Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 9 tháng 11, 2017

Kỳ 1: Tác phẩm đầu tay dang dở

Hiếm có người cầm bút Việt Nam nào được như nhà văn Nguyên Ngọc. Ở tuổi tám mươi lăm, ông vẫn tiếp tục những hoạt động hết sức đa dạng và sôi động trên nhiều lĩnh vực, từ văn học nghệ thuật, văn hóa, giáo dục…, cho đến thời sự chính trị, xã hội. Ông nói chuyện, viết sách, dịch sách, mở trường, tổ chức các hoạt động thường xuyên về nhiều mặt, như một người còn trẻ, tràn đầy năng lượng. Nhờ đâu…?

Xin ông cho biết, vì sao ở tuổi tám lăm, cuộc sống của ông vẫn hết sức bận rộn?

Tôi là người tham lam. Mà cuộc sống thì bao nhiêu chuyện cần làm, muốn làm, cảm giác có thể góp tay tháo gỡ, dù chỉ đôi chút.

clip_image001

Nhà văn Nguyên Ngọc. Ảnh: Quý Hoà

Nào Tây Nguyên tôi đã gắn bó suốt đời và nay đang quá đáng lo; nào giáo dục ở ta chẳng ai có thể yên tâm; nào thực trạng văn hóa không thể không suy nghĩ và lên tiếng; nào Phan Châu Trinh mà tôi cho rằng phải còn giải thích và suy nghĩ về những điều ông phát hiện cho đất nước hơn 100 năm trước và nay càng thời sự hơn bao giờ hết; nào lịch sử và chính con người Việt ngày càng cảm thấy bao nhiêu điều phải căn vặn, đặt câu hỏi và cố trả lời;… Cả chuyện voọc chà vá trên núi Sơn Trà, quá đẹp thế mà đang bị đe dọa mãi mãi biến mất; cả chuyện Hội An vì quá đẹp nên cũng thật mong manh và đang đầy thách thức…

Còn sách hay thì phong phú quá, mới và lạ, lắm cuốn muốn dịch để chia sẻ. Bao nhiêu chuyện khác, theo nghĩa nào đó, đều cấp bách. Và còn… rong chơi nữa.

Đi để  nghe, thấy, cảm, đi để nghĩ và tìm ra cái viết, cách viết, để gặp bao ngẫu nhiên, thường bao giờ cũng hay.

Tôi là người thích di chuyển, dừng lâu thì cuồng chân, bạn bè vẫn nhận xét tôi mà ngồi một chỗ thế nào cũng ốm, cứ đi thì lại khỏe ra. Tôi cũng là người không thích đứng ngoài, đến đâu cũng muốn được vào cuộc.

Hồi chiến tranh xuống đơn vị, chỉ là phóng viên, nhưng xông vào đánh nhau như lính, có khi làm bí thư xã, lăn lộn sống chết cùng anh em. Và cuối cùng, vẫn ảo tưởng mình còn viết được cái gì đó, còn cái gì đó để viết, và chưa mất ảo tưởng có thể viết khác. Ảo tưởng chăng? Để rồi xem…

Trước khi viết tác phẩm đầu tiên, ông có nghĩ rồi cuộc đời mình sẽ gắn liền với văn chương?

Tôi vốn học toán, với thầy Hoàng Tụy. Sau này nhiều lần ông bảo tôi có thể đi theo toán được, bỏ mất là uổng. Nhưng rồi cuộc đời đã dắt tôi đi con đường khác.

Nguyên do nào thúc đẩy ông trở thành nhà văn? Câu chuyện đã xảy ra thế nào?

Hẳn là do Tây Nguyên. Tôi lên đó năm 1950 và lập tức bị Tây Nguyên mê hoặc.

Không biết người đọc có nhận ra điều này: hể gặp miền núi là tôi viết dễ và dễ viết hay. Tôi với Tây Nguyên cứ như là phát hiện ra nhau. (Về sau gặp người Mông ở Hà Giang cũng vậy, “nhận” ra nhau ngay, có gì đó cứ như là mỗi bên tự phát hiện ra mình do gặp gỡ ấy).

Bấy giờ, năm 1950, tôi làm phóng viên báo Vệ Quốc Quân (mấy năm sau đổi thành báo Quân Đội Nhân Dân) liên khu 5 (tức Nam Trung bộ). Báo thả tôi đi tự do, nên tôi lang thang trên ấy không chịu về, làm lính một đội vũ trang tuyên truyền. Trong đội còn có Nhật Lai và Y Yơn sau này đều trở thành nhạc sĩ có tiếng. Và chị Hải, người Phú Yên, mà chúng tôi gọi là Mai Đua = Chị Hai.

Có lần chúng tôi bị Pháp tập kích ở Buôn Kreah Lớn, chị Hải bị thương, Y Yơn, Nhật Lai và tôi khiêng chị vượt đường 14 rồi đường 21, về núi Dleya, cố cứu mà không được. Chị chết vì khí núi lạnh quá và vì chúng tôi hoàn toàn không có thuốc, một chút bông băng cũng không.

Đấy là người phụ nữ Kinh đầu tiên hy sinh ở Tây Nguyên.

“Tôi là người thích di chuyển, dừng lâu thì cuồng chân, bạn bè vẫn nhận xét tôi mà ngồi một chỗ thế nào cũng ốm, cứ đi thì lại khỏe ra. Tôi cũng là người không thích đứng ngoài, đến đâu cũng muốn được vào cuộc.”

Nhà văn Nguyên Ngọc

Chúng tôi sống như vậy đó, cũng phải nổ súng khi gặp Pháp, còn thì đi vào các buôn, tuyên truyền kháng chiến và múa hát, sống cùng bà con Ê Đê. Bấy giờ tôi đã biết tiếng Ê Đê kha khá, có thể hiểu được đôi chút Đam San do các cụ già Ê Đê kể.

Năm 1951, thay vì gửi về cho báo các tin tức, tường thuật như thường lệ, tôi đã viết và gửi về… một cuốn tiểu thuyết tên là Pra, lấy tên một địa phương ở Đak Lak, nhân vật chính là Ama Yơk, một ông già Ê Đê, nửa hiện thực nửa huyền thoại, đã tìm đến xin vào đội vũ trang tuyên truyền của chúng tôi.

Báo đăng nhiều kỳ và ghi là "Ký" nhưng ngày nay nhìn lại thì đúng là tiểu thuyết. Đăng được tới kỳ thứ 5 thì tôi lặng lẽ bỏ dở dù cuối bài có ghi "Còn nữa"… Vì tôi viết đến đó thì bí, không biết dắt dẫn các nhân vật của mình đi đâu nữa. Cũng định bỏ cả công cuộc viết lách luôn từ đấy.

Rồi thỉnh thoảng tôi có viết đôi cái ký ngắn, cũng là người và việc Tây Nguyên, nay nhớ lại thì đấy là những phác họa đầu tiên của một giọng văn tôi muốn tạo nên để viết về Tây Nguyên, vừa tự phát vừa ít nhiều có ý thức, đặc biệt trong một bài ký viết về Đinh Nói, một người lính dân tộc Re ở Tây Quảng Ngãi.

Không phải nhại theo cách nói của họ khi họ nói tiếng Việt, mà cố diễn đạt cách người Tây Nguyên nhìn thế giới quanh mình, từ toàn bộ cách sống, cách nghĩ, lịch sử, môi trường đặc trưng của họ, tóm lại từ toàn bộ điều gọi là "văn hóa" của họ... Cho đến cuối năm 1955, tập kết ra Bắc, tôi được Tổng cục Chính trị gọi về Hà Nội và giao viết về một anh hùng quân đội tùy chọn. Tất nhiên tôi chọn Núp của Tây Nguyên.

Cũng cần nói thêm: lẽ ra viết xong Núp, tôi sẽ được trả về sư đoàn, chắc sẽ làm một anh cán bộ tuyên huấn kiểu nào đó. Nhưng lại xảy ra chuyện Nhân văn Giai phẩm, bắt đầu từ trong quân đội. Các anh ở phòng Văn nghệ Quân đội: Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Phùng Quán… bị đuổi ra khỏi quân đội. Chúng tôi được giữ lại để thay thế, có tôi, Nguyễn Khải, Hồ Phương, Nguyễn Trọng Oánh, Lý Đăng Cao…

Về sau còn thêm Hữu Mai, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Xuân Sách, Xuân Khánh… Cũng là tình cờ cả. Hóa ra đấy là lớp nhà văn lớn lên trong kháng chiến chống Pháp, và định hình giữa hai cuộc chiến tranh.

clip_image002

Trong tác phẩm Đất nước đứng lên, hình tượng anh hùng Núp ông có được từ cảm xúc trước một con người có thật hay từ lý trí của một người cầm bút cần một hình mẫu?

Thực ra, Đất nước đứng lên không phải là tác phẩm đầu tiên của tôi. Đấy là một thứ Pra được viết lại, viết tiếp. Phần nào đó Núp chỉ là một cái cớ, để gửi vào đấy tất cả những gì tôi biết và mê say về Tây Nguyên: trời đất, cỏ cây, sông suối, đất đá, núi rừng, dã thú, mưa gió, con người Tây Nguyên… suốt những năm tháng lang thang, la cà trên đó.

May là tôi đã không viết "từ lý trí của một người cầm bút cần một hình mẫu", chắc sẽ chẳng ra gì. Tôi chỉ muốn khoe với mọi người, với cả nước cái hương sắc Tây nguyên kỳ lạ và kỳ diệu của tôi, mà tôi đã tìm được cho mình.

Anh hùng Núp có được là nhờ Tây Nguyên hay chính nhờ Tây Nguyên mới có được anh hùng Núp?

Tôi đã may mắn gặp Núp, có thể gửi vào hình tượng của ông hàng chục, hàng trăm con người Tây Nguyên tôi đã biết. Núp của Đất nước đứng lên là một kiểu Ama Yơk của Pra đã tương đối hiện đại và hiện thực hơn.

Nói thật, tôi vẫn tiếc Ama Yơk của Pra. Có thể nói ông Tây Nguyên hơn Núp, một Tây Nguyên còn huyền hoặc, huyền thoại đang bước đầu chen chân vào hiện thực, mà theo tôi sau này Trung Trung Đỉnh phần nào đó đã gợi lên được trong tiểu thuyết Lạc rừng rất lạ và rất hay của anh.

Nói như nhà văn Nguyễn Khắc Phục, ông có một “giọng văn tráng lệ”. Sự trau chuốt trong hành văn của ông xuất phát từ điều gì? Ông thường viết nhanh hay chậm so với những người khác?

Tôi chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn chương Pháp từ thời còn đi học trường Tây.

Đến nay còn thể đọc thuộc lòng từng đoạn dài thứ văn tuyệt đẹp của Alphonse Daudet, Anatole France, thơ Beaudelaire, Musset… Và lần đầu tiên đến Paris, vào vườn Luxembourg, rõ ràng cảm giác trở về, gặp lại cảnh xưa, “lá vàng rơi từng chiếc một trên những đôi vai trắng ngần của các pho tượng”…

Tôi nghĩ trong văn chương, hình thức cũng chính là nội dung. Tôi cũng nghĩ nếu đến nay người ta chưa hoàn toàn quên mất Đất nước đứng lên thì là vì hình thức thẩm mỹ của nó chứ không phải chỉ vì nó viết về một người anh hùng.

Trong nghệ thuật cái dở rất nguy hiểm, nó khiến người ta quen với cái thấp kém, tầm thường, là môi trường của cái ác. Hình như ở ta chưa chú ý đến điều này. Đừng tưởng cứ chiếu phim chợ lăng nhăng suốt ngày trên truyền hình sẽ không liên quan gì đến văn hóa và đạo đức đang xuống cấp trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Dostoievski đã nói “Cái đẹp sẽ cứu thế giới ”. Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của văn học là phải Hay.Tôi viết từ cái này qua cái khác rất chậm, còn khi đã bắt tay viết được một cái gì, cảm thấy dòng văn đã chảy, thì lại rất nhanh, đến không kiềm lại được.

Giờ đây, sau hơn bốn mươi hai năm hòa bình,  ông nghĩ gì về những tác phẩm viết trong thời chiến của mình? Những thế hệ tương lai liệu có nhìn nhận chúng như những thế hệ từng sống trong chiến tranh?

Nói thế này thì có thể nghe hơi lạ, nhưng quả thật tôi không phân biệt những gì đã viết trong thời chiến và sau thời chiến. Thời nào thì cũng phải cố mà viết cho hay, và dù viết trong thời nào cũng thế thôi, cái gì viết được hay thì còn có cơ sống sót với thời gian.

“Trong nghệ thuật cái dở rất nguy hiểm, nó khiến người ta quen với cái thấp kém, tầm thường, là môi trường của cái ác.” 

Nhà văn Nguyên Ngọc

Tôi nghĩ có thể đóng góp của tôi là tạo ra được một cách viết về miền núi trong văn học mình, khác với thời Lan Khai, cũng khác Tô Hoài. Tạo ra một cái giọng riêng, có thể còn nhiễm đến người đi sau muốn động tới miền núi.

Núi không chỉ là đất, đá và cây, núi là một thực thể rất lạ, là sinh thể đặc biệt, của Trời, của Chúa. Nó thăm thẳm bí ẩn, và tiếng nói của nó vừa thiêng liêng vừa tráng lệ.

Tôi có đọc trên trang La vie des idées của báo Le monde một bái viết có tên là Ce que sait la montagne? (Núi biết những gì?). Núi có những minh triết của nó mà người không biết. Tôi có học được ít nhiều của núi và gắng để nó thấm vào văn chương mình.

Ngô Thị Kim Cúc thực hiện

Mời bạn đọc đón xem kỳ 2:

Nguyên Ngọc: "Cần một cuộc tự vấn về chính mình"

Có thông tin rằng ngành công an từng mời ông đến nói chuyện về Tây Nguyên và cử tọa đều rất bất ngờ trước những thông tin ông cung cấp. Ông nghĩ sao về “hiệu ứng” này?

Nguồn: http://nguoidothi.net.vn/ky-1-tac-pham-dau-tay-dang-do-11114.html