quen thuộc. Nguyễn Linh Khiếu đi nhiều, những hiểu biết văn hóa của anh rộng rãi, tôi tin rằng anh đã từng đến chiêm ngưỡng những đền đài tôn giáo và những chốn thờ phượng linh thiêng, của dân tộc và nhân loại, tôi tin rằng anh đã nhận được ở đó nhiều điều mà tôi không thể gọi tên. Thay đổi là trống rỗng, vốn là bản chất của sự vật. Khoảng trống rỗng ấy là nơi gặp gỡ giữa tâm hồn và thân xác. Tôi nhìn thấy trong thơ anh tính bất đối xứng, sự triển nở nguyên sơ, sự vận động của các huyền thoại, khía cạnh thiêng liêng huyền bí của nhục cảm. Có một thiên nhiên riêng biệt của Nguyễn Linh Khiếu, những sông núi của quá khứ, bị ám ảnh bởi những câu chuyện được kể lại qua nhiều thế hệ, nhuốm đầy chất tín ngưỡng, các cổ mẫu văn hóa, nhịp điệu cơ thể.

cơ thể mỗi phụ nữ là một hoàn mỹ duy nhất

cơ thể mỗi phụ nữ là một viên mãn cao quý

cơ thể mỗi phụ nữ đều kỳ diệu phi phàm

cơ thể phụ nữ đó là kho báu bí mật vô tận nhân loại không bao giờ khám phá hết

cơ thể phụ nữ chính là bí mật vĩ đại nhất của thế giới này

Sự giải thoát khỏi những đau khổ xảy ra ở cấp độ cá nhân cũng như toàn xã hội. Tác động của chiến tranh, ô nhiễm môi trường, bạo lực xã hội, phát triển vô tội vạ, sự tham lam và các chính sách phục vụ cho chúng, sự kém hiểu biết đối với thiên nhiên, sự tiết mạn, góp phần to lớn vào tình trạng vô minh của mỗi cá nhân. Thơ đi tìm lại sự cân bằng, từ chối sự chiếm đoạt của con người đối với thiên nhiên, chống lại tình trạng đô thị hóa bừa bãi, không phải là chống lại sự tiến hóa văn minh mà ngược lại đó là cách duy nhất để giữ cho con người hạnh phúc trong một thời đại thay đổi. Những cố gắng tương tự bắt nguồn từ lý thuyết bất nhị tin rằng ta và tha nhân, xã hội và môi trường, quá khứ và tương lai, cái ta và cái khác, thực vốn không khác. Thơ Nguyễn Linh Khiếu hàm chứa nhiều nhận thức về tự do. Tôi nghĩ rằng đó là cốt lõi của thơ anh.

mọi con đường trên thế gian đều dẫn ta trở về ngôi nhà của mẹ

mọi con đường trên thế gian đều dẫn đến ngôi nhà của người ta yêu

mọi con đường trên thế gian đều dẫn ta đến với nàng

con đường không dẫn ta về với mẹ thì ta lạc lối

con đường không dẫn ta đến nhà nàng sẽ dẫn ta đến nhà tù.

Trong thời chúng ta, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại, các tác giả thường được chú ý vì sự nghi ngờ của họ đối với hiện thực, nhiều hơn là sự khẳng định, an ủi, khích lệ. Một trong những đặc tính của thơ Nguyễn Linh Khiếu là kết hợp giữa một mặt không ngừng tra hỏi đời sống, niềm tin, một mặt thơ là bài ca hát lên về cuộc đời, tính chuẩn mực của giá trị. Sự kết hợp có tính xung đột ấy chỉ có thể xuất hiện khi thơ là tiếng nói chủ quan của một người, trữ tình, sắc sảo, lãng mạn. Chúng ta đọc thơ anh không phải chỉ là để đi tìm sự thật bị khuất lấp, mà còn, và chính yếu là, đi tìm sự thật về một người đi tìm sự thật.

chỉ nói lên sự thật

chỉ viết lên sự thật

đó là trồng một cái cây

đó là gieo một hạt giống

đó là cày một thửa ruộng

đó là cuốc một vạt đất ven sông

Thơ Nguyễn Linh Khiếu tiến vminh triết. Tôi nghĩ đó là minh triết trữ tình. Những nơi chốn, sự vật mà anh kể lại đó đây trong các chuyến đi xa, những nhân vật mà anh gặp, những tự sự, mảnh đời trôi dạt, các truyền thống quen và lạ, v à tiếng nói phi chính thống, làm đầy buổi hòa nhạc của anh. Tính liên văn bản của bài thơ đôi khi quan trọng đến mức nội dung câu chuyện, kinh nghiệm cá nhân của tác giả trở nên ít quan trọng hơn, so với rung động của người đọc. Thơ trở thành ảo giác, hay chính là ảo giác được tạo ra bởi phép tu từ, sự vang động của âm chữ. Nhưng các biểu tượng trong thơ không phải là trang trí: chính chúng tạo ra trật tự xếp đặt của chữ, là sự hợp lý của lời, là bản vẽ cấu trúc vô thức của nhà thơ, các nguyên mẫu được sống lại bởi tài năng.

nước là tình yêu

nước là khát khao

nước là ham muốn

nước là nhục dục

nước là ta nước là nàng lênh láng ngày đêm dào dạt chảy xiết sang nhau rộn rã hoan ca đắm đuối nhiệm màu

Thơ dàn trải như ở nhiều nhà thơ hiện nay có điểm mạnh là phô tả cái rạo rực của đời sống, dòng chảy xiết của hôm nay, các khía cạnh khác nhau của xúc cảm, nhưng điểm yếu của họ là vì vậy mà ít có những câu tập trung, những bước ngoặt, như mũi kiếm nhọn. Để nắm giữ một giây phút của đời sống, bạn cần một câu thơ, hay một bài thơ, và khi nắm giữ giây phút ấy bạn chạm tới cái bất tận của thời gian, chiều sâu của giấc mơ.

trong chiến tranh mọi người lính đều là con đẻ của nhân dân

sau chiến tranh họ trở thành cha mẹ của nhân dân

Thơ không phải là phép lạ, không có một phương pháp nào làm thay đổi bạn trong chốc lát. Thơ hay tựa như cơn mưa đầu mùa, gió mát, suối nguồn, mang cho ta sự tươi mới của sự thật óng ánh, làm nhen ngọn lửa chiều hôm của tình yêu người. Nhiều khi anh nói quá, lặp lại nhiều lần, có thể làm người đọc mệt, nhưng hầu hết, Nguyễn Linh Khiếu chinh phục bạn dễ dàng sau khi bạn đọc lại. Sống thật cuộc đời mình không phải chỉ là đạt được điều ta muốn trong đời, mà là sống cuộc đời của tâm hồn mỗi người.

Anh không lên án ồn ào, không than khóc, tuy vậy có những dòng thật quyết liệt, không ai có thể nhầm lẫn, nhất là khi anh nói về đau thương mất mát, bài học của quá khứ, khi anh nghĩ về đất nước và chiến tranh. Thế giới ngày càng thay đổi, con người ngày càng ít hạnh phúc, ngày càng lo âu bấn loạn. Thơ như thơ của Nguyễn Linh Khiếu, ở trường hợp đặc sắc, lay động lòng người sâu thẳm. Đó không phải chỉ là một loại thơ ca ngợi phồn thực, bảo vệ sinh thái, giữ gìn các truyền thống dân tộc. Đó là một loại thơ trữ tình thực sự, có khả năng chạm tới tầng sâu nhất, mang bạn trở lại với đời sống từ vực sâu của thất vọng đối với người khác. Khi tôi đọc một bài thơ thành công của Nguyễn Linh Khiếu, tôi thấy lòng mình sáng hơn, mở rộng hơn, tôi thấy lòng tin của tôi chắc chắn hơn, tôi thấy lòng tin của tôi đối với dân tộc vững vàng hơn, sâu sắc hơn. Thơ như thơ ấy có thể giúp chúng ta hồi phục những ký ức về quê hương. Anh giúp tôi nhìn ra sức mạnh của sự tưởng tượng và của lòng trung thực. Thơ làm đầy sự tưởng tượng ấy, làm giàu có chúng, có thể nói được những điều chúng ta không nói bằng lời. Dù thơ cũng là lời, nhưng đó là lời kiểu khác, lặng lẽ, cô đọng, mãnh liệt, khi như sấm sét, khi như tiếng nói thầm của người yêu dấu. 

cầm tay em dưới vòm cổ thụ lá non mùa Hà Nội ta nói một lời yêu

một lời lá non

một lời diệu vợi

một lời sắt son

một lời không tuổi

mơn mởn lá non ngày xuân bổi hổi

Ngôn ngữ thơ xuất hiện với hai lý do: tạo ra sự tương thông giữa người viết và người đọc. Lý do thứ hai: chống lại sự liên thông ấy, kháng cự sự hiểu biết. Khuynh hướng thứ nhất làm người đọc đến gần tác giả, khuynh hướng thứ hai làm ngôn ngữ trở nên thơ mộng. Nếu cứ muốn nói gì cũng phải cho dễ hiểu, thì con người đã không cần đến thơ ca. Trong bài thơ, thế nào cũng phải có một điểm không thể hiểu được.

Nguyễn Linh Khiếu không dừng ở tác động hình ảnh, không dừng ở mô tả khách quan, như ở các nhà thơ theo chủ nghĩa hình ảnh, imagism, mà anh xâu chuỗi chúng bằng cách kể chuyện, tạo ra phản ứng ở người đọc, tương tự như phản ứng trong tâm hồn tác giả, làm cho thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh liên hợp. Sông Hồng chảy trong lòng anh cũng chảy trong lòng chúng ta, đám cưới của anh với mùa xuân, bản hòa tấu của nó, cũng vang lên trên mỗi trang giấy của chúng ta, trong tiếng động của chiếc đồng hồ treo tường. Chữ của anh là chữ bày tỏ, tâm tình, kể lại câu chuyện đời mình, nhận thức riêng tư, nhưng người đọc tìm thấy ở đó tiếng nói của họ. Áp lực của đời sống ngày càng mãnh liệt, sự tham lam của con người là vô độ, sự u tối lớn hơn nữa, nhưng Nguyễn Linh Khiếu không chán nản. Trong thời buổi của chúng ta, yêu mến sự thật và khen ngợi lòng tốt là một thái độ chính trị. Ca tụng thiên nhiên, cầu nguyện thần linh, trở về tắm dòng suối mát quê hương, cúi đầu xuống uống nước ở đó, không phải chỉ là một thái độ cá nhân, mà còn là một tuyên bố xã hội. Tôi đọc thơ Nguyễn Linh Khiếu trong ý nghĩ này, và tôi tin rằng sẽ ngày càng nhiều người hơn đọc thơ anh như thế, như bạn mở một cánh cửa, để từ đó đi tới cái rộng lớn hơn, hàm chứa trong thơ anh, như những mùa màng sẵn chứa trong một hạt giống.

Nguyễn Đức Tùng

(Đọc Thơ- bài 32)

Chú thích- Các nguồn tham khảo:

1. http://vanvn.net/chuyen-van-chuong/trang-tho-tu-chon-cua-nha-tho-nguyen-linh-khieu/565

2. http://vanvn.net/tac-pham-va-du-luan/%E2%80%9Cphon-sinh%E2%80%9D-khong-chi-la-%E2%80%9Cphon%E2%80%9D-va%E2%80%9Csinh%E2%80%9D-/2370

3. Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu: Phồn sinh - thế giới bất tận của Phồn sinh và sinh sôi, Cẩm Thúy thực hiện.

http://daidoanket.vn/nha-tho-nguyen-linh-khieu-phon-sinh--the-gioi-bat-tan-cua-phon-thuc-va-sinh-soi-444809.html

4. Harold Bloom, editor: Selected poems, Walt Whitman.

https://www.waltwhitman.org/product/walt-whitman-selected-poems-edited-by-harold-bloom/

5.  Fiona Sampson: Poetry writing, the expert guide, Robert Hale, London 2009.