Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

G.

clip_image001Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 9): Võ Đình

Nhà văn, họa sĩ Võ Đình sinh năm 1933, tại Huế. Du học tại Pháp. Từ 1961 có hơn 40 triển lãm cá nhân và vô số triển lãm tập thể ở Âu Châu, Á Châu, Canada và Hoa Kỳ.

Năm 1970, hai văn phẩm đầu tiên được xuất bản: The Jade Song (Chelsea House, New York) và The Toad Is the Emperor Uncle's (Doubleday & Co., New York). Từ đó đến nay, hơn 40 tác phẩm sáng tác, dịch thuật, minh họa được xuất bản.

Nhà văn, họa sĩ Võ Đình qua đời tại nhà riêng, West Palm Beach, bang Florida, Hoa Kỳ, ngày 31 tháng 5, 2009.

Truyện ngắn

G. đến trong đời tôi một cách hết sức bất ngờ, vào ngày cuối tháng mười dương lịch, Halloween Day. Tôi nhớ đúng ngày đó mặc dù nhiều năm đã trôi qua: trong ký ức tôi hình ảnh của G. cũng là hình ảnh của vàng kim, vàng kim của lá thu và bí ngô.

Hôm đó khí trời ấm áp, gió thổi hây hây, lá vàng rụng đầy vườn. Nhưng khi chiều về, se se lạnh, sương mù lan xuống từ trên núi, trong sương đã nghe có ít nhiều rét mướt của những vùng băng tuyết xa xôi. Tôi vừa đặt bút xuống bàn, bỗng nghe tiếng gọi rộn rã từ nhà dưới. Tôi vụt chay xuống gác, vào phòng khách. Vợ tôi và hai con chúng tôi đang nép mình vào cánh cửa lớn trông ra ngoài hiên. Trước đó có mấy giây đồng hồ ba mẹ con kêy gọi ầm ĩ, bây giờ lại ngồi bất động như bị thôi miên, như sợ rằng chỉ một cử động, một hơi thở mạnh, cũng đủ làm cho hình ảnh mình đang chiêm ngưỡng tan biến đi mất.

Tôi lại gần. Yên, đứa con gái lớn năm đó đã mười sáu, quay lại tôi, mắt long lanh, một ngón tay để ngang môi. Hiểu ý, tôi nhìn ra bên ngoài cửa kính. Và lập tức tôi nín thở: ngoài hiên, một con chim lớn, thật lớn, đứng im lìm. Con chim đứng nghiêng, và chúng tôi sững sờ ngắm cái ngoại hình của nó trong một lúc lâu, thật lâu. Bỗng nhiên nó từ từ quay đầu lại, nhìn về phía chúng tôi, rồi khoan thai bước ra vườn.

Không hẹn, mà chúng tôi cùng thở phào, nhẹ nhõm: giây phút mê hoặc chấm dứt. Chúng tôi chen chúc cố nhìn kỹ hơn con chim kỳ lạ đang chậm rãi bước ra vườn. “Trời!”. “Đẹp quá!”. “Tuyệt trần!”. Chúng tôi xuýt xoa. Vợ tôi đưa mắt nhìn tôi, và tôi biết nàng đang nghĩ gì.

Trong đời, năm thì mười hoạ, ta may mắn được nhìn thấy một cái gì đó đẹp đẽ lạ thường, đẹp và lạ đến độ như người ta vẫn thường nói, “không chịu” được. Cái may mắn đó đã đến với ta, cùng lúc với một cảm giác đau nhói trong tâm can. Vụt đau rồi hết. Nhưng cái đau sắc cạnh ngắn ngủi đó như có một tác dụng tống mạnh máu ta trong huyết quản, làm cho chân tay ấm hẳn lên và tim đập rộn ràng. Cái đau vụt đến vụt đi, nhưng liền sau đó, ta có cảm tưởng cả thân xác lẫn tâm thần như mới được tắm gội sạch bong. Và lúc ấy ta mới sực nhận ra. À, cái đau nhói đó thực tình đâu phải là một cái “đau,” nó chính là một niềm “vui”, một niềm vui đã đến với ta một cách quá mãnh liệt, quá bất ngờ, nếu không nói là quá sỗ sàng!

Hôm đó, tôi đau nhói như thế khi thấy con chim lạ đứng ngoài hiên, im lìm trong ánh sáng vàng kim lãng đãng sương chiều. Vợ tôi thì thầm: “Gabriel, Thiên thần Gabriel …” “Chính Gabriel,” tôi cũng chặc lưỡi đồng ý “đúng hơn, phải nói là Gabrielle … Chim mái mà! Độc nhãn Gabrielle!”

“Độc nhãn? Ba nói gì lạ vậy!” Tôi chưa kịp phân bua, cháu trai thứ của tôi, Ba, đã quay lại mẹ và chị: “Ba nói phải quá! Khi nó quay đầu nhìn vào nhà, con thấy nó chỉ có một mắt mà thôi à! Mắt kia trông giống hệt cái nút vậy đó, một cái nút bạc!” Thằng bé mới lên tám mà đã tinh mắt lắm.

Tôi đâu phải là kẻ chuyên môn về chuyện chim chóc, thế mà nhìn Gabrielle, G., tôi đã tin chắc đó là một con chim mái. G. lớn lắm, lớn gần như một con ngỗng cỡ bự, nhưng với một tấm thân thon dài, kiều diễm, một tấm thân nữ lưu. Đường cong vuốt nhẹ từ lưng xuống rồi tuôn ra sau thành chiếc đuội dài mướt dịu. Nhưng tấm thân con chim kỳ lạ cả đời tôi chưa từng thấy đó tuyệt đẹp ở cái ngực đầy tròn như phần nở của một chiếc độc bình. Bộ ngực càng dâng lên càng căng lên, càng phồng ra, rồi thong dong eo lại, rồi vút trở nên chiếc cổ thanh tú. Chiếc cổ uốn vào rồi ưỡn ra, rồi tém lại thành cái đầu bé tí, với chiếc mỏ dài nhọn. Dăm ba chiếc lông nhỏ, như một vương miện, đứng thẳng tắp trên cái đầu nhỏ xíu ấy – tôi nghĩ đến những chiếc trâm vàng của mấy mệnh phụ trong tranh cổ Tàu. Tôi không kịp thấy mắt – đúng hơn, con ngươi – G. màu gì, chỉ nhớ con mắt tốt có đường viền xanh màu đồng rỉ. Còn mắt kia, một con mắt mù chăng, thật tình thằng Ba đã tả rất đúng, quả giống hệt một cái nút nhỏ, một cái nút bạc.

Hình thù con chim lạ tuyệt mỹ đến độ làm tôi sững sờ, mãi một lúc sau tôi nhận thấy là nó có, phải nói là nó toát ra, nó ửng lên, hai màu: một màu xám bồ câu lấp loáng ánh hồng đào và bạc ròng, và màu kia là một màu lục, màu lục của ngọc thạch “tourmaline,” với những phản ánh li ti huyết dụ và hoả hoàng!VD- g-ky1-02

Ba kéo tay tôi: “Ba, ba, sao lại Gabrielle? Ta đặt tên khác được không ba?” Lúc ấy G. đã đi quá hàng dậu trường xuân bao quanh hiên nhà và đang đứng bất động cạnh cây mận ở góc sân. Vợ tôi quay lại hai con: “Aáy, các con không biết đấy, chứ ở quê nhà chúng ta, ai cũng tin rằng bỗng nhiên có con chim lạ đến hiên thì sớm muộn thế nào cũng có tin mừng … Có người lại cho rằng chim lạ đến nhà có nghĩa là có tri kỷ, có bạn rất thân từ xa bất ngờ đến chơi … Nói gì bên nhà, bên này ai cũng biết chuyện ngày xửa ngày xưa Thiên thần Gabriel hiện ra báo cho Đức Mẹ Đồng Trinh biết là Người sẽ mang ra đời chú bé Giê-su …”

Mẹ vừa dứt lời, hai đứa đã chạy ùa ra vườn. Ba kéo tay chị năn nỉ: “Đi, chị Yên, ta xua Gabrielle vào trong đồng kia đi chị!” “Đồng” là phần đất trước nhà, trước kia cỏ dại và cây leo tùm lum, cắt dọn mấy cũng không xuể, chúng tôi đành căng rào lưới sắt, rồi thả gia súc vào đấy cho tha hồ đi lại tự do. Nghe Ba nói vậy, tôi vội chạy ra: “Thôi, vào nhà ngay bây giờ, để yên nó!”

Mặt trời đã lặn bên kia núi, chúng tôi vẫn còn dùng dằng ở hiên nhà, đứng ngắm con chim lạ. G. có một dáng đi tuyệt đẹp, khoan thai một cách yêu kiều mà vô cùng tự nhiên. Thong dong, từ tốn, mà uyển chuyển dịu dàng như một làn khói vấn vương thoảng dần vào không gian. G. cất một chân lên, duỗi ra dài trong một động tác vừa gọn gàng vừa dung dị, rồi đặt chân xuống một cách vững vàng, đúng đắn, không sái một ly đất. Rồi lại cất chân kia lên, duỗi dài ra … Thỉnh thoảng G. lại nghiêng đầu, phía bên này, rồi phía bên kia, chỉ nghiêng một tí thôi, trong một khắc giây, nghiêng đầu như để kiểm điểm, không, như thể duyệt qua cả một cơ đồ hai bên mình, như một nữ chúa xuất cung. Điều kỳ lạ, tôi để ý, G. cũng nghiêng đầu về phía con mắt mù, như thể hạt nút nhỏ tí, kín mít, hạt nút bạc, là một con mắt lành mạnh.

Gió chiều hây hây đã ngừng thổi. Sương mù tràn xuống đầy cánh đồng trước nhà, bây giờ trông không khác gì một khoảng biển trời bất động. Trong ánh hoàng hôn nhợt nhạt, cây phương” ta trước sân đen sầm hẳn lại. Bỗng nhiên từ trong bóng tối đó G. vụt bay lên. Từ dưới tàng lá tựa mái nhà của cây phượng, cánh con chim lạ bung xoè như một cái dù lớn bất thần mở ra. Tôi thấy, tôi nghĩ rằng tôi thấy được một ánh lửa loè sáng; có lẽ một tia nắng nào đó, lưu lạc trên núi kia, bỗng tìm được lối về, hấp tấp phóng lui để hoà mình vào bóng tà huy, và trong lúc vội vã đã va phải con mắt lành của Gabrielle …

* * *

Đêm Halloween ấy, chúng tôi không loay hoay với chuyện tinh ma phù thuỷ, cắt gọt bí ngô làm đầu quỷ sứ như hàng năm. Mỗi người một cách, ai nấy còn đang xúc động bởi cuộc viếng thăm của G. Hai chị em Yên và Ba bàn qua tính lại, không biết G. có sẽ trở lại nữa không, có cách gì hay nhất, nếu G. trở lại, để bắt được nó.

Năm đó, Ba còn nhỏ lắm. Đối với Ba, G. không chỉ là một hình ảnh tuyệt vời: thằng bé muốn bắt G. để nuôi, để “săn sóc”, như Ba đã nuôi biết bao thứ trước kia. Chuột tàu, thỏ, rùa, sóc … Nhưng rồi sau một thời gian ngắn, chú chán, chú không săn sóc nữa, chú “quên” thêm thức ăn, “quên” thay nước trong. Rồi khi mẹ chú hoặc tôi nhắc nhở, chú mới sực nhớ ra và chạy ùa đến mấy đứa bạn tí hon, thay cơm, thay nước tùm lum …

Ba thì muốn bắt con chim bỏ lồng, còn Yên, năm đó lớn hơn Ba đến tám tuổi, làm bộ người lớn, khăng khăng bảo em ta không nên bắt chim, hãy để nó tự do đi lại, v.v. Nhưng bỗng nhiên, giữa bữa cơm tối Yền đầu hàng, biểu đồng tình. Nó nói: “Ba mẹ thấy không? Thật tình đâu phải như nhốt một con hoàng anh hay một con vẹt vào lồng! Con tính nếu ta bắt được G., rồi làm sao dạy cho nó quen mình đi, rồi ta cứ để nó đi lại tự do … Vừa là chim nhà, vừa là chim trời! Ba mẹ xem, cứ tưởng tượng, bà con bạn bè đến chơi, sẽ thấy cái gì? Gabrielle! Cao quý làm sao, đẹp đẽ làm sao! Xám bồ câu nhá, lục ngọc thạch nhá, và hoàng kim nhá, Gabrielle đóng khung bởi khuôn cửa lớn ba mới sơn đỏ thật đẹp hôm nào! …” Tôi nhìn vợ, thấy nàng có vẻ chịu hình ảnh đó quá rồi. Chính ngay với tôi, hình ảnh đó cũng là hình ảnh khi tôi nhìn thấy con chim lạ lần đầu tiên.

Trong giây khắc đó, vạn vật như thể dừng lại, nín thở. Sắc đẹp của con chim lớn quá kỳ diệu, quá sức tưởng tượng, đến cái độ tôi tưởng chẳng những không cảm nhận được, mà còn không chịu đựng được. Lá rụng tơi tả quanh mình, nhưng G. vẫn đứng yên giữa sân xi-măng, lông lá không mảy may xao xuyến; trên đầu G. cái “vương miện” với dăm lông mao nhỏ rí, cuối lông xoà ra thành bông hoa tí ti, mấy cái trâm vàng ấy, chỉ mấy cái ấy thôi, rung rinh khe khẽ như sợi giây đàn ngay sau lúc âm thanh mới bay xa … Trong giây khắc đó, tôi tưởng như tôi đã được một sức mạnh huyền bí nào nắm bổng bay về quá khứ, bay về một thời xa xăm nào ở miền Viễn Đông, và lúc đó, tiền thân của tôi, một bậc vương giả, một nhà hàn nho, hay một bác nông dân, tình cờ bước ra sân trước, và thình lình được nhìn lại mặt một người bạn thiết, một người thân ruột, sau những năm dài âm dương cách biệt.

Chiều Halloween năm đó, tôi không nghĩ đến ngay truyền thống Đông phương về sự chim lạ đến nhà. Nhưng nhìn thấy G., tôi đã nhận ra G. là một con Kỳ Điểu, một người Bạn, một Thiên thần. Thiên thần đã đến nơi, và đấy, G. đứng đó, trong giây khắc đó, như một phép lạ, tất cả là một sự Hiển Diện tuyệt vời … Ngày hôm sau, tôi còn nhớ, là một ngày trong tuần, các trường mở cửa. Vợ con tôi dùng dằng mãi rồi cũng phải đi ngủ vì đêm đã khá khuya. Tôi ngồi lại một mở nhà dưới, với ngọn lửa củi cháy tí tách trong lò.

Tôi ngồi đọc sách một hồi lâu, nhưng tâm trí cứ phất phơ đâu đâu. Tôi nghĩ đến những người thân yêu ruột thịt, những bạn bè chí thiết ở nơi xa xôi, trong cõi đời này hay ở thế giới bên kia. Tôi loay hoay vớ vẩn mãi với những y’ tưởng về tình yêu, về sự ly biệt, về khổ đau và chết chóc. Và tôi nghĩ đến G. Từ đâu chẳng rõ, bỗng nhiên G. bay đến chốn này, hạ xuống, đứng giữa hiên nhà chúng tôi, đứng im lìm trong lúc chúng tôi nín thở nhìn ra qua cửa kính. Tôi có cảm tưởng rõ rệt là G. đã đến để cho chúng tôi biết rằng mọi sự đều an lành tự tại, mọi người, bất cứ ở đâu, bất kể trong hoàn cảnh nào, đều được “như thường.” G. đâu có phải là Thiên Thần của sự Sống, cũng không phải là Sứ giả của Tử Thần. Chỉ có một điều mà thôi, G. muốn nói với chúng tôi: tất cả đều an nhiên, phải biết, phải hiểu như thế. G. đã đến, đã hạ xuống, đứng yên, đã khoan thai bước những bước một trong sân nhà chúng tôi. Rồi G. vụt bay đi, và có ngọn lửa loè cháy trong mắt vì một tia nắng lạc lối trong chiều tà đã vụng về cuống quit va phải mắt G. Và tôi biết, nhìn mấy thanh củi cháy rụi trong lò, ngọn lửa loè sáng trong mắt G. đó là cái phương cách đặc biệt của G. để tung lên chúng tôi một trận mưa pháo bông, như trong một cuộc liên hoan.

Tôi đẩy cửa kính lớn sang một bên, bước ra vườn trước. Đêm yên tĩnh, se lạnh. Cây cối im lìm. Sương mù mới ban chiều tràn đầy cánh đồng cỏ nay đã tan biến đâu mất. Bên kia thung lũng đen ngòm, chênh chếch hướng Đông, áng sáng mờ mịt của tỉnh lỵ nhỏ bé gần nhất. Ngước lên nhìn trời sao lưa thưa, tôi tự hỏi không biết G. đã bay về đâu.

Đêm đó tôi ngủ không yên, mộng mị lôi thôi. Một lần tôi đánh thót vùng dậy, hình như tôi nghe một tiếng kêu. Nửa nằm, nửa ngồi, tôi lắng tai nghe ngóng một lúc thật lâu. Tôi ngờ là tôi đã nghe tiếng kêu đó trong mơ, nhưng tôi cứ chỏng tai chờ đợi. Chưa bao giờ trong đời tôi từng nghe một tiếng kêu như thế. Tiếng kêu có một âm hưởng kỳ lạ, có tính chất kim khí, một thứ tiếng đồng, tiếng sắt. Nhưng kỳ lạ thay, tôi tin chắc tiếng kêu đó, nếu có thật, chỉ có thể phát ra từ cuống họng của một sinh vật, một động vật, có xương thịt, có máu nóng.

* * *

Sáng hôm sau, ngày Các Thánh _ All Saints Day – trời đẹp, tôi còn nhớ kỹ, đẹp quá, một trong những ngày bỗng nhiên giữa cái cảnh thê lương tàn tạ của mùa thu chết, nắng lại vàng rực, trời xanh rờn, không ấm không lạnh, tuyệt quá đến nỗi ta ngẩn ngơ bàng hoàng không dám tin có thật. Trước khi điểm tâm, tôi ra vườn cho súc vật ăn uống. Trong khi bầy gà tới tấp mổ bắp, tôi lẻn vào chuồng lượm trứng. Bỗng nhiên một tiếng ầm! Cả cái mái tôn rung chuyển trên đầu. Tôi vụt chạy ra, nhìn lên.

Gabrielle! G. đã về lại, rực rỡ trong nắng thu. G. đang chậm rãi khép hai chiếc cánh lớn lại sát thân. Hôm trước G. bất ngờ hiện ra trước mắt chúng tôi, trong khu vườn rậm, một chiều tà, đã đem lại cho chúng tôi, đúng hơn, cho chính tôi, cái cảm tưởng rằng G. không phải chỉ là một con chim lạ lùng đẹp đẽ, mà chính là một thứ chim thần, một thánh điểu. Nhưng bây giờ, sáng hôm sau đó, trước mắt tôi quả có một con chim vô cùng đẹp lạ, chính thị là một con chim thật. Toàn thân óng ánh màu xám bồ câu lung linh, còn màu lục thì đúng là màu “tourmaline,” một thứ ngọc thạch rất hiếm, rất quý. Và sáng đó, tôi còn thấy thêm một điều nữa: con mắt lành của G. có một màu vàng chìm chìm, tối tối, như loại hoàng kim những đồ nữ trang thượng cổ.

Trên mái tôn rỉ sét của cái chuồng gà xiêu vẹo, G. đứng thản nhiên bất động. Tôi đứng cách con chim lớn không đầy ba thước tây. Bất kể sự gần gũi ấy, bất kể thực tại rõ rệt trước mắt ấy, trong óc tôi vẫn còn giữ nguyên vẹn ngọn lửa cháy loè trong mắt G. tối hôm trước. G. nhìn tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, nhìn với con mắt lành màu vàng cổ, bao quanh với những nét viền màu đồng rỉ như mắt xếch những tài tử hát bội. Tôi không cầm lòng được. Tôi mỉm cười hỏi: “Nàng là ai?”

Trong sân chuồng bao quanh bởi màn lưới sắt, đàn gà mái gà con mổ bắp, chạy lui chạy lại, chen bên này lấn bên kia, trong khi Lửa và Vôi, hai con gà trống vĩ đại (một con đỏ, một con trắng) làm bộ làm tịch giữa đám thê nhi của chúng. Tôi nhìn lên mái tôn, gọi: “Này, xin mời nàng xuống xơi vài hạt nhé!” Và tôi vãi một đám bắp xuống đất bên ngoài màn lưới. Tôi không ngờ: G. xoè hai cánh lớn, trườn xuống mái chuồng gà. Cái cách ăn uống và đi lại của con chim lạ thật giống nhau. G. vươn chiếc cổ dài ra, một động tác vừa căng thẳng vừa uyển chuyển, rồi đầu cúi xuống, chậm rãi, vững vàng, nhưng êm dịu như đôi chân của một vũ công cổ điển.

Tôi đứng xem G. một lúc lâu, nhưng đám hạt bắp vẫn còn như nguyên … Thình lình Lửa ở đâu chạy ra – chính tôi quên đóng cửa chuồng! – sau lưng là Vôi và vài con gà mái. Lửa nhảy xổ lại, lông cổ phồng ra trông thật hung hãn. Nhưng G. đã vượt khỏi tầm cựa của con gà trống khổng lồ. Lần thứ hai, tôi nghe tiếng kêu kỳ lạ, tiếng kêu tôi đã nghe một lần tối hôm trước mà cứ ngỡ là trong giấc mơ. G. kêu một tiếng ngắn, rồi bay vụt lên, cánh xoè rộng như cánh đại bàng. G. bay vượt những cành, những lá trong khu rừng thưa, bay cao dần, rồi biến mất.

Chiều hôm đó, khi vợ con tôi về nhà, tôi kể chuyện G. đã trở lại. Và tôi cho mọi người biết tôi quyết định giữ con chim lạ. Cả hai chị em Yên Ba mừng rỡ là G. đã quay về, nhưng càng hân hoan khi biết cha chúng đồng ý bắt nuôi.

Chỉ vợ tôi là có vẻ thờ ơ với ý kiến đó. Nhưng nàng không nói lên điều gì để phản đối cha con chúng tôi. Có lẽ nàng biết rằng ngoài sự kiện tự nó đã là một phép lạ đáng chiêm ngưỡng, G. đã trở nên, đối với tôi, một thực tại vô cùng quý báu, một cái gì đó mà chỉ có tôi mới biết được nguồn gốc và giá trị. Cũng có lẽ, tôi rất ngờ, nàng đoán thấy được những ý nghĩ của tôi về G. tối hôm trước khi ngồi một mình trước lò củi cháy tàn. Rất có thể vợ tôi đã biết đến và chấp nhận cái tham lam ham hố của tôi. G. đã đến, đã cho chúng tôi biết là tất cả mọi người thân yêu, mọi việc xa gần, trong cõi đời này hay ở thế giới bên kia, đều xong xuôi, đâu vào đó, không có gì phải thắc mắc nghi hoặc. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Tôi đòi hỏi nhiều hơn. Tôi muốn được thấy một lần nữa, hai lần, một ngàn vạn lần nữa, ngọn lửa cháy loè khi tia nắng lạc loài tìm được lối về từ bên kia núi tối chạm phải con mắt vàng cổ của G. Con mắt mà mới sáng hôm đó còn nhìn thẳng vào tôi với một cái nhìn vừa xa xôi, vừa hiền hoà, vừa bao dung. Cái nhìn đó đã làm cho tôi càng thèm khát được biết rõ thêm, được an ủi vỗ về thêm, được nắm chặt trong tay một thứ bảo đảm kiên cố nào đó không có gì làm sứt mẻ được.

Và như thế đấy, tôi quyết định bắt giữ con chim lạ. Không để làm một thứ gia súc như Ba muốn làm. Cũng không để làm một thứ đồ trang trí như ý kiến của Yên. Tôi sẽ bắt giữ G. như bắt chộp lấy một ảo giác biết thở, biết bay, một giấc mơ mà ta còn có thể nhìn thấy được khi dã tỉnh giấc. Chưa gì, tôi đã tưởng tượng đến những lúc rình mò bất thần bắt gặp G. Tôi sẽ xúc cảm lần nữa với cái “đau” vụt đến vụt đi, tôi muốn nói đến cái đau mà chính thật là cái vui vô cùng mãnh liệt thình lình được thấy tận mắt, nhìn tận mặt, một người thân ruột, một người bạn thiết, sau bao năm sống ly biệt. Chưa gì, tôi đã nghĩ đến những chiều tà khi ánh nắng chỉ còn lại vài nét lê thê, tôi sẽ nhón nhén đến núp sau cánh cửa lớn và chờ đợi G. Và nếu may mắn, tôi sẽ thấy lại được, một lần nữa, trận mưa pháo bông bùng cháy tung lên từ con mắt vàng …

* * *

G. không trở lại, cả tuần lễ đó. Nhưng đến tối thứ bảy, vợ chồng con cái tôi đã dựng xong “biệt thự” cho G. Cả ngày, chúng tôi hì hục làm việc: đóng cọc, căng lưới sắt quanh một mảng lớn của cánh đồng trứơc nhà. Từ những cọc cây cao hơn, chúng tôi căng lưới lên cả phía trên. Thực tình mà nói, “biệt thự” ấy, nếu so với những “chuồng” chim vĩ đại ở Sở Thú thì chẳng ra gì, nhưng cũng đủ không gian cho một con chim vóc dáng như G. chẳng những đi lại được bên trong mà còn “bay” lên “bay” xuống. Chúng tôi an ủi nhau: chật chội thật nhưng không đến nỗi chật chội quá!

Sáng hôm sau, tôi dậy thật sớm. Với vài mảnh gỗ, dăm thước giây thép và lưới kẽm, tôi đóng một cái bẫy. Tôi cố hết sức đóng làm sao để nếu G. có bị sập vào thì dù vùng vẫy mấy cũng không bị thương tích. Tôi hăm hở làm việc. Nhưng đôi lần, tôi bỗng dừng tay, sững sờ. Tôi ngạc nhiên – và hơi xấu hổ – thấy tim đập mạnh. Thì ra tôi bắt chộp được mình đang chờ đợi, thấp thỏm, hân hoan, như một đứa trẻ chờ mẹ về. Một cảm xúc mà đã từ quá lâu, quá lâu, như bao người khác, tôi không còn được thấy trong lòng.

Ngày qua ngày lại, tuần này trôi đi tuần khác đến, mới đó đã giữa tháng một dương lịch. Cây cối đã trơ trụi quá nhiều, thế mà G. vẫn chưa trở lại. Ngồi ở bàn làm việc, tôi có thể nhìn xuyên qua phần trên, vốn là kính trong của cánh cửa sau. Chia cách mặt hậu của căn nhà với cánh rừng thưa là một bờ đất cao với những tảng đá nằm ngổn ngang. Tôi phóng mắt từ những tảng đá ấy, vượt khoảng bờ đất, lên đồi, lên cao mãi, cho đến đỉnh núi san sát cây cối đã trụi lá trên nền trời đông màu thiếc lạnh. Tôi hay ngừng tay, nhìn lên, chờ đợi. Thật vô lý, nhưng tôi vẫn tin tưởng là một giây khắc nào đó, tôi sẽ ngẩng lên đúng ngay vào lúc G. bay qua khoảng trời đất đóng gọn trong khung kính vuông đó: như một cái chớp loè sáng, một hào quang bùng lên với hai màu ngọc thạch và hoàng kim …

Nhưng tôi đã hoài công chờ đợi. Hai đứa Yên và Ba bận rộn bài vở cùng nhiều thứ lăng nhăng khác, xem như đã quên mất G. Và tôi nghĩ thầm, vợ tôi có vẻ như thở phào nhẹ nhõm, trút bỏ được một mối lo âu. Tôi biết nàng đã yên chí là con chim lạ sẽ không bao giờ quay lại nữa.

* * *

Cuối tháng một dương lịch, đúng trước ngày sinh nhật của tôi, trời trở lạnh da diết, một ngày thật lạnh đầu tiên của mùa đông năm ấy. Đứng ở gác thượng nhìn ra, tôi thấy được cái “chuồng chim” chúng tôi xây dưới cánh đồng cỏ. Đêm qua sương giá có rơi, bọc trắng màn lưới sắt, sáng ra nhìn tưởng những tấm lụa thêu ngân tuyến. Tôi thoáng nghĩ, điệu này e G. không trở lại nữa, chỉ còn có nước tháo gỗ tháo lưới, hạ cái “chuồng chim” đi cho xong chuyện. Trong thâm tâm, tôi chẳng biết làm gì hơn là chấp nhận một ý niệm hiển nhiên: một cái gì đó thật đẹp đẽ, thật hiếm có đã đến, rồi đã bỏ đi. Chỉ có thế thôi.

Vợ con tôi thường mừng tuổi tôi một ngày sớm hơn để cho trùng với ngày cha mẹ sinh tôi ra bên kia trái đất. Tối đến, cả nhà vui vầy ăn một bữa cơm thật đặc biệt, tặng quà, mở quà, v.v. … Giờ đi ngủ rồi cũng đến, mọi người ríu rít lên gác. Chỉ còn tôi ngồi lại xem chừng mấy khúc củi lớn để chúng cháy cho thật hết.

Và lần đầu tiên, cả ngày hôm đó, tôi nghĩ đến G. khi bất chợt thấy tuyết rơi lả tả bên ngoài.

Tôi đứng dậy, đẩy cửa kính lớn, nhìn ra hiên. Từ lúc nào không rõ, tuyết đã rơi có đến hai ba phân trên nền xi măng. Bỗng nhiên tôi choáng váng, một nỗi xót xa tràn trụa trong lòng. G. đã bay về một khu rừng xa xôi hoang vắng nào? Về một đỉnh núi trơ trọi héo hon nào? Trong đêm khuya tối tăm lạnh lẽo, tuyết rơi không một tiếng động, bộ lông vũ màu lục “turmaline” và xà cừ đó có giữ được khô, được ấm không? Tôi nghĩ đến con mắt mù của G., con mắt giống hệt một hạt nút bạc. Tôi nghĩ đến con mắt lành của G., con mắt lành màu vàng cổ, ánh vàng nay chắc đã tắt rồi trong đêm đen mịt mùng … Hôm đó là ngày sinh nhật của tôi, thế mà tôi đóng cửa tắt đèn, trong lòng buồn bã lẫn lộn một nỗi thấp thỏm, một cảm giác rờn rợn bất an.

Quá nửa đêm, nửa ngủ nửa thức, tôi tưởng tôi nghe tiếng kêu của G. Nhưng tôi nghĩ tuyết rơi mạnh như thế G. đâu có quanh quẩn ở đây. Chắc thế nào cũng đã trốn vào trong một hốc đá nào đó trên núi.

Nhưng tôi lại giật mình thức giấc. Hoàn toàn tỉnh ngủ, tôi nghe rõ ràng, một lần nữa, tiếng kêu kỳ lạ, tiếng kêu như có chất đồng chất sắt. Không phải chỉ một lần thôi. Tiếng kêu vang vang tới tấp từ phía sau nhà. Phòng ngủ chúng tôi lại ở mặt hậu. Khi tuyết lạnh phất vào mặt tôi mới biết là tôi đã một bước phóng ra vườn, tay cầm cái đèn “pin” – thường vẫn nằm trên bàn nhỏ cạnh đầu giường. Tôi vụt chạy lên đồi, tai vang tiếng kêu kỳ dị.

Trong ánh sáng hình chổi của cây “pin”, cách độ mười thước, G. đang vùng vẫy cố thoát khỏi cái bẫy. Trời! Cái bẫy tôi đã đóng để bắt G. mà vì G. không trở lại, tôi đã lú lẫn quên mất! G. đã mắc bẫy thật và đã cao chạy xa bay rồi nếu một chiếc cánh không bị kẹt cứng dưới khung cửa làm bằng lưới sắt móc lò xo. Tôi càng lại gần, con chim lớn càng vùng vẫy dữ dội. Tôi không thấy rõ G. nữa: chỉ còn có cánh, có lông, có tuyết tung lên và tuyết rơi xuống. Bỗng một vật lớn phóng về phía tôi, va mạnh vào vai tôi, làm tôi chúi ngã sang một bên. Tôi lấy lại thăng bằng thì G. đã bay bổng lên không, và mang trên lưng cả bầu trời tuyết, là đà bay xuống đồi, rồi hạ xuống đậu ngay trên nóc nhà. Tôi vội vã chạy xuống, vùa chạy vừa dâng cao tay rọi đèn lên.

Nổi bật trên nền trời tuyết đêm, G. vĩ đại lạ thường. G. đứng im một lúc lâu trong khi tôi ở dưới nhìn lên. Rồi con kỳ điểu từ từ quay đầu nhìn xuống tôi: một ngọn lửa loè cháy trong con mắt vàng! Trong khoảnh khắc, tôi thấy ngàn vạn tia lửa sáng rực như một trận mưa pháo bông từ trên trời rơi xuống cùng với hằng hà sa số bông tuyết.

Tôi sững sờ nhìn lên. Con chim lớn dang hai cánh mênh mông, vỗ một cái nhẹ như không, rồi nhún mình bay bổng lên, bay vút vào bầu trời đêm tuyết. Lúc đó, tôi mới nhận ra tôi đứng trong bóng tối, không áo choàng, không giày dép. Và tôi run bắn cả người.

* * *

Sáng hôm sau, trời nắng sáng, trong và lạnh, vợ tôi và các con đã rời nhà trước khi tôi thức dậy; mọi người đã ngủ ngon lành suốt đêm, không hay biết gì.

Mặc quần áo ấm xong, công việc đầu tiên của tôi sáng đó là lên đồi sau, về phía chuồng gà, xem lại cái bẫy tôi đã dại dột quên bẵng để cho G. phải sập vào. Nhìn quang cảnh bừa bãi trước mặt, tôi nghẹn ngào: lông chim rải rác bốn bề, mặt tuyết trầy trợt nát bấy, máu thấm vào tuyết lan ra nhiều vạt đỏ hồng. Tôi đủ hiểu là G. đã vùng vẫy mãnh liệt thật lâu để thoát thân trước khi tôi nghe được tiếng kêu mà cầm đèn chạy lên.

Tôi cúi nhặt một cái lông cánh, một cái lông dài màu lục mà tôi vẫn thường ví với ngọc thạch “tourmaline”. Tôi nhìn cái lông chim hồi lâu, rồi tôi dim mắt, chìa cái lông ra theo hướng ánh sáng mặt trời. Rồi tôi xoay nó lại qua chiều khác, để nó ngược lại hướng ánh sáng mặt trời. Nhưng cái lông chim tuyệt đẹp chỉ còn là một màu lục tầm thường, không phản ánh hoả hoàng và huyết dụ nữa như tôi đã từng thấy khi nó còn dính liền nguyên vẹn với hình hài của G.

Sáng ấy, tôi đã nói, là ngày sinh nhật của tôi, giờ Tây-Bán-Cầu, trời rất đẹp, tôi đứng đó, một con người đã trưởng thành, một gã đàn ông xưa nay vẫn kiêu căng về cái “gươm đàn nửa gánh” của hắn, một đấng tu mi. Thế mà tôi thấy rậm rựt, run run trong lòng. Một tí ti nữa, chỉ một tí ti nữa thôi, thì tôi đã đưa tay lên ôm mặt khóc, như một đứa trẻ con …

Võ Đình.

1979

© 2007 gio-o

đọc các bài viết khác của Võ Đình trên gio-o