Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2019

Dòng nhạc kỷ niệm với nhạc cũ miền Nam (kỳ 84): Trần Đình Quân: Khúc tình ca xứ Huế

T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện (2019)

clip_image001

clip_image002

clip_image003

clip_image004

clip_image005

Khúc tình ca xứ Huế – Sáng tác: Trần Đình Quân

Trình bày: Hà Thanh (Pre 75)

Đọc thêm:

Trần Đình Quân và Khúc tình ca xứ Huế

clip_image007

Mùa hè 1964.

Chiếc xe đò Phi Long sơn hai màu vàng đỏ chạy đường Đà Nẵng – Qui Nhơn rời bến tại ngã năm Phan Châu Trinh – Hoàng Diệu đúng 5 giờ sáng một ngày thứ bảy. Trần Đình Quân, Nguyễn Thanh Trầm và tôi được điều động vào chấm thi Tú Tài I tại Hội đồng thi Qui Nhơn. Mặc dầu được Phòng Tài vụ Toà Thị chính Đà Nẵng cấp phương tiện di chuyển bằng máy bay, nhưng máy bay Đà Nẵng – Qui Nhơn tuần chỉ có hai chuyến, thứ Hai và thứ Năm. Đi vào ngày thứ Hai thì quá trễ, ngày thứ Năm thì quá sớm. Chúng tôi rủ nhau đi bằng xe hơi cho vui.

Chiếc xe đò hai màu vàng đỏ của hãng xe Phi Long băng băng qua các con đường thành phố còn yên ngủ: Phan Châu Trinh, Hùng Vương, Thống Nhất, rồi bon bon chạy dọc theo Quốc Lộ số Một. Hai bên đường, những hàng cây xanh còn mờ mờ hơi sương, không khí ban mai trong vắt và se se lạnh.

Thuở ấy dân Đà Nẵng chưa đông, nhà cửa chưa san sát chất chồng như bây giờ. Tất cả yên tĩnh, chỉ có tiếng động cơ xe rù rù. Trần Đình Quân dành ưu tiên ngồi chễm chệ trên chiếc ghế trước đầu xe, bên phải tài xế. Tôi và Trầm phải nhường thôi, ngồi ở hàng ghế sau lưng.

Tôi đang vo tròn một ý thơ vừa xuất hiện trong trí, Trần Đình Quân đang lẩm nhẩm một khúc nhạc đắc ý nào đó, Trầm thì nhắm mắt ngả lưng vào thành ghế, cố tìm lại giấc ngủ dở dang. Đến cầu Bà Rén, chiếc xe đang ngon trớn bỗng chao qua trái, chao qua phải, lại chao qua trái, rồi chao qua phải lại, tông mạnh vào lan can cầu rơi tòm xuống sông. Hình như tôi đã bất tỉnh bởi cú chạm mạnh lần sau và chỉ tỉnh lại khi nước sông mát lạnh thắm vào người. Từ từ, tôi đưa tay vin vào cửa sổ xe, níu chặt khung cửa và định nhoài người ra, leo lên. Tay tôi đã được một người nào đó cầm lấy và kéo lên khỏi mặt nước. Mùa hè nên nước con sông Thu Bồn rất cạn, chiếc xe chỉ chìm quá trần khoảng một gang tay. Tôi đứng yên trên trần xe, nhìn quanh. Ba bốn chiếc đò của dân địa phương đang loay hoay quanh chiếc xe bị nạn. Mấy chiếc va-li hành lý nổi bập bềnh, dần trôi giạt ra xa. Tôi leo lên một chiếc đò, cố vớt va-li của Quân trước vì nó gần hơn rồi mới vớt va li của mình. Trần Đình Quân đã bơi vào bờ, đang nằm dài trên bãi cát bờ sông, mặt anh đầm đìa những máu. Anh đã phóng ra ngay khi xe rơi xuống nước nên hứng trọn mảnh vụn của kiếng xe văng tung toé vào mặt, vào người. Bình thường anh chầm chậm, uể oải, nhưng có việc gì thì sẽ nhanh như sóc, tính anh vẫn vậy. Anh không mở mắt, bảo tôi: Tìm hành lý cho tau với. Nghe tôi nói đây rồi, anh chỉ nhướng mắt một chút rồi bảo: lau mắt tau chút, nhè nhẹ thôi. Tôi làm theo lời anh. Mặt anh bị cày sướt, tai rách, môi rách, mắt sưng vù.

Có hai chiếc xe của hãng Phi Long đến hiện trường chở hành khách trở về lại Đà Nẵng. Trầm chỉ bị thương nhẹ nên theo các xe đó về trước. Trần Đình Quân phải nằm xe cấp cứu về bệnh viện Đà Nẵng, thuở ấy còn đặt tại đường Hùng Vương. Tôi về theo anh. Suốt trên xe, anh kéo chân tôi lại và gối đầu lên đó. Đuổi ruồi giúp tau. Tôi đuổi. Lau máu nơi mắt trái một chút. Tôi lau. Quân như vậy đó, ưa điều khiển, ưa người khác săn sóc mình, ưa người khác làm theo ý mình. Ưa được vỗ về. Chuyến đó anh phải nằm bệnh viện mất một tháng. Tôi còn nhớ cô y tá săn sóc cho Trần Đình Quân khi đó rất đẹp, tên Hường, một người đặc biệt ái mộ và mê nhạc Trần Đình Quân. Tôi thì ra về đi chơi tỉnh bơ, ai cũng ngạc nhiên. Trong tai nạn này, có hai người chết.

clip_image008

Tôi và Quân có rất nhiều kỷ niệm. Đó là một trong những kỷ niệm sâu đậm nhất. Tôi chơi rất thân với anh hồi hai đứa còn độc thân. Mỗi lần về Huế, về thăm nhà mình xong ở Vỹ Dạ là tôi đến nhà anh ở thượng thành liền. Hai đứa cứ kéo nhau đi lang thang mấy con đường của thành phố, khi vào Hồ Tịnh Tâm ngắm hoa sen nở hương thơm ngây ngất, khi thơ thẩn cùng nhau đứng tựa vào lan can cầu Trường Tiền, nhìn về phía thượng nguồn sông Hương mây trắng sương mù bao phủ, nhìn về phía Vỹ Dạ những hàng tre lả ngọn, cao vút, đong đưa. Cồn Hến một màu xanh ngắt, một làn khói chiều lan rộng ảo ảo mơ mơ, những chiếc thuyền con bập bềnh trên nước, xa xa bến Thừa Phủ đò ngang qua lại vội vội, vàng vàng, gió thổi lồng lộng, những tà áo trắng thướt tha, gió in thân hình tròn lẵn như khêu gợi, như mời mọc, thả lòng thanh xuân cho ngây ngất, đắm say, thấy thương yêu vợi vợi, khôn cùng…

Ở Đà Nẵng, anh Trần Ngọc Quán, chủ tiệm sách Sông Đà, có cho tôi thuê một phòng nhỏ, tại đường Tiểu La, bên cạnh Cổ Viện Chàm Đà Nẵng, sát với con sông Hàn thơ mộng (ngôi nhà này bây giờ đã được đập bỏ, để kéo dài con đường Bạch Đằng lên tận Bến Đò Xu). Mỗi lần không có giờ dạy, Quân đều đến tôi chơi, nhiều khi ở lại luôn, nghe nhạc, đọc báo, rồi theo tôi đi ăn cơm tại các tiệm Thời Đại, Lâm Ký, … trên chiếc xe Vespa Ý Piagio màu xanh nhạt của tôi hồi ấy. Tôi để ý, ngồi đâu anh cũng với ngay cây đàn. Bao giờ trên tay Quân cũng có cây đàn. Cây đàn không rời anh nửa bước. Gảy vài đoạn nhạc, hát khẽ vài câu, rồi mới ngủ, rồi mới ăn. Ngủ dậy lại ôm đàn ngay… Chúng tôi hay đi coi thi, chấm thi cùng nhau: Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Qui Nhơn, Sài Gòn, Phan Thiết… Tôi trọ khách sạn thì anh cũng trọ khách sạn, tôi ở ngay trong trường thi thì anh cũng vào đó ở. Từ khi lập gia đình, thân thiết giữa tôi và anh có giảm đi. Tôi mải mê với chuyện mở cua dạy thêm, dạy kèm, dạy luyện thi… Mở lớp Toán nào ra đều được học trò ghi tên xin học đông đảo không ngờ. Lớp học khi nào cũng đông nghẹt… Dạy sáng, dạy chiều, dạy tối, liên tu bất tận, nhiều khi mệt đến thở không ra hơi, mà vẫn cứ ham. Thời gian này Quân lại mê say với hoạt động Du ca. Áo nâu quần nâu đi đây đi đó ca hát. Anh có một số bạn mới thân thiết: Đỗ Viết Lê, Nguyễn Ngọc Thanh, Lê Quang Mai, Tôn Thất Lan…, vì vậy chúng tôi rất ít gặp nhau. Cho đến khi Quân lập gia đình, anh mua một ngôi nhà nhỏ trong Khu cư xá Cao Thắng cạnh nhà tôi, cách nhau chỉ khoảng 10 m, khi đó chúng tôi mới hay đến nhà nhau lại, thăm viếng, hàn huyên.

Trần Đình Quân tuổi Mậu Dần (1938), mặc dù trong khai sinh ghi là 1939. Thân phụ là cụ Trần Đình Dần, người làng Tam Đa, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (bây giờ là Hà Tây). Thuở trai trẻ, cụ ở Hà Nội, làm việc tại toà soạn báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi tờ báo này bị đóng cửa, cụ chuyển vào Huế, hoạt động cách mạng một thời gian, với chức vụ Ủy viên Kinh tế xã. Không thoát ly ra Bắc, cụ ở lại Huế làm cho tờ báo Tiếng Dân của Võ Như Nguyện. Thân mẫu là bà Bùi Thị Uyển nổi tiếng nhan sắc một thời, người làng Mỹ Xá, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi hai ông bà gặp nhau, ông đã có một đời vợ, bà đã có một đời chồng. Ông có một đứa con riêng: Trần Đình Trung. Hai người có ba người con chung: Trần Đình Quân, Trần Thị Mai Hoa, Trần Thị Hồng. Trần Đình Trung thương yêu lắm những người em cùng cha khác mẹ của mình, luôn luôn săn sóc đỡ đần mọi chuyện. Lúc trẻ, Trần Đình Trung rất mê say với cách mạng, đã có lần bỏ học lên chiến khu. Bị bắt, bị tù, được thả ra, trở lại đi học tiếp. Sau là Trung tá Quân đội VNCH, tử trận năm 1972 tại mặt trận Pleiku.

Trần Đình Quân thừa hưởng dòng máu nghệ sĩ lãng mạn của bên ngoại. Lúc 6, 7 tuổi đã rất mê âm nhạc. Hồi đó có rất nhiều đoàn văn công về hoạt động ở quê ngoại làng Mỹ Xá. Mỗi khi có đoàn nào đến là gia đình không thấy mặt Trần Đình Quân đâu cả. Anh bám riết theo đoàn, theo các văn nghệ sĩ của đoàn, nhìn họ sinh hoạt, nhìn họ tập ca tập múa, say sưa không chán.

Bà mẹ vốn có máu nghệ sĩ trong người, không lấy thế làm buồn, luôn luôn che chở khuyến khích con trai, mặc đi sớm về khuya thoả thích. Cậu nhỏ hồi đó thuộc làu làu các bài ca cách mạng, về nhà là hát oang lên. Năm 1951, Quân được cho lên Huế học, trú tại Gia Hội. Anh theo học 4 năm Trung học Đệ Nhất Cấp tại trường Trung học Tư thục Nguyễn Du. Anh là một học sinh giỏi và luôn luôn là người tổ chức mọi sinh hoạt văn nghệ cho lớp, cho trường nên rất được các thầy cô bạn bè yêu mến. Về nhà, tay anh không khi nào rời cây lục huyền cầm. Say sưa. Cuồng nhiệt. Năm Đệ Tam anh vào học Quốc Học cho đến khi tốt nghiệp Tú tài (1958).

Thuở đó, Huế vừa có trường Đại học, nhưng anh chiều ý gia đình, vào học tại Sài Gòn, ở tại nhà anh Trần Đình Trung của mình, để giảm bớt gánh nặng cho ba mẹ. Anh thi vào trường Đại học Sư phạm, ban Việt Hán B, khi tốt nghiệp (1961) được bổ về dạy tại trường Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Năm 1965, Quân và một số thầy cô Phan Châu Trinh vì phê phán những phát biểu thiếu trách nhiệm của bác sĩ T.N.N, Tổng trưởng Giáo Dục hồi đó, nên bị gọi nhập ngũ. Anh tốt nghiệp Khoá 25 Thủ Đức và được biệt phái về dạy lại tại Phan Châu Trinh.

Năm 1971, anh xin chuyển qua làm Quản thủ Thư viện, rồi được cử qua Úc tu nghiệp hai năm về thư viện. Về nước anh lập gia đình, hoạt động Du ca, sáng tác, dạy học, cho đến 1975 thì đi học tập cải tạo. Anh thuộc diện buộc đi kinh tế mới, nên bỏ vào Sài Gòn. Vào đó, chính quyền địa phương cũng yêu cầu ra khỏi thành phố. Anh vượt biên năm1986. Qua Úc ở một thời gian rồi tiếp tục qua Mỹ, trú tại bang California. Anh mắc bệnh Alzheimer, gia đình chỉ phát giác được khi bệnh đã trầm trọng, đi làm hay đi đâu đó nhiều khi anh quên cả lối về.

Chàng trai đa tình tài hoa lắm mơ nhiều mộng Trần Đình Quân có một đời tình rất phong phú. Ngoài mặt anh có vẻ lãnh đạm khắc khổ nhưng trong hồn dạt dào tình cảm. Anh có vẻ lạnh như băng sơn, nhưng đúng khi đúng lúc sẽ ào ào như hoả diệm sơn ngùn ngụt. Học trò vừa mến anh, vừa thích anh nhưng cũng vừa sợ anh. Vừa muốn gần nhưng cũng muốn tránh. Anh đang vui cười đùa giỡn đó nhưng phút chốc có thể cay đắng ngay, mỉa mai ngay. Khi nào ngọt ngào thì anh hay sử dụng tiếng Huế, khi châm chích thì lại nói giọng Bắc. Anh sống thiên về nội tâm. Anh có nét duyên thầm, có sức lôi cuốn mãnh liệt người khác, mặc dù anh không đẹp trai lắm. Da anh tai tái, đầu tóc lơ thơ, vì kinh qua một cơn đau thương hàn trầm trọng suýt mất mạng. Anh có nhiều mối tình vừa đẹp vừa cay. Anh có lắm say sưa vừa rất dễ thương nhưng cũng nhiều khi đáng trách. Nghệ sĩ mà. Một chút gió đã như bão, một chút rung động đã như địa chấn. Anh suy nghĩ quá nhiều. Phải chăng đó là mầm mống căn bệnh Alzheimer của anh về sau?

Tôi có nghe kể vài chuyện tình thời trai trẻ của anh. Có thể chỉ là những mối tình học trò đơn phương đẹp nhưng nhẹ như gió thoảng mây bay. Có thể là mối tình sâu đậm, thắm thiết. Ai biết được. Chỉ có điều chắc chắn là những bóng dáng tình yêu này đã tạo ra nguồn cảm hứng dạt dào để Trần Đình Quân viết nên những khúc tình ca trữ tình, chan chứa, đắm say lòng người… Và tôi cũng xin phép chị Nguyễn Thị Hương, đó nghe! Không phải Chị, lần về thăm quê hương 1996, Chị đã bảo tôi là người thương yêu Trần Đình Quân nhiều nhất đó sao? Trong niềm thương yêu đó, tôi xin chị cho phép nói năng “lung tung” một chút, cho đỡ nhớ, cho đỡ buồn. Bằng lòng nghe chị Hương! Cả hai cháu Trần Đình An Duy và Trần Thị Nam Phương nữa. Có gì làm chị và hai cháu không vừa ý, xin tha thứ. Chúng ta bây giờ ai cũng đã 60, 70 cả rồi, có nhắc lại kỷ niệm cũ cũng chỉ để nhớ nhau, thương nhau thêm mà thôi!

Đi vào Thành Nội Huế, từ cửa Thượng Tứ, rẽ phải, theo con đường Nguyễn Thành, dọc bờ thành một quãng khoảng 200 m (bây giờ có quán cà phê Ngõ Hạnh), leo một bậc cấp gồm những tảng đá xếp vào nhau, trèo lên thượng thành, có hai gian nhà sát nhau, vách gỗ mái tranh, gian bên trái là nhà Trần Đình Quân, gian bên phải là nhà Lê Thị Hiên, vợ thầy Trần Đình Thanh Lam sau này. Hai gian nhà chung một sân rộng mặt tiền, có một giàn hoa bất tử màu tím, hoa nở quanh năm, phía sau nhìn vói xuống là hồ sen hương thơm ngào ngạt, nhìn ra xa xa con sông Hương lặng lờ uốn khúc, như thật như mơ, huyền ảo, trữ tình. Đó là nhà Trần Đình Quân ở hồi anh sáng tác bài Khúc tình ca xứ Huế, khoảng 1958. Bài nhạc này lúc đầu được đặt tên là Niềm thương xứ Huế, tên tác giả là Trần Đa Mỹ (chứ không phải Trần Đại Mỹ). Đa là Tam Đa, quê nội, Mỹ là Mỹ Xá, quê ngoại. Đến năm 1961, ca sĩ Duy Khánh vào gặp Trần Đình Quân tại trường Phan Châu Trinh, đề nghị xuất bản, bài hát ấy mới được đổi tên thành Khúc tình ca xứ Huế. Ca sĩ Duy Khánh bảo Quân, tên anh hay như vậy thì lấy biệt hiệu làm chi, vì vậy Quân mới ký tên Trần Đình Quân vào bài hát. Người hát bài hát này đầu tiên là một cô gái trẻ đẹp của đất Thần Kinh lúc đó, Dạ Ái. Với bài hát này, được Trần Đình Quân luyện tập tận tình, Dạ Ái đã đoạt giải quán quân trong kỳ thi tân nhạc do đài Phát thanh Huế tổ chức. Thuở đó, đi khắp phố phường xứ Huế, bãi sông, bến chợ, rạp hát, rạp ciné, quán trà, quán cà phê, tiếng hát Dạ Ái với Niềm thương xứ Huế thánh thót, nỉ non ngậm ngùi ru lòng người bâng khuâng, man mác…

clip_image010

Nhớ Huế xưa dập dìu tài tử giai nhân! Non xanh nước biếc cảnh đẹp người xinh. Dòng Hương Giang lặng lờ giăng mơ dệt mộng. Thành quách cung điện nội thành rêu phong trầm mặc. Cầu Trường Tiền lung linh bóng nước, sáu vài 12 nhịp mờ mờ trong sương sớm, huyền ảo trong nắng chiều, bước ai về thả tóc gió bay bay cho vấn vương cho quyến luyến! Những đêm trăng vàng ma quái, huyền hoặc, liêu trai! Khách đa tình mê man say đắm, thi nhân có những vần thơ tuyệt tác, nhạc sĩ có những nốt nhạc tài hoa…

Chiều nay ai có về miền thùy dương
Về miền có nắng hạ giữa mùa thu
Về miền mây khắp trời giữa mùa xuân
Về miền thơm ngát mùa hoa yêu đương
Nam Giao đăm đăm mắt lặng nhìn
Tóc bềnh bồng Bến Ngự chiều nay ai mong gió lên
Xa xôi âm vang tiếng cười hiền
Trên đường về hoa nở đẹp môi cười nhớ mãi không quên

(Khúc tình ca xứ Huế)

Những đêm văn nghệ các trường Quốc Học, Đồng Khánh, Đại học Huế, … góp phần làm cho thành phố thêm Đẹp thêm Thơ! Giai nhân nào đã là nguồn hứng cho chàng nhạc sĩ trẻ đa tình đa cảm?

Có phải là giai nhân đóng vai thiếu nữ trong hoạt cảnh Serenata đẹp tuyệt trần, phủ phục dưới chân chàng nhạc sĩ Tây phương đang ôm cây vĩ cầm thả rơi từng tiếng nhạc thánh thót, hoang đường, trong đêm Văn nghệ năm nào tại trường Quốc Học?

Hay là giai nhân đóng vai Tây Thi trong vở nhạc kịch Bến nước Ngũ Bồ, tóc thả dài như liễu rủ mây bay, xiêm y thướt tha hư hư ảo ảo, buồn vợi vợi như trăng như sao, trong đêm văn nghệ ở trường Đại học Huế một thưở xa xưa?

Tình yêu thanh xuân, rung động đầu đời chắc đến với Trần Đình Quân mãnh liệt, say đắm lắm nên đã khiến nhạc sĩ tạo ra những nốt nhạc huyền thoại ngọt ngào vô tả!

Hoàng hôn rơi ngơ ngẩn hàng thùy dương
Lạnh lùng trong bóng chiều dòng sông Hương
Trường Tiền qua mấy nhịp mờ trong sương
Ngỡ ngàng khách thấy hồn buồn mênh mang
Đêm nao nghe khúc Nam Bình buồn trên dòng đời xuôi ngược
Đành lãng quên bao nhớ thương
Đêm nay dư âm đang vọng về
Trên lòng thuyền nghe não nuột
Mơ hồ tiếng hát Giang Châu…

(Khúc tình ca xứ Huế)

Trần Hoan Trinh

(Nguồn: https://motthoi6673pctdn.com)