Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018

Bữa ăn

Truyện  Trần Doãn Nho

Bữa ăn là một sinh hoạt hàng ngày, là dịp cả gia đình ngồi lại bên nhau, chuyện trò bộc bạch, sẻ chia tất cả những gì có thể. Bữa ăn của Trần Doãn Nho rất khác. Nó diễn ra vào lúc hai, ba giờ sáng, khi phần còn lại của thành phố đang ngủ say. Vì lẽ, cả ba cô con gái của ông Tám đều cùng làm một nghề: nghề cho thuê thân xác. Họ  về  khuya vì phải đi khách. Trong khi đó, người cha ở nhà chờ cửa, chờ bữa cơm gia đình, với ngổn ngang tâm trạng. Nhưng đáng nói nhứt là ông không còn cảm thấy mọi chuyện đang diễn ra một cách bất bình thường, kể cả khi giáp mặt với người khách suýt soát tuổi mình… 

Khi người chủ gia đình/người cha, đã không thể bảo vệ và che chở con cái, phải để chúng lao ra đường kiếm tiền theo cách đó mà không còn thấy đau khổ, nó bộc lộ một sự thật: khi gia đình rã tan, xã hội cũng sẽ rã tan…

VĂN VIỆT

Chiếc đồng hồ bên nhà ông Bá phát ra điệu nhạc thường lệ chuẩn bị điểm giờ. Ông Tám Toàn lắng nghe. Một, hai, ba..., mười một. Mới mười một giờ, ông nghĩ. Ông ngoái nhìn ra phía cửa, lấy tay che ánh sáng ngọn đèn. Không có tiếng động. Chưa đứa nào về giờ này cả. Ông quay đầu lại lẩm bẩm:


- Có đứa về thì chắc chó xóm ngoài đã sủa. Mình rõ lẩm cẩm.
Ông vặn ngọn đèn lu lại. Trong góc phía đầu kia của căn nhà, bà Tám Toàn ngồi bất động, trông như một cái bóng mờ. Vẫn như thế hàng đêm, dáng bà lặng chìm góc tối. Bà ưa bóng tối. Riêng ông, ông thích ánh sáng. Càng sáng càng tốt, để ông nhìn quanh, nhìn hoài nhìn mãi những vật quen thuộc trong căn nhà, dường như để có chất liệu mà nghĩ quanh nghĩ quẩn. Ông thích suy nghĩ. Thường chỉ là những ý tưởng vẩn vơ, chẳng đâu vào đâu. Nhưng suy nghĩ làm người ta đỡ buồn. Một cách tập thể dục nội tâm, như một tờ tạp chí nào đó có đề cập. Vả lại, ông đâu có việc gì làm ngoài chuyện ngồi một chỗ và suy nghĩ. Ban ngày, ông ngồi phía bên kia, nhìn ra con hẻm nhỏ trước nhà, nơi diễn ra đủ thứ sinh hoạt hàng ngày. Ban đêm, ông đổi hướng, ngồi phía bên này, nhìn ra sau nhà, nơi tiếp giáp với chiếc hồ khá rộng, mùa này đầy sen. Khung cảnh hoang vu. Quanh hồ, các lùm tre, cỏ dại, lau sậy rủ xuống. Toàn cây và lá. Những đêm sáng trăng, toàn cảnh hiện ra mơ mơ hồ hồ, đượm vẻ ma quái liêu trai. Ông nhìn ngắm, tưởng tượng, đôi khi ngất ngây vì cái hoang vắng, cô liêu, tịch mịch này. Không có người. Không có ai. Ông nhìn chúng, tự do, thoải mái, không băn khoăn, thắc mắc.

Ðêm nay đầu tháng, trời không trăng. Cả vùng hồ đen thẫm hẳn. Mặt hồ chao động, lấp loáng phản chiếu những mảng sáng nhờ nhờ lặng lẽ rơi rớt từ bầu trời sao. Ông Tám Toàn vẫn ngồi nhìn ra. Như mọi đêm. Luôn luôn như vậy. Bao năm, bao tháng đã trôi qua, ông cũng chẳng cần để ý. Y như công việc của ông là phải ngồi như thế. Chiếc bàn vuông, thấp, dựa vào tường, kế cửa sổ. Một bóng điện. Chiếc đèn dầu nhỏ. Một số sách cũ nhàu nát nằm buồn hiu đây đó, kia là Ðông Châu Liệt Quốc, nọ là Tiếu Ngạo Giang Hồ, vài ba tờ báo Tuổi Trẻ, Công An Nhân Dân cũ, có cả cuốn sách triết bìa đã rách nhưng vẫn còn mấy chữ Nhập Môn Triết Học ở chính giữa trông rất kiêu hãnh. Hầu hết sách báo đều do Loan, đứa con gái đầu tìm mua đâu trong các chợ sách cũ ở Sài Gòn. Ông đọc đi, đọc lại, nghiền ngẫm và tự thưởng thức một mình. Thỉnh thoảng, ông đem vài mẩu chuyện ra kể cho cả nhà nghe như một đóng góp nghĩa vụ nhỏ nhoi cho gia đình, lấp đi một khoảng trống vắng vô tích sự mà một người cha như ông để lại. Có ai hiểu ông nói gì không, không cần thiết. Khi ông nói, bà Tám Toàn nhìn ông, vẻ chăm chú, chỉ để nghe chữ mà không nghe nghĩa, hoặc cũng chẳng buồn hiểu nghĩa để làm gì. Trong mấy đứa con, chỉ có Loan chia sẻ với ông một đôi điều. Còn ba đứa kia lơ đãng nghe, đợi ông dứt câu để bàn tiếp chuyện của chúng.

Chó sủa xóm ngoài. Tất phải có một đứa về. Ông vặn ngọn đèn sáng lên một chút, đứng dậy, đi ra phía cửa lớn. Vài con khác sủa phụ họa. Tiếng động lớn dần. Cả xóm tối om. Mọi người ngủ kỹ. Ông nghe tiếng xe đạp lẻng kẻng. Một người đạp xe đi vào. Ði xe đạp thì không phải là con ông. Qua chút ánh sáng dọi từ nhà ra, ông nhận ra đó là một thanh niên. Lại là khách. Thấy ông, anh ta lên tiếng, giọng cụt ngủn:

- Nhà Loan?
Ông Tám Toàn dè dặt:
- Vâng. Chú hỏi có chuyện gì?
- Ờ, thì ...hỏi cô Loan. Mà cô Loan có nhà không?
- Tôi nói rồi: không. Chú quen?
  Giọng khách ngập ngừng:
  - Không. Một người quen chỉ đến. Thế còn Lài, Dục?
  - Ði vắng hết. Nếu cần thì mai trở lại.
Trong bóng tối, không nhìn rõ khuôn mặt, nhưng ông cũng đoán được anh ta thất vọng như thế nào. Anh ta chần chừ một lát rồi quay xe, đạp đi. Ông trở vào. Tụi nó về sớm hơn thì có thêm một mối, ông nghĩ. Ông đụng bà Tám ngay cửa khi bước vào. Bà hỏi, giọng khẽ như hơi thở:

- Khách?
- Có lẽ.
- Biết đâu, ai khác?
Giọng ông gắt một cách hờ hững:
- Ai khác thì sao nào?
- Tôi ngại...
- Ừ, thì ngại...
Cuộc đối thoại chấm dứt lặng lẽ. Bà Tám bước như cái bóng về lại góc nhà, ngồi xuống. Ông đóng cửa, gài chốt cẩn thận rồi cũng trở lại chỗ của ông, tiếp tục nhìn mông lung ra phía sau nhà. Lần này, đột nhiên trong trí tưởng ông bỗng hiện ra vô số những khuôn mặt người lạ xuất hiện trong căn nhà này. Tất cả đều lạ, hay nói cho đúng, ông đều cố tình cho là lạ, cho dù đôi khi, ông thấy có ai đó trông quen quen. Thỉnh thoảng đụng phải nhau, khách cũng như ông đều cố tình làm lơ. Chào hỏi nhau thôi đã thấy không tiện, phương chi lại phải nói chuyện với nhau. Khách đủ hạng đủ loại. Người đi xe đạp, người Honda, người xe con Liên Xô, người đi bộ. Tuổi bằng ông hay có khi già hơn ông. Trẻ hơn con ông cũng không thiếu. Thỉnh thoảng có cả “tây", "tây" Liên Xô, "tây" Ba Lan, "tây" Tiệp. Rộn ràng vào đầu hôm, hoặc ngày cuối tuần. Có kẻ đến lúc tảng sáng. Cũng có kẻ gõ cửa vào giữa khuya, như anh chàng vừa rồi. Khách đông. Con ít. Ðôi khi, ông tự nhủ: "Biết thế này, đẻ thêm chục đứa nữa để đáp ứng nhu cầu". Ông đem ý nghĩ này nói với bà Tám. Bà chua chát: "Ừ, cỡ chục đứa con gái nữa". Ông cười phá lên: "Mẹ kiếp! Nếu có thêm chục đứa nữa thì chắc bà và tôi sẽ có nhà lầu, chứ không đến nỗi ở nhà gỗ như thế này".

Chó lại sủa. Lần này, ông ngồi yên một chỗ, chờ đợi. Nhất định phải có đứa về. Ai? A, thằng Vụ. Bà Tám Toàn mở cửa, hắn lướt nhẹ vào như gió, vứt cái xách đâu đó rồi đi tắm. Tắm xong, trở ra, hắn bưng đèn đến góc nhà soạn đồ đạc. Bà Tám ngồi yên nhìn. Ðủ thứ đồ lỉnh kỉnh: vải, đồng hồ, bút, thuốc lá, tiền lẻ... Hắn đưa một xấp vải bông cho bà Tám:

- Mẹ may áo.
Hắn mang tới cho ông cái hộp quẹt:

- Ba thích cái này không ? Bộ đội thích lắm.
Ông cầm cái hộp quẹt ga vuông, bật thử. Tiếng ga kêu xè xè. Ngọn lửa xanh phựt lên:
- Hộp quẹt Zippo. Ðồ này hồi trước thiếu gì, vứt lăn vứt lóc.
Ông đậy hộp quẹt lại, đọc giòng chữ khắc, sơn đỏ ngay giữa: "Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu thân tặng".

- Bộ đội khoái hàng chữ đó, Vụ nói.
- Ừ, tao cũng khoái. Tao lấy cái này.
Ông lấy thuốc lá , bật quẹt, châm lửa hút, rồi cầm hộp quẹt xoay qua xoay lại, ngắm nghía.
Ðồng hồ nhà bên điểm mười hai tiếng.

***
Sau Vụ, lần lượt ba cô con gái về. Trước hết là Dục, cô giữa, về lúc gần một giờ. Kế đến là Loan, chừng nửa giờ sau. Và cuối cùng là Lài, hơn hai giờ một chút. Không kể những dịch vụ qua đêm, đêm nay thế là mọi người về có hơi trễ. Thường thì khoảng sau một giờ là cả nhà sum họp. Trong ba cô thì Dục có Honda riêng, chiếc "cúp" đời 81, loại xe bãi do một tay thủy thủ đi tàu viễn dương Hải Phòng bán rẻ lại, sau một xuất bao đêm. Hai cô kia có người rước. Riêng Vụ, hắn chuyên đi bộ. Lý do: đi bộ thì có được nhiều cơ hội hơn, và gặp chuyện gì dễ xoay sở.

Bà Tám xuống bếp lo sửa soạn bữa ăn, trong lúc mấy cô con gái, kẻ trước người sau lần lượt tắm gội, rửa ráy. Mỗi người lo phần việc của mình, chẳng ai nói gì với ai. Ðêm khuya, xóm vắng, nhà nhà đều ngủ kỹ. Dù căn nhà nằm ngang ở cuối, tách riêng hẳn khỏi khu xóm, nhưng như thói quen, chẳng ai trong nhà muốn ồn ào. Mọi người yêu thích sự yên lặng. Mọi trò chuyện cần thiết thường để dành vào bữa ăn.

Tiếng nước dội, tiếng thay áo quần sột soạt khiến ông Tám Toàn liên tưởng đến những nhọc nhằn mà mấy cô con gái của ông đang tìm cách rũ bỏ. Nhọc nhằn! Ừ, thì tất là phải nhọc nhằn. Cuộc mưu sinh nào chẳng đổi lấy bằng những nhọc nhằn, cách này hay cách khác. Ðôi khi, ông vẫn có cảm giác chúng nó trở về từ những nhà máy hay hãng xưởng nào đó. Ca hai, ca ba chẳng hạn. Hoặc ông quên, cố quên. Những cắng đắng, đau khổ lúc đầu, chịu riết rồi cũng nguôi ngoai. Mọi cái trước mắt, chung quanh, ông đã quen mắt. Từ chuyện ăn, chuyện uống, chuyện căn nhà, chuyện hàng xóm, cả xóm trước lẫn xóm sau. Ông quan sát mọi sự như coi một vở kịch hay coi một buổi trình diễn đại nhạc hội. Phù du. Chúng không có thật. Không hề có thật. Tất cả chỉ là một hoạt cảnh, một màn hóa trang.

Vợ ông đó, ngày hai buổi đi vô đi ra, đi lên đi xuống. Thỉnh thoảng, bà ngồi nơi chiếc máy may, đạp lịch kịch. Bà không đi đâu xa, kể cả đi chợ. Bà rất ngại phải đi ngang qua một cái xóm dài với một rừng mắt vây quanh. Người ta nhìn, ngắm, chỉ trỏ. Đã bao năm bao tháng rồi mà người ta chẳng hề chán. Ðồ ăn thì mấy đứa con bà mua về từ những chợ xa. Bà ít nói, hay không muốn nói. Thường thì bà chỉ gật đầu, lắc đầu, thở dài rất nhẹ. Bà ẩn nhẫn, nhịn nhục.

Vụ, thằng con trai, tảng sáng là thức dậy đi. Với đôi dép nhựa cáu bẩn, đứt quai, bộ đồ lính bạc màu, chiếc mũ lưỡi trai, hắn lang thang đâu đó suốt ngày trong mấy cái chợ, khu bến xe, trên đường phố, khi thì giả què, khi thì giả bệnh để xin xỏ, và tìm mọi sơ hở của người ta để chụp giựt, chôm chỉa. Ba cô con gái thì suốt ngày chỉ lo chuyện phấn son, lụa là. Các cô tỉa lông mày, nhổ lông nách, hoặc chăm chút hết bộ áo quần này này sang bộ khác. Khi áo dài, khi áo đầm, khi đồ bộ. Ðủ dạng, đủ loại. Khách vào, khách ra. Những õng ẹo, gạ gẫm, trả giá, vỗ mông, sờ ngực, cười cợt. Từ chiếc bàn của ông, ông yên lặng lắng nghe, quan sát. Sáng thì trà, trưa thì nước chanh, tối thì xị rượu. Người cựu giáo viên ấp tân sinh cứ thế, nhìn mọi sự diễn ra trong nhà mình hàng ngày như xem những màn biểu diễn trên sân khấu. Tất cả chỉ là tuồng ảo hóa, chỉ là những hóa trang, theo như triết lý sống của ông bây giờ .

Với ông, từ lâu rồi, cái có thật nằm trong quá khứ. Hồi đó, từ một anh nông dân, ông trở thành ông giáo, nhà trí thức duy nhất trong làng. Vợ ông lại đẻ cho ông được ba cô con gái sắc nước hương trời. Trong cái làng nhỏ heo hút cận chân đồi, gia đình ông trở thành một thứ danh gia vọng tộc. Vợ hiền (bà Tám Toàn hiền nhất xóm), con càng lớn càng xinh. Ông sung sướng, hạnh phúc. Mọi sự chỉ trở thành bi hài kịch khi gia đình ông dời lên thành phố. Thằng con trai bỏ học vì theo hắn, "đi học mệt hơn đi chơi." Còn ba cô con gái thì không chịu lấy chồng vì chúng đều cho rằng "Mình đẹp như thế này, tội gì chỉ cho một đứa hưởng, uổng chết". Các cô thích có nhiều người yêu để phân chia cái đẹp cho nhiều người hưởng. Và cứ thế, kịch bản viết tiếp, hết cảnh này đến cảnh khác. Từ chỗ có một người yêu, rồi hai, rồi ba, rồi bốn, đến chỗ ai cũng có thể là người yêu cả. Ði chơi với người yêu trở thành đi khách. Hết cô chị đầu, đến cô kế. Một thời gian sau, cô thứ ba cũng nối gót. Ðược một cái là, cả bốn đứa con đều có hiếu với cha mẹ. Chúng nuôi ông như nuôi chim cu. Chúng xây nhà dựng cửa, sắm sửa đồ đạc không thiếu thứ gì. Ông thường đùa với bà, "Cũng là phúc nhà đấy chứ, phải không bà?". "Ừ, thì phúc, quá phúc. Phúc hay nghiệp?", bà thường lẩm bẩm.

Bà Tám dọn cơm tươm tất lên bàn, gọi mọi người ra ăn. Loan bỏ ra một bịch trứng lộn còn nóng, hỏi:

- Ba còn xị rượu nào không?

- Còn.

Ông Tám Toàn sờ soạng dưới chân bàn, lôi lên một chai rượu. Loan rót hai cốc, cốc đầy đưa bố, còn cốc ít cô nhắp một hớp, rồi để xuống:

- Chắc phải lấy chồng quá!

Dục bĩu môi:

- Lại kể chuyện đời xưa rồi.

Loan lảng sang chuyện khác:

- Ðịnh nói thằng xe thồ ghé quán mua bịch gà bóp mà thấy khuya quá nên thôi. Gà bóp mà nhậu rượu thì đã lắm, phải không ba?

Lài đưa cho bố một điếu thuốc đót, lầm bầm:
- Cái thằng cha kiết gì mà kiết hết chê! Hỏi thuốc, hắn rút ra một điếu rồi bỏ lại vào túi.
Ông Tám bĩu môi:

- Xì! Cái thứ đó mà thèm lấy làm gì cho nó khinh. Ba hút thuốc nặng quen rồi. Loại thuốc đót này hút cứ như rơi tuột vào cổ, chẳng có cảm giác gì. Không đã chút nào.
Loan nói:
- Hút thuốc đót ít hại, ba, nó lọc khói, bớt chất độc.

- Ngon là nhờ cái chất độc đó, mi biết không.
Dù sao, con nói thế cũng làm ông Tám vui. Mấy cô con gái, trong hoàn cảnh nào cũng quan tâm tới ông. Ông gọi:
- Mẹ nó đâu? Thằng Vụ đâu? Vào bữa cho rồi.
Ðồng hồ hàng xóm điểm ba tiếng. Bà Tám bưng cây đèn lớn đặt giữa bàn. Cả nhà quây quần trong bữa ăn khuya. Bà Tám chép miệng:
- Bữa nay ăn trễ quá.
Dục cười:
- Ăn sớm quá, chứ mẹ. Mới ba giờ sáng đã ăn.

***

Căn nhà dựng ngay bên mé hồ, cách xa hẳn khu xóm, như một ốc đảo.  Bốn bề không gian trống. Không ai muốn liên hệ với xóm. Người trong xóm cũng chẳng muốn liên hệ với gia đình này. Thỉnh thoảng có vài ba đứa bé tò mò vớ vẩn đi quanh quanh, cố tìm cách tiếp cận ngôi nhà để xem thử bên trong có cái gì khác lạ, nhưng cha mẹ, anh chị chúng canh phòng rất kỹ, nên hễ thấy chúng lảng vảng ở đâu đó là lên tiếng kêu về. Còn người lớn thì tuyệt nhiên không hề bén mảng. Từ ngày gia đình ông trú ngụ ở căn nhà nằm chận ngay lối đi quen thuộc xuống hồ, họ mở một lối đi khác, tránh phải đi ngang.
        Thực ra, chẳng có gì lạ bên trong. Đó là một gia đình như mọi gia đình. Một bà già làm nội trợ. Một ông già lỡ thời, chẳng biết làm việc gì ngoài chuyện ngồi trầm ngâm thế sự thăng trầm. Và bốn người con lao động kiếm sống. Ừ, thì làm việc gì cũng là lao động, mà lao động nào chả là lao động vinh quanh, ông Tám Toàn nghĩ vậy, miễn cưỡng mà thành thật. Cứ thế, hàng ngày, ông chờ đợi bữa ăn. Ban ngày, mỗi đứa một ngả. Vụ lang thang ngoài đường, chẳng mấy khi về. Mấy cô con gái, đứa thay nhau khi thì ngủ, khi thì trang điểm, khi thì tiếp khách. Vô ra đứng ngồi, thấp thỏm. Lúc đó, ông nhìn chúng như nhìn những người khách lạ. Dẫu vậy, không có khách thì thôi, hễ có khách mang đi một cô, lòng ông lại nhói lên một chút. Ông cảm thấy đau tê tê ở một nơi nào đó trong người, khi ở bụng, khi ở ngực, khi ở trong đầu.

Như mọi ngày, cuộc sum họp gia đình diễn ra vào giữa lúc vạn vật đang trong cơn say ngủ. Xóm nghèo im lìm mê mệt. Cả những tiếng chó sủa nghe cũng ngu ngơ ngái ngủ. Chỉ có gia đình ông Tám Toàn thức.
Vừa ngồi xuống, Dục hỏi Vụ:

- Hôm nay, sao chú mày bần thần vậy?
  Vụ vẫn chăm chú gắp đồ ăn, đáp:
- Bị công an rượt ở khách sạn Chuyên Gia.

- Sao vậy?

- Gỡ đèn xe cúp.
  Lài  chặc lưỡi:

- Cái nghề mày thấy ớn quá. Không khỏi có lúc đi trại cải tạo.
- Càng tốt,Vụ nói cụt ngủn.

Bà Tám nhìn lướt hết mọi người, giọng lo lắng:

- Sáng nay, Thị, công an khu vực có đến.

- Lại đến tháng đóng hụi chết, Loan chép miệng.
Bà Tám tiếp:
- Cậu ta bảo tỉnh sắp sửa phát động phong trào bài trừ văn hóa đồi trụy, và mê tín dị đoan.
Nghe nhắc đến mê tín dị đoan, Loan nhìn bàn thờ ông địa đặt dưới đất, sát cửa ra vào:
- Mẹ mua gì cúng thần tài với ông địa chưa? Bữa nay con quên mất.
Nói đến ông địa, ông Tám Toàn chợt nghĩ tới lời chúc mua may bán đắt dành cho những người đi buôn. Thì con ông cũng buôn vậy, buôn phấn bán hương, như người ta thường nói.
Lài mỉa:
- Thần tài mà cứ giúp tận tình thì cái thân em bẹp dí, có ngày.
Dục nói:
- Đúng là bẹp dí. Hôm nay tao chịu đựng hai thằng nhóc, mệt muốn bở hơi tai. Xong rồi như thoát ngục. Ðược cái, chúng chẳng tiếc tiền. Ðúng là dân buôn trầm trúng mánh, chơi như giặc. À, mà chẳng biết cái bóp tiền đâu rồi.

Dục hớt hãi chạy đi tìm. Lát sau, cô trở lại bàn, cầm cái bóp mở ra, đếm tiền. Ông Tám tránh nhìn. Ông có cảm giác ngột ngạt khi thấy mấy cô con gái đếm tiền mỗi lần đi khách về. Nó thường đẩy trí tưởng ông đi xa, quá xa. Nó gợi cho ông hình ảnh của  những căn phòng những giường những chiếu những khăn hay những cái chậu nước để sẵn phía sau nhà và những số phận tồi tàn mà ông thường lui tới khi còn trai trẻ. Kể cả những tờ giấy bạc ông đưa cho những cô gái xa lạ sau khi hành lạc. Số phận đẩy đưa, giờ này, đến phiên con ông nhận những tờ giấy bạc từ những kẻ xa lạ.

Dục vẫn kiên nhẫn đếm tiền. Nhiều tiền. Khác với mọi lần, lần này, trông bộ cô ta đếm khá cẩn thận. Cô rút từng tờ, vuốt cho thẳng. Ngay cả những nếp gấp nhỏ nơi mép tờ bạc, cô cũng lấy móng tay gảy ra, bẻ ngược lại. Ông Tám Toàn nhìn và chợt hiểu. Hôm nay, cô quý những đồng tiền có lẽ vì để có được chúng, cô phải trải qua vô số nhọc nhằn . Ông chẳng lạ gì cái cảnh đám đực rựa, trước khi vung những đồng tiền ra, họ phải làm đủ thứ trò trên thân thể người đàn bà. Ông rùng mình khi chợt liên tưởng đến những thằng bạn lính của ông ngày xưa. Mỗi lần hành quân xong, được về thành phố, bọn họ bao luôn một, hai em. Họ sáng tạo đủ cách chơi, từ những cái có trong sách vở cho đến những cái không hề được ghi ở đâu, để hành hạ mấy em cho xứng đồng tiền bát gạo. Họ làm như thế, ngoài việc để thỏa mãn nhu cầu tính dục bình thường, dường như bao gồm cả việc muốn trút những giận hờn, tức tối và trả thù cho những điều bất ưng trong cuộc đời. Họ như muốn banh cả thân xác người đàn bà ra để lục lọi, tìm tòi một cái gì đó không bao giờ tìm thấy. Ông không quên hình ảnh một cô gái đã lạy lục cúc bái họ, cho cô được trả hết tiền lui và ra về, vì không còn có thể chịu đựng nỗi trò hành hạ của nhiều người như thế.

Ông nhắp một hơi rượu, rùng mình. Ông nhìn quanh. Ôi, những rượu, những trà, những đồ ăn, thức uống, những cột kèo, cửa sổ, cửa lớn, bàn ghế, áo quần, và chính cả thân xác ông, tâm hồn ông bây giờ đều xuất phát từ thân xác mấy đứa con gái. Ông cảm thấy lợm giọng, buồn mửa. Hai mắt mờ đi. Trong thoáng chốc, ông bỗng nhìn thấy đồ đạc trong nhà, hết thảy đều uốn éo, quằn quại, lăn lộn. Bộ xa lông biến thành con Loan, cái tủ lạnh biến thành con Dục, tủ áo quần biến thành con Lài. Chúng trần truồng, hoang hóa, chịu đựng và thảm thương vô cùng tận. Chúng giương mắt nhìn ông ngơ ngác, bất lực.
Dục đếm xong tiền, nhìn ông, ngạc nhiên:
- Này, ba, ba nhìn cái gì vậy ? Xem mặt ba kìa. Trông như lên cơn đồng bóng vậy. Ba, ba.
Ông Tám Toàn sực tỉnh, nhìn Dục cười:

- Không có gì. Ba đang nhớ một đoạn truyện Tàu, chuyện thằng Phạm Chuy, tể tướng nước Tần, bỗng không đem dâng ngôi tể tướng cho một thằng lang thang đầu đường xó chợ chỉ vì hắn ta nói trúng cái mà ông ta đang lo lắng. Chuyện thế này, thằng Thái Trạch...
Ông kể một mạch xong, dừng lại, uống tiếp một cốc rượu, lòng dịu đi. Thấy ông chấm dứt, Dục quay sang Loan hỏi:
  - Còn chị, hôm nay thế nào mà trông bộ lơ lửng thế?
Loan thở dài, cúi xuống gắp thức ăn. Bà Tám nhìn cô gái đầu, phân vân. Thường cô rất liến thoắng, lúc nào cũng kể chuyện trời trăng mây gió để mua vui trong bữa ăn, mà cũng để tìm cách hãm đà kể chuyện đi khách của hai cô em. Cô lúc nào cũng muốn bữa ăn diễn ra bình thường như những gia đình bình thường. Ðêm nay, cô trầm ngâm bất thường. Và sạch xong chén cơm, đặt xuống bàn, Loan nói, giọng nghe dửng dưng:

- Chắc phải lấy chồng.
Hai chữ “lấy chồng” như có một sức mạnh đẩy bật bà Tám đứng dậy:

- Lấy chồng? Ai lấy? Lấy ai?
Loan đứng dậy, rũ áo:
- Con lấy chồng!
  Dục nhìn Lài cười khẩy. Lài nói:

- Cũng tốt. Tui cũng mong có thằng anh rể để thỉnh thoảng sai hắn chở đi.
Ông Tám vẫn khề khà nhắp rượu, nhìn Loan, gật gù. Loan đi xuống nhà dưới, bà Tám nhìn theo, mặt mày bần thần. Hai chữ lấy chồng Loan thốt ra đánh thức trong bà bao nhiêu thứ ao ước dồn nén, bao nhiêu giấc mơ khốn khổ. Ngày xưa, trong túp lều tranh, nhìn ba cô con gái kháu khỉnh, bà nuôi ý tưởng gả chúng cho những kỹ sư, bác sĩ. Nhưng rồi mọi sự tàn theo mây khói. Bây giờ, bà mong được thấy chúng có chồng, kiểu gì cũng được. Ðui, què, mẻ, sứt hay gì gì đó cũng được, miễn chúng có chồng. Chỉ “có chồng” mới làm người ta trở nên bình thường.
Loan trở lên. Cô lầm bầm một mình:

- Cái thằng cha già mắc dịch. Ông ta theo riết, đòi phải lấy về làm vợ.
Bà Tám làm như không quan tâm lắm, hỏi lơ lửng:
- Người ta ra sao?
- Dân tập kết. Vợ hy sinh trong chiến tranh. Trưởng phòng Thương Nghiệp Huyện.
- Thì cũng được. Bà lẩm bẩm.
Dục hỏi:
- Chị gật đầu chưa?
Loan nói:

-Đâu dễ thế!
Lài mím môi:

- Thì gật đại đi. Em cũng trông có tay nào đó, già trẻ chi cũng được, hỏi lấy em, em ừ cú một. Ở đó mà õng với ẹo. Cái thứ chị em mình…
Dục tát nhẹ miệng em:
- Vả cái miệng một cái. Miệng khi nào cũng leo lẻo. Khôn hồn thì bớt nói đi.
- Tui chẳng khéo che như mấy bà. Ði khách thì cứ bảo đi khách, còn làm bộ con gái nhà lành để mồi chài, em chẳng sính.
Dục nói:
- Tao nghe ông bà nói, tao chừa một phương tao lấy chồng. Ðược không?
Loan dọa:

- Này, ồn ào chỉ tổ cho xóm người ta dòm ngó. Khuya rồi! Còn hai đứa bây, ai có thân nấy lo.
Dục kéo Loan xuống:
- Trông cũng được đấy. Chị trước cho em theo sau. Ðầu xuôi thì đuôi cơ may mới lọt.
Loan hỏi:
- Mi cũng muốn lấy chồng?
Dục cười:

- Mắc chi mà cũng muốn. Nói thế, chứ em chưa có cảm giác.
Loan nói:
- Còn tao, tao vẫn muốn tự do.
Bà Tám thở dài, lo dọn dẹp đồ ăn. Chó lại sủa xóm ngoài. Nhiều con khác phụ họa. Tiếng sủa truyền lần vào.

- Chẳng lẽ lại khách giờ này!

Ông Tám bỏ cốc rượu xuống, lẩm bẩm. Và vặn đèn lu lại.
Ðúng là khách. Loan mở cửa, la lên:
- Trời! Lại ông. Ông dám lại đây à? Ai chỉ ông lại?
Người đàn ông dậm dự ở ngưỡng cửa muốn bước vào. Loan đứng chặn lại:
- Chưa chịu về sao còn quanh quẩn ở đây, ông Trưởng phòng?
Người đàn ông vòng tay ôm eo Loan, muốn kéo cô lại phía mình. Loan tránh ra:
- Nhà đông người.
Giọng người đàn ông nghe nhừa nhựa:
- Bày chuyện nữa. Nhớ em quá! Sao, trả lời dứt khoát với anh đi. Anh đợi một tiếng thôi là lo hết mọi chuyện. Em muốn có nhà ở ngay Sài Gòn này, anh cũng lo được. Em gật đầu thì anh đi, còn không thì anh cứ ở lì đây.
Thấy cứ đứng ở ngoài bất tiện, Loan đành để cho ông khách bước vào. Cô nhìn quanh phía ngoài, rồi vào khép cửa lại. Chó vẫn sủa rân. Thấy ông Tám ngồi ở bàn, người đàn ông chào:
- Dạ thưa bác ...à...à...
- Ba em, Loan nói vắn tắt.
Người đàn ông bỗng dưng đâm ngượng, vì chợt nhận ra người mà Loan gọi bằng ba, suýt soát tuổi mình. Ông Tám cũng lúng túng. Người đàn ông hỏi nhỏ Loan:
- Nhà còn thức?
- Mới ăn cơm xong. Sửa soạn đi ngủ.
Người đàn ông nói nhỏ:
- Bậy quá! Nhưng đến giờ phải trở về lại huyện rồi. Tài xế đang đợi. Thôi, anh về. Nhớ tranh thủ trả lời gấp. Chuyến sau anh lên là phải dứt khoát. Không thì, không thì coi chừng...
Ông ta đưa bàn tay dí dí lên trán Loan, quay lại nhìn ông Tám:
- Tôi... tôi... xin lỗi bác,... tuởng nhà không... có ai...
Ông Tám mỉm cười, không nói gì, rót tiếp cốc rượu khác, nhìn theo người đàn ông đi nhanh ra cửa. Loan đóng cửa, gài then, im lặng. Bà Tám bước nhẹ từ dưới bếp lên, hỏi nhỏ:

- Về rồi à?
Loan lẳng lặng đi, không nói gì. Ông Tám Toàn uống cạn cốc rượu, ngâm khe khẽ:
           Hí trường tiểu thiên địa
           Thiên địa đại hí trường

(Nhuận sắc 6/2018)