Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2021

Giới thiệu tập thơ THE WILD IRIS

Ngu Yên

image

Tập thơ The Wild Iris ấn hành năm 1992 đã mang lại giải thưởng Pulitzer cho thi sĩ Louise Glück. (1)

Trước khi lãnh giải Nobel văn chương năm 2020, bà đã là một thi sĩ nổi tiếng, đoạt một số giải thưởng và tước hiệu quan trọng, như Thi sĩ Công huân quốc gia năm 2003-2004.

Thi sĩ Robert Hass nhận xét về bà: “...một trong những nhà thơ trữ tình thuần túy và thành công nhất hiện nay.”

The Wild Iris, Hoa Diên vĩ hoang dại, là một tập hợp thơ tuyển chọn những bài miêu tả khu vườn của thi sĩ. Trong 54 bài thơ này, bà diễn đạt thâm trầm những thao thức của linh hồn, những câu hỏi về siêu nhiên, những hình ảnh bình thường trở thành ẩn dụ, dụ ngôn nhắc nhở ý nghĩa trong đời sống hàng ngày.

The Wild Iris khi mới đọc qua có thể có cảm nhận nó đơn giản, không có gì mới lạ, kể lể tâm tình. Nếu đọc đôi lần, đọc kỹ hơn, The Wild Iris trở nên phức tạp và sâu sắc. Chẳng những đòi hỏi người đọc phải có kinh nghiệm sống, mà còn phải có tư duy về kinh nghiệm đã trải qua hoặc đã từng quan sát.

Ví dụ, viết về Thượng Đế qua một đoạn độc thoại nội tâm, bà đưa ra một điều cơ bản đáng suy tư: Thượng Đế luôn luôn đòi hỏi con người phải kính mến, yêu thương Thượng Đế để được đáp trả những ân sủng.

[...]

Tháng năm dài đen tối,

chúng con thay phiên canh giữ vườn địa đàng,

những giọt lệ đầu tiên trào ra khỏi mắt

như mặt đất sa mù bởi cánh hoa,

vài cánh đỏ sậm,

vài cánh đỏ màu thịt tươi.

Chúng con không bao giờ nghĩ

đang học từ cha cách sống giáo điều.

Đơn thuần chúng con hiểu,

không phải bản tính người,

chỉ yêu thương vì muốn được yêu thương.

(Matins.)

Về mặt học thuật, trong tập thơ này, bà sử dụng rất nhiều phương pháp nhân cách hóa, hình tượng hóa. Những bông hoa, thời tiết, cảnh trí, trở thành nhân vật, nói lên những nhận xét từ góc nhìn của chúng, cho dù đó là ý niệm, quan điểm của thi sĩ.

Nhân cách hóa là kỹ thuật quen thuộc vì hầu hết mọi người trải qua tuổi thơ đều đã từng nghe kể truyện, xem hình, theo dõi phim với những vai chính như con thú, bông hoa, chim chóc nói tiếng người. Tiềm thức đó dẫn từ ngụ ngôn đi vào hiện thực đời sống, dễ dàng nhận diện tứ thơ và ẩn nghĩa bên trong.

Bà sử dụng chữ nghĩa giản dị, dễ hiểu; xây dựng những tứ thơ bình thường, hầu hết là những kinh nghiệm xảy ra thường ngày; để gói ghém những điều cần giải mã hoặc cần kinh nghiệm để nhận thức.

Như nói về gió, ngụ ý về đời sống con người:

Đời ngươi sống như cánh chim bay

bắt đầu và chấm dứt trong tĩnh lặng

bắt đầu và chấm dứt, trong dạng âm vang

bay vòng cung từ cây Bạch dương đến cây Táo.

(Retreating Wind.)

Sử dụng hiện tượng hóa thuần thục nói lên sự thấm nhuần của thi sĩ về một vật thể hoặc sinh vật không phải là người. Dùng phẩm chất của những thứ không-người để ngụ ý phẩm chất làm người. Dùng những ý và tứ thơ từ những quan sát và suy nghĩ của các “nhân vật” không phải người để sáng tác về người, bà mang đến sự mới mẻ và khác thường từ những gì rất bình thường. Kỹ thuật này pha lẫn giữa tự sự và ẩn dụ có khả năng cưu mang nhiều lớp hoặc nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi một khả năng tưởng tượng phong phú, nhưng không quá độ phiêu lưu, tạo ra những tứ thơ có chất lượng chinh phục người đọc. Dù biết lời thơ là những hư cấu từ kinh nghiệm và nhận thức, nhưng người đọc vẫn cảm thấy thú vị và hài lòng.

Ví dụ:

Đôi khi đàn ông hay đàn bà áp đặt tuyệt vọng

lên người khác,

gọi là lột trần trái tim,

nói một cách khác, lột trần linh hồn

[...]

(Love in Moonlight.)

Đọc thơ trong The Wild Iris, không phải đọc trực tiếp từ tác giả, mà đọc từ những “bản chất, cá tính” của cỏ, hoa, thiên nhiên, đồ vật. Vì vậy, đôi lúc, tứ thơ gây bỡ ngỡ, lý luận lạ lẫm, và những câu thơ thường nêu ra băn khoăn, thắc mắc muốn đọc lại.

Trong tập thơ này, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ mang tựa đề giống nhau, như Kinh Sáng (Matins), Kinh Chiều (Vespers). Có lẽ, dụng ý của bà cho người đọc theo dõi hai loại kinh dài, chia làm nhiều đoạn, nhưng không liên tục, mà trình bày theo kỹ thuật mảnh rời trong khuynh hướng Hậu Hiện Đại. Những mảnh rời trong cùng một tựa đề cho phép người đọc theo dõi từng chủ đề phụ và nội dung khác nhau. Nói một cách khác, không có tính nhất quán nhưng có tính liên đới. Thơ có nội dung và ý nghĩa liên đới xuất hiện trong thơ mảnh rời, thơ Đa đầu, thơ Mô hình và nghệ thuật quảng cáo.

Khác với đọc thơ Octavio Paz, Luis Borges, tôi có cảm giác như đang nghe hai người thầy tận tình chia sẻ những trầm tư khó hiểu trong đời người. Đọc Pablo Neruda, có cảm giác đang làm quen với một chính trị gia thi sĩ, từng trải phong lưu, thâm thúy nghệ thuật phụ nữ. Đọc Federico Garcia Lorca, cảm tưởng đang tận hưởng tâm tình lãng mạn của một nghệ sĩ tài hoa vượt bậc. Gây cho mình ấn tượng chưa biết thế nào là yêu. Tiếc thay, ông qua đời quá sớm... Đọc The Wild Iris, tôi thấy được người chị hiền hậu ghé thăm, kể nghe những chuyện tỉ mỉ vui buồn. Có chuyện thâm trầm. Có chuyện ngộ nghĩnh. Có chuyện mới lạ... Tuy vậy, không phải chuyện nào cũng dễ hiểu. Có nhiều lúc phải yêu cầu chị kể lại vài lần hoặc nhiều lần để có thể nắm bắt nhiều sâu sắc hơn. Ngồi nghe những chuyện đời quen thuộc với ý nghĩa tinh vi, làm ấm lòng những ai không vừa ý cuộc sống. Những ai chán nản vì yên ba thâm xứ hữu ngư châu. (2)

Louise Glück phát hành 17 tác phẩm thơ trước khi lãnh giải Nobel. Mỗi tác phẩm của bà là mỗi bề mặt khác nhau của kinh nghiệm sống và nghệ thuật thơ từ phẩm chất riêng tư, không tiền phong cũng không truyền thống. Thơ của bà có khả năng xâm nhập vào đám đông và lưu lại những soi sáng văn chương.

Ghi:

Những bài thơ trong The Wild Iris được diễn đạt qua hình thức câu vắt hàng theo nhịp điệu và ý nghĩa do tác giả chọn lựa. Khi dịch sang tiếng Việt, tôi xin đổi thể thơ, một cách nào đó cho phù hợp với văn chương thơ Việt. Không tuân theo tinh thần và hình thể câu vắt hàng.

Tôi cũng chọn phương pháp dịch theo văn hóa Việt (Communicative translation), với mục đích làm sao cho người đọc có thể cảm giác gần gũi với thơ Tự do tiếng Việt. Dĩ nhiên, dịch thơ là một công việc liều lĩnh như một kẻ ngoan cố, bị cảnh cáo, vẫn lần mò đi vào rừng lúc chạng vạng dày đặc sương mù.

(1) Bạn đọc có thể tải xuống nguyên tác phẩm The Wild Iris, Hoa Diên vĩ hoang dại của thi sĩ Nobel Louise Glück như món quà đầu năm của Ngu Yên gửi tặng.

Chúc tất cả bên ngoài sức khỏe, bên trong bình an, và trong ngoài may mắn.

https://www.academia.edu/44922913/The_Wild_Iris_Hoa_Di%C3%AAn_V%C4%A9_Hoang_D%E1%BA%A1i_Louise_Gluck_Nobel_2020_

(Bấm Download. Chọn This paper. Chọn ở dưới hết: No Thanks, I just want this paper. Sách sẽ tự động tải xuống, miễn phí. File nằm góc bên trái, dưới cùng.)

(2) Trong bài Uống rượu tiêu sầu của Cao Bá Quát.

image

 

HOA DIÊN VĨ HOANG DẠI.

[Lời của hoa Diên vĩ.]

Đến cuối đường khổ đau

thấy một cánh cửa.

 

Tôi vẫn nhớ, xin nhắc lại:

các người gọi đây là cửa chết.

 

Bên trên, tiếng động, cành thông lắc lư.

Rồi im ắng. Nắng yếu ớt

lung linh trên đất khô cằn.

 

Thật là khủng khiếp để được tồn tại

ý thức phải chôn vào lòng đất tối tăm.

 

Như vậy, kể như đã chết:

điều mà chúng ta lo sợ,

là linh hồn không thể lên tiếng,

trở thành một kết thúc bất ngờ,

mặt đất cứng vẫn uốn cong theo hình cầu. (*)

Và tôi phải làm gì để trở thành đàn chim

bay đụng đầu trong lùm cây thấp.

 

Các người không còn nhớ

lối về từ thế giới bên kia

Nói cho các người biết, tôi có thể kể:

bất kỳ chuyện gì nhớ lại

khi trở về từ cõi lãng quên

để tìm ra lời nói:

 

“đời tôi từ nhụy hoa 

tuôn một dòng suối lạ thường,

xanh thẳm

làm đậm màu nước biển xanh lơ.” (**)

 

(*) Mặt đất cứng uốn cong một chút.

(**) “đời tôi từ tâm điểm

        tuôn một dòng suối lớn

        xanh thẳm [chảy vào đại dương]

        pha đậm màu nước biển xanh lơ.”

 

The Wild Iris.

 

At the end of my suffering

there was a door.

 

Hear me out: that which you call death

I remember.

 

Overhead, noises, branches of the pine shifting.

Then nothing. The weak sun

flickered over the dry surface.

 

It is terrible to survive

as consciousness

buried in the dark earth.

 

Then it was over: that which you fear, being

a soul and unable

to speak, ending abruptly, the stiff earth

bending a little. And what I took to be

birds darting in low shrubs.

 

You who do not remember

passage from the other world

I tell you I could speak again: whatever

returns from oblivion returns

to find a voice:

 

from the center of my life came

a great fountain, deep blue

shadows on azure seawater.

 

 

HOA  LAMIUM. (*)

[Lời của hoa Lamium.]

Đây là lối sống của người nào có trái tim lạnh lùng.

Như tôi: sống trong bóng tối, mọc qua tảng đá thờ ơ,

dưới gốc cây Phong già.

 

Nắng hầu như không chạm đến.

Đôi khi thấy ít nắng đầu xuân, nhấp nhá từ xa xôi.

Rồi lá mọc lên, che kín ánh nắng.

Tôi cảm thấy nắng lấp lánh trên lá, thất thường,

như ai đó đập vào ly thủy tinh bằng muỗng kim loại.

 

Không phải sinh vật nào

cũng đòi hỏi cường độ ánh sánh như nhau.

Một số trong chúng ta tự tạo ra ánh sáng:

chiếc lá óng ánh như lối đi chưa ai giẫm chân,

mặt hồ lóng lánh mập mờ dưới hàng phong già tăm tối.

 

Có lẽ các người đã biết điều này.

Các người và những ai có cùng ý nghĩ.

Sống vì sự thật và tình thương, hiểu theo nghĩa rộng,

yêu những điều này nghĩa là có trái tim lạnh lùng.

 

Ghi:

(*) Lamium không có tên Việt, thuộc họ hoa Môi.

 

Lamium.

 

This is how you live when you have a cold heart.

As I do: in shadows, trailing over cool rock,

under the great maple trees.

 

The sun hardly touches me.

Sometimes I see it in early spring, rising very far away.

Then leaves grow over it, completely hiding it. I feel it

glinting through the leaves, erratic,

like someone hitting the side of a glass with a metal spoon.

 

Living things don’t all require

light in the same degree. Some of us

make our own light: a silver leaf

like a path no one can use, a shallow

lake of silver in the darkness under the great maples.

 

But you know this already.

You and the others who think

you live for truth and, by extension, love

all that is cold.

 

 

CA KHÚC.

 

Như trái tim được chăm sóc,

hoa Hồng dại

đỏ màu máu tươi

bắt đầu nở trên cành thấp nhất,

được che bởi bóng mát

từ bụi cây rậm rạp:

hoa Hồng trong tối tăm

như trái tim trên nền đen cố định,

trong khi những hoa nở trên cao

mau héo hoặc chóng tàn;

hoa trong tối sống sót

đơn thuần nhờ hoàn cảnh

làm màu hoa đậm thêm.

Nhưng John không đồng ý,

anh nghĩ

nếu đây không phải là bài thơ

chỉ là khu vườn thật,

như thế hoa Hồng đỏ

không cần phải giống một thứ gì,

không phải phấn hoa

cũng không phải trái tim trong bóng tối,

mọc trên mặt đất

tự thúc đẩy hoa

một nửa đỏ màu nâu hạt dẻ

một nửa đỏ màu thắm quả gấc.

 

Song.

 

Like a protected heart,

the blood-red

flower of the wild rose begins

to open on the lowest branch,

 

supported by the netted

mass of a large shrub:

it blooms against the dark

which is the heart's constant

backdrop, while flowers

higher up have wilted or rotted;

to survive

adversity merely

deepens its color. But John

objects, he thinks

if this were not a poem but

an actual garden, then

the red rose would be

required to resemble

nothing else, neither

anther flower nor

the shadowy heart, at

earth level pushing

half maroon, half crimson.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Sự vắng mặt của cha lâu ngày,

cho phép con sử dụng mặt đất,

cha dự tính sẽ thâu lợi từ cuộc đầu tư.

Con phải báo cáo việc này đã thất bại,

về căn bản liên quan đến cây cà chua.

 

Con nghĩ mình được khuyến khích để trồng cà.

Nếu con là cha,

sẽ giữ lại những cơn mưa lớn,

những đêm giá lạnh nhiều lần qua đây,

trong khi những vùng khác được 12 tuần hè nắng ấm.

Tất cả các việc này thuộc về cha:

mặt khác, con gieo hạt,

theo dõi chồi non

khởi đầu như chắp cánh mọc xé đất,

rồi tim con sầu bi bởi bệnh Nấm sương,

những đốm đen lan tràn nhanh chóng.

Con nghi ngờ nếu cha có trái tim,

nói theo thuật ngữ mà chúng con được biết.

Cha không phân biệt giữa chết và sống,

vậy thì ai là người không bị ảnh hưởng

bởi những điềm báo trước quá mơ hồ,

cha có thể không biết

chúng con chịu đựng nhiều khổ tâm,

chiếc lá bị đốm,

đám lá Phong đỏ rụng rơi

dù chỉ mới tháng Tám,

rồi bóng tối đến sớm:

con phải chịu trách nhiệm cho những dây cà.

 

Vespers.

 

In your extended absence, you permit me

use of earth, anticipating

some return on investment. I must report

failure in my assignment, principally

regarding the tomato plants.

I think I should not be encouraged to grow

tomatoes. Or, if I am, you should withhold

the heavy rains, the cold nights that come

so often here, while other regions get

twelve weeks of summer. All this

belongs to you: on the other hand,

I planted the seeds, I watched the first shoots

like wings tearing the soil, and it was my heart

broken by the blight, the black spot so quickly

multiplying in the rows. I doubt

you have a heart, in our understanding of

that term. You who do not discriminate

between the dead and the living, who are, in consequence,

immune to foreshadowing, you may not know

how much terror we bear, the spotted leaf,

the red leaves of the maple falling

even in August, in early darkness: I am responsible

for these vines.

 

 

BÓNG TỐI LÚC CÒN SỚM.

[Lời của bóng tối.]

Sao các người dám nói

trái đất nên tặng tôi niềm vui?

Mỗi thứ sinh ra trên đó đều cho tôi gánh nặng;

Làm sao có thể thành công với tất cả các người.

 

Các người muốn chỉ đạo,

muốn cho tôi biết

ai trong các người là bậc cao nhân, (*)

ai giống tôi nhất.

Các người nêu ra điển hình

một đời sống tinh khiết.

một chuyện xa vời các người thực hiện khó khăn –

 

Làm sao các người hiểu được tôi

khi không thể hiểu chính mình?

Trí nhớ của các người thiếu hiệu quả,

không thể hồi tưởng chuyện sâu xa.

 

Đừng bao giờ quên

các người là con cái của tôi.

Các người bớt đau khổ vì quây quần có nhau,

nhưng vì trót sinh ra,

vì cuộc sống đòi hỏi

các người phải xa rời tôi.

 

(*) có giá trị nhất.

 

Early Darkness.

 

How can you say

earth should give me joy? Each thing

born is my burden; I cannot succeed

with all of you.

 

And you would like to dictate to me,

you would like to tell me

who among you is most valuable,

who most resembles me.

And you hold up as an example

the pure life, the detachment

you struggle to achieve--

 

How can you understand me

when you cannot understand yourselves?

Your memory is not

powerful enough, it will not

reach back far enough--

 

Never forget you are my children.

You are not suffering because you touched each other

but because you were born,

because you required life

separate from me.

 

 

ÁNH SÁNG RÚT LUI.

[Lời của ánh sáng.]

Các người mãi mãi là trẻ nít,

luôn luôn chờ đợi nghe một chuyện gì.

Tôi đã kể quá nhiều,

chán quá không kể nữa.

Vì vậy, đưa giấy bút cho các người,

bút làm bằng vỏ lau sậy

Tôi tập hợp bản thân

trong những chiều trên cánh đồng rậm rạp,

để nói với các người,

phải tự mình viết câu chuyện riêng.

 

Sau bao năm lắng nghe

Tôi tưởng các người đã biết

chuyện xảy ra thế nào.

 

Nhưng những gì các người có thể làm

chỉ là khóc.

Các người muốn hết mọi thứ khi nghe kể

nhưng không thứ nào suy xét ngọn ngành.

 

Từ đó, tôi nhận ra các người không thực sự suy nghĩ

bằng dũng cảm và đam mê;

chưa hề có đời sống riêng,

chỉ có bi kịch.

Do đó, tôi cho các người bi kịch trong đời sống,

bởi lẽ, chỉ giấy bút, không đủ để các người sáng tác, (*)

 

Các người sẽ không bao giờ hiểu sâu xa

lòng tôi thật sung sướng

khi thấy các người ngồi kia

như những sinh vật độc lập,

thấy các người mơ mộng nhìn ra cửa sổ,

tay cầm bút mà tôi đã trao

cho đến khi

buổi sáng mùa hè tan vào tác phẩm.

 

Sáng tạo đã mang các người,

như tôi đã biết trước,

niềm phấn khởi vô cùng thú vị,

ngay từ khởi đầu.

Bây giờ, tôi được tự do, muốn làm gì tùy ý,

tham gia vào các việc khác,

với lòng tin

các người không còn cần tôi nữa.

 

(*) Because apparently, tools alone weren’t enough: Bởi vì quá rõ ràng, chỉ dụng cụ không là không đủ.

 

Retreating Light.

 

You were always very young children,

always waiting for a story.

And I’d been through it all too many times;

I was tired of telling stories.

So I gave you the pencil and paper.

I gave you pens made of reeds

I had gathered myself, afternoons in the dense meadows.

I told you, write your own story.

 

After all those years of listening

I thought you’d know

what a story was.

 

All you could do was weep.

You wanted everything told to you

and nothing thought through yourselves.

 

Then I realized you couldn’t think

with any real boldness or passion;

you hadn’t had your own lives yet,

your own tragedies.

So I gave you lives, I gave you tragedies,

because apparently tools alone weren’t enough.

 

You will never know how deeply

it pleases me to see you sitting there

like independent beings,

to see you dreaming by the open window,

holding the pencils I gave you

until the summer morning disappears into writing.

 

Creation has brought you

great excitement, as I knew it would,

as it does in the beginning.

And I am free to do as I please now,

to attend to other things, in confidence

you have no need of me anymore.