Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2017

Những bài hát rong đương đại (kỳ 4)

Trường ca

Nguyễn Thanh Hiện


CHƯƠNG BỐN
ÂM VANG CƠN LŨ

Giờ đây tôi không làm gì hết, chỉ nghe,
Để lấy những điều nghe được làm giàu bài hát này...
WALT WHITMAN (*)
(*) trích Lá Cỏ của Walt Whitman, bản dịch của Vũ Cận

 

Và một hôm
em đến
xin chào hạt bụi
giọng nói nghe hiền như mây mùa thu
và ta
lại tiếp tục cuộc dong ruổi vào chốn cát bụi…

 

như trong gió có mùi vị của tai ương

ở cao nguyên Anatolia ta trò chuyện với một nhà triết học

vốn là vua của một xứ sở cận kề thành Troa

bấy giờ là đang mùa thu

những ngọn gió thổi lại từ phía biển Đen như mang theo mùi vị của tai ương

 

mấy nghìn năm nghĩ ngợi ta đã thấy ra cái lý của trời đất

nhà triết học vốn là vua

nói

ta hỏi cái lý thế nào

ông ấy bảo là một cuộc đùa dai dẳng

 

thì ra đấy là một nhà vua đã bị lật đổ hơn hai nghìn năm trước

là thần dân của ông lật đổ ông

bọn họ không treo cổ mà đem nhốt ta vào cái nhà ngục vốn là nhà nuôi chó
ở nhà ngục ấy ta đã hiểu ra lũ bọ chó ấy

ông ấy bảo

 

buổi trưa nhà triết học vốn là vua đưa ta đi xem trước tác của ông

một thứ công trình triết học đang viết lở dở

khi đứng ở nơi vách đá cao chót vót ấy ta cứ có cảm tưởng là đang nhìn thấy thành Troa và buộc nhắc đến Homer

nếu nơi ấy là thành Troa thì Homer đã đặt chân đến đó

ta nói theo thứ cảm hứng nơi trí nhớ

thì ông nhà sử gia ấy, ông Homer ấy, cũng bịa ra các thứ cho vui
chỉ có đám bọ chó ở cái ngục ấy là thật

nhà triết học vốn là vua
nói

 

thì ra sau khi ra khỏi cái nhà ngục đầy bọ chó ấy nhà vua bị lật đổ đã bắt tay vào công trình trước tác của mình

một công trình triết học về đám bọ chó

khi không có lũ chó thì cái đám bọ có tên là bọ chó ấy lại bu lấy con người ...

ta đọc được những lời ấy trên vách đá cao

 

và nghe như từ phía biển Đen vọng lại âm vang của cơn lũ ngày nào

 

sao lại chảy về biển Đen?

sao không chảy đi đâu mà chảy vào biển Đen

niềm băn khoăn ta vẫn dành cho con sông Halys

con sông của những số phận

của những cuộc đời

và của những tên đất tên người rất dễ lãng quên

Paphlagon, Cappadocia, Lydia, Mursili I, Mursili II, Urata, Boghaz…

hay chỉ biển Đen mới chứa đựng nổi những thống khổ dòng sông mang lại

 

sao không chảy đi đâu mà chảy vào biển Đen

một hôm ta dừng chân nơi bờ sông Halys

câu hỏi về dòng sông định mệnh như cứ vang lên trong tâm tưởng

 

chốn dừng chân của một cuộc thiên di

ra khỏi khu rừng nguyên sơ man dại là con người bắt đầu một hành tung thiên niên bất tận, hành tung của dịch chuyển, đi, và có dừng lại cũng chỉ là một cách thức của đi, có dừng lại cũng chỉ là để nhìn ngắm ngọn cỏ rạp mình dưới ngọn gió mùa đông,

 

ra khỏi khu rừng mông muội nguyên sơ là con người bắt đầu ngắm nhìn con đường phía trước với cách thức của kẻ khờ khạo trước màu nắng chiều sắp tắt, âm u bờ cỏ tiếng động hờ của đêm, âm u bước chân mệt mỏi của dòng sông khô cạn, âm u tiếng gió lạc giữa hoang vu, đã quen với cách thức của kẻ vốn từ trong rừng nhìn ra,

 

và háo hức tựa lũ con trẻ sắp thay áo mới, tinh khôi một vầng nhật nguyệt, buổi trong rừng cũng vầng nhật nguyệt trên đầu, nhưng là nhật nguyệt nguyên sơ, phía trước, những chiếc áo mới tinh khôi, và lũ con trẻ la hét trên đường làng, a ha, con đường phía trước,

 

buổi sớm mai dừng chân trên bờ sông Halys, ta cứ nghĩ ngợi về cuộc thiên di của một giống người từng có tiếng nói trong cuộc văn minh sắt của loài giống con người

 

và chốn dừng chân cũng giống như chỗ nghỉ ngơi của cánh chim bay mỏi, cũng hồn nhiên như con chim sau bao ngày bay lượn giữa bầu trời tự do, đi, và nghỉ ngơi, kẻ vừa ra khỏi nguyên sơ mông muội cũng đi và nghỉ ngơi như cánh chim bay mỏi giữa bầu trời tự do,

 

và con chim bay mỏi dừng chân chẳng nghĩ ngợi điều chi ngoài việc dừng chân, nhưng kẻ vừa ra khỏi mông muội của khu rừng nguyên sơ lại bắt đầu chuyển sang một thứ mông muội khác,

 

buổi sớm mai dừng chân nơi bờ sông Halys ta cứ nghĩ ngợi về những cuộc đun đẩy nhau của những tộc người vừa mới dừng chân ở chốn dừng chân, những cuộc đun đẩy làm sản sinh ra tên tuổi những đất nước tên tuổi của những dân tộc và tên tuổi những cuộc đổ máu trong thời văn minh sắt của loài giống con người

 

và cuộc hôn phối tưng bừng sắc nước hương trời

cuộc hành trình mở đất vang lên khúc bi ca, đất đai của những dòng sông bắt đầu vấy máu, hãy để cho hết thảy được bình yên hỡi những con người vừa mới đứng lên giữa nghìn trùng băng giá, lời nói của những dòng sông chảy máu chẳng làm thay đổi tính cách những cuộc thiên di,

 

những kẻ màu da sạm nâu hay màu chi chẳng ai biết đích xác là từ miền núi non Caucase tràn về phương nam, bước qua những rừng rậm, bước qua những sa mạc, bước qua nỗi sợ hãi của những kẻ khiếp sợ kẻ mới đến, và kẻ khiếp sợ kẻ mới đến lại trở thành kẻ mới đến, đun đẩy, và ra đi, những đun đẩy, khiếp sợ và ra đi là cứ tiếp tục tràn qua mặt đất, làm như thể dịch chuyển với nằm yên là những cách thức vui chơi cho qua ngày tháng của tồn tại,

 

trên miền châu thổ sông Amq vang lên khúc bi ca, máu, và tiếng khóc của những kẻ sợ hãi, sợ hãi và chưa kịp ra đi, những kẻ màu da sạm nâu hay màu chi chẳng ai biết đích xác là giẫm lên đất đai con sông Amq, những dấu vết còn lại trong đất đã nói lại với những kẻ đến sau rằng những kẻ màu da sạm nâu hay màu chi chẳng ai biết đích xác là đã giết hết sạch những người bản địa sông Amq, và tiếp tục tiến về phương nam,

 

và Boghaz Koy trên miền châu thổ sông Halys tựa hồ chốn thiên đường nơi mặt đất của những kẻ màu da sạm nâu hay màu chi chẳng ai biết đích xác, uống nước sông Halys, và ăn nằm với những người Boghaz Koy bản địa để sinh ra một giống người, một cuộc hôn phối tưng bừng sắc nước hương trời, bởi những dấu vết nơi lòng đất đã nói với những kẻ đến sau rằng có một giống người tên Hittites trên cao nguyên Anatolia đã từng có mặt trong buổi đầu văn minh đồng sắt của loài giống con người,

 

quá về phía đông, vương quốc Urata chế tạo kim loại và buôn bán, và quá về phía tây là giống dân Arzawa thô kệch, còn người Hittites ở trung tâm Anatolia thì hiếu chiến, và biết cách nấu sắt để làm ra vũ khí ...

 

buổi chiều dừng chân nơi bờ sông Halys, ký ức sách vở ít oi về một giống người nhân loại vẫn còn nhắc đến tên tuổi cứ làm ta thấy bối rối trong lòng,

 

nếu không có giống người Hittites ấy, và nếu không có nền văn minh sắt huy hoàng ấy, thì chẳng có ngày nay,

 

nhưng mà…

 

cứ để cho ta nghĩ về em

đừng nói gì cả, cứ để cho ta nghĩ về em trong lúc ta đang đi giữa âm vang cơn lũ, cơn lũ vẫn ám ảnh về sự mong manh của tồn tại, cứ để cho ta nghĩ về em giữa lúc ta đang đi bên bờ biển Đen, là ta đang đi bên bờ biển Đen và đang nghĩ về con thuyền trôi trong cơn lũ, ta có nghĩ về âm vang cơn lũ, cơn lũ bắt đầu từ biển Giữa, và tràn lên sự sống, nhưng khi nghĩ về con thuyền Noah trôi trong cơn lũ ta lại thấy dáng hình em, con thuyền trôi trong cơn lũ, còn em thì như thể là vừa bước ra từ âm vang cơn lũ, hay em là âm vang cơn lũ của đời ta, người ta đã dành bao nhiêu thi ca để nói về con thuyền Noah trôi trong cơn lũ và những kẻ bước ra từ cơn lũ, nhưng ta thì chỉ muốn nói về em những lời giản đơn giữa lúc ta đang đi trong âm vang cơn lũ, đừng nói gì cả, cứ để cho ta nghĩ về em, nghĩ về dáng hình em, ta đang đi bên bờ biển Đen, và như thể là từ nơi thế giới bí ẩn em đang lặng lẽ nhìn ta, em đang lặng lẽ nhìn ta và lặng lẽ mang đến cho ta tình yêu lặng lẽ, cứ để cho ta lặng lẽ nghĩ về em, đừng nói gì cả

 

minh triết và tro than

Lần này thì lũ các người

hãy thử dùng sức mạnh của thi ca

LỜI GHI TRÊN VÁCH ĐỀN APHRODITE

***

Cuộc hành trình lần này ta đã có em, ta đã gặp em, ngẫu nhiên và định mệnh, như thể là em đã chờ ta ở đó những nghìn năm trước để đi cùng ta, cuộc hành trình gian truân nơi mặt đất gian truân,

Lần này thì cứ thử đem tình yêu của chúng ta đặt lên những ngọn sóng, những ngọn sóng màu lam chiều réo gọi nơi eo biển Bosphorus, giữa lúc nữ thần Aphrodite buông lời thách thức, trần thế có phải là chốn để những kẻ đang yêu quấn quít bên nhau, hỡi những kẻ muốn đem trái tim mình đặt lên cuộc biến động khôn lường, lời của nữ thần tình yêu như âm vang cơn lũ, cơn lũ khởi lên từ eo biển Bosphorus, tràn tận đỉnh Ararat.

***

Ai đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, những nghìn năm trước để thốt ra lời ngàn năm, tận tình và thống thiết. Tất cả là nước. Lời nói tựa thách thức xuyên qua những thế kỷ thách thức luôn có lũ người ngu ngốc đi tìm những thứ chẳng bao giờ có. Tất cả là nước. Dáng dấp thuở ban đầu. Con chim sải cánh, bầu trời nguyên sơ lộng gió. Ai đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, thốt ra lời nguyên sơ như thách thức xuyên qua những tiết tấu thời gian vẫn gõ lên bụi bặm trần thế,

Những phác thảo về tồn tại tựa lời trẻ thơ. Con dế ca bài ca của đất rồi đi tìm chú ngựa non trong ngôi nhà của chuột. Tiếng hát trẻ thơ. Và những phác thảo về tồn tại,

Ai đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, những nghìn năm trước để hô hoán rằng thuở ban đầu là chẳng có con đường nào vào cõi miên trường ảo ảnh, dùng dằng người đi kẻ ở, treo lơ lửng trước lối mòn vô vọng, nước mắt chảy giữa gió mây vô vọng, ai ngờ một ngày có kẻ đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, để hô hoán rằng thuở ban đầu là sắc hoàng hôn nguyệt bạch, treo lơ lửng trước đời lối đi về vô tận, chẳng có bàn tay ai nâng đỡ, tất cả là lơ lửng giữa bất định hư không, vào một ngày có kẻ đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, hô hoán lên rằng, sở dĩ được treo lơ lửng giữa bất định hư không là nhờ luôn trai trẻ và luôn giữ được những xa cách ngang bằng nhau giữa muôn ngàn sự thế,

Cũng chẳng ai ngờ một ngày có kẻ đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, để bảo với mọi người rằng thuở ban đầu là hơi thở miên mang bất tận, dòng sinh hóa từ đó mà ra, ai ban cho ta hơi thở ban đầu mà biến hóa khôn cùng, khi tụ tập thành những hình hài kỳ tuyệt, lúc gĩan ra thành cõi trống trải hư không, co lại và giãn ra là để cho muôn vạn hình hài, ta đã có, ta đang có, và ta sẽ có, là có cả những vị thần cùng những hình hài cốt cách của những vị thần, cái ta không nhìn được là các vị thần, cái ta nhìn được là hình hài cốt cách của những vị thần, chẳng ai ngờ có ngày có kẻ đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, để làm cho hình dáng ban đầu của tồn tại trở nên lung linh quyến rũ,

Là Thales, là Pittacus, Bias, Solon, hay Chilon, Cleobulus, Myson, hay Anacharsis, Phytagoras, hay Anaximandre, Anximene, là bảy vị, hay mười bảy vị, hay là hai mươi bảy vị, chuyện có bao nhiêu vị hiền triết chỉ là chuyện về con số, chuyện về cái bóng của hình, những nghìn năm trước những hình hài minh triết vẫn tiếp tục đi lại nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, vẫn nối bước nhau bước lên những hòn đảo minh triết ở Mediterranean, biển Giữa, vẫn không ngừng nghĩ ngợi dưới bầu trời Anatolia, để thốt lên lời nghìn năm,

Buổi chiều, đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, ta và em hóng mắt về phía ban đầu, hóng mắt về phía lung linh quyến rũ, những lời của kẻ yêu nhau thuở ban đầu trở thành lời ngàn năm, con dế ca bài ca của đất rồi đi tìm chú ngựa non trong ngôi nhà của chuột, tiếng hát trẻ thơ, và những phác thảo về hình dáng của tồn tại.

***

Ephesus mùa thu. Ta và em đến Ephesus vào một ngày mùa thu. Chẳng còn nghe thấy tiếng cung bạc leng keng của nữ thần Artemis trên bầu trời Ephesus lặng gió. Lũ ruồi có vẻ chán nản nơi mi mắt thiêu ngủ của lão tư tế đang chán nản canh giữ ngôi đền đổ nát chỉ còn như thứ âm vang già nua trong tâm tưởng con người. Nhưng các người từ phương đông đến cũng nghe thấy những gì đang diễn ra dưới bầu trời đương đại, lão tư tế nói, như thể đã thoát ra khỏi cơn thiu ngủ ngàn năm, cơn thiu ngủ hình thành từ pháp điển hiến chương về tồn tại những nghìn năm trước, thứ pháp điển hiếu chiến vẫn được coi như sở thích con người của thuở ban đầu. Nhưng cuộc chiến thành Troa đã kết thúc tự những nghìn năm trước sao nữ thần chiến tranh vẫn vắng bóng nơi ngôi đền cổ kính, ta nói lời ấy với lão tư tế đền thần Artemis trong lúc lão mệt mỏi xua tay đuổi lũ ruồi đi khỏi sự mệt mỏi của mình, còn em thì đăm mắt về phía những hoang tàn như thể đang cố nhìn lại những tháng năm lừng lẫy của người con gái của Zeus thần thánh, người con gái vẫn cùng với con người và muông thú trên rừng nhảy múa hát ca, nhưng vẫn ra tay giết chóc con người và muông thú theo thứ pháp điển hiến chương mông muội,

Tồn tại là gươm đao. Thứ pháp điển hiếu chiến vẫn được các nhà kiến thiết tài ba thuở ban đầu diễn dịch thành ngôi đền Artemis lộng lẫy dưới bầu trời Ephesus lộng lẫy, những Chersiphon, Pheidias, những Polycleitus, Kresilas, Pheadmo vẫn còn ghi trong sử cũ, những nhà kiến thiết tài ba đã tạo nên chốn ngự trị của vị nữ thần chinh chiến. Nhưng có phải vào cái đêm hăm mốt tháng bảy hơn hai nghìn năm trước chàng trai trẻ có tên Herostratus đã muốn xóa bỏ biểu tượng của hiếu chiến, xóa bỏ những định kiến man rợ, ta và em đều cố nghĩ thế về Herostratus, nhưng lão tư tế đền thần Artemis bảo Herotratus còn hiếu chiến hơn cả nữ thần Artemis, Herotratus đốt đền nữ thần chiến tranh là cốt để cho loài người chỉ còn nhớ đến mình, lão tư tế mệt mỏi nói ra những ý nghĩ mệt mỏi của mình,

Nhưng là các người từ phương đông đến chẳng nghe thấy những gì diễn ra dưới bầu trời đương đại, lão tư tế đền thần Artemis nói, như thể đã ra khỏi hẳn cơn thiu ngủ nghìn năm, ta và em đều nói là rất vui khi không còn nhìn thấy bóng dáng nữ thần chiến tranh dưới bầu trời Ephesus, nhưng lão tư tế bảo là ta với em đã lầm, một sự lầm lẫn nghiêm trọng, các cuộc chiến của con người còn diễn ra trên mặt đất thì thần chiến tranh vẫn còn đó, và thứ pháp điển hiến chương mông muội vẫn còn chỗ trú ngụ dưới bầu trời đương đại, tồn tại vẫn là gươm đao, lão tư tế nói như thể là lời tuyên ngôn về tồn tại,

Vào cái buổi chiều mùa thu đặt chân đến Ephesus, miền đất cổ kính bên bờ Mediterranean, biển Giữa, ta và em đã hiểu ra sự hoang tàn của khu đền nữ thần chiến tranh Artemis như một cách thức biểu hiện về cách nhìn thế giới của con người đã được chuyển đổi, chẳng còn ai muốn nói tồn tại là gươm đao, chẳng còn ai muốn nhìn thấy sự có mặt của vị nữ thần chiến tranh, thực ra thì cách nhìn thế giới của con người đã được chuyển đổi tự hôm con người có tên Heraclitus đã được sinh ra dưới bầu trời Ephesus để nói ra những lời tâm huyết những ngàn năm qua vẫn được coi như một thứ pháp điển hiến chương của thời ngược với thời mông muội,

Đấy là ngọn lửa đang bùng cháy trong tâm can chúng ta. Nói là lửa, hay nói là tình yêu, đều là nói về nó, nói nó là con đường đi lên, hay nói nó là con đường đi xuống, hay con đường đi xuống là con đường đi lên, nói cách nào cũng đều là nói về nó, bởi mọi sự biến đổi là đều của nó, biến đổi là để thành nó, và nó là biến đổi, bởi nó là tất cả, nhưng nó cũng là một, bởi vì một là tất cả, và tất cả là một,

Những pháp điển hiến chương của tồn tại đã được Heraclitus hát lên tự những nghìn năm trước. Chẳng ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông. Buổi chiều mùa thu đặt chân đến miền đất cổ kính Ephesus, ta và em đã hiểu ra lời tự tình ngàn năm của kẻ đa tình có tên Heraclitus. Nó là ngọn lửa nung nấu máu thịt con người. Cháy lên và lụi tàn là cứ thay nhau trong lịch sử con người. Khi sự cháy lên được lặp lại là con người sẽ nhìn thấy những gương mặt rạng rỡ, đáng yêu. Nhưng khi sự lụi tàn được lặp lại thì có thể đó là những hài hước, kệch cỡm, là những giả dối, hèn hạ, dường chẳng phải là thuộc về gương mặt con người,

Buổi chiều, đứng nơi bờ Mediterranean, biển Giữa, ta và em như nghe thấy được tiếng ca bất tuyệt của Heraclitus, con dế ca bài ca của đất rồi đi tìm chú ngựa non trong ngôi nhà của chuột, tiếng hát trẻ thơ, và những phác thảo về pháp điển hiến chương của tồn tại.

***

Aphrodisias cuối thu. Mùi sữa và mùi hoa hồng như cố ấp ủ cho cổ kính không tàn phai theo năm tháng. Và tự nơi cuối trời như có ai đó đang vẫy tay về phía cổ xưa, gào thét. Aphrodite, ta cứ muốn sờ lên từng hơi thở của em, ta cứ muốn chính mắt mình nhìn thấy thịt da em. Tiếng gào như thể ai đó là chẳng còn chịu đựng được trước vẻ đẹp con người chỉ còn được ghi lại như một thứ dấu vết của trí tuệ. Và ta thì cứ cố lục lọi trong ký ức từ chương xem thử có lời nào thốt ra từ cửa miệng của vị nữ thần sắc đẹp ấy hay không, nhưng chẳng tìm thấy, nhưng ta biết có tìm thấy chăng thì cũng đã được diễn dịch theo niềm cảm hứng khôn cùng của các thi gia sử gia Homeros (Homer) hay Hesiodos (Hesiod) hay Herodotos (Herodote). Và, trong ngày đầu tiên đặt chân đến miền đất Aphrodisias cổ kính ấy, thậm chí lời ghi trên vách đền Aphrodite cũng chỉ là sự tưởng tượng của ta và em,

Khi ta và em đặt chân lên miền đất cổ kính Aphrodisias bên bờ Mediterranean, biển Giữa, nơi có đền nữ thần tình yêu Aphrodite, thì khái niệm tình yêu đã trải qua bao thiên niên kỷ, dường thời gian có làm cho thứ khái niệm vốn vô cùng nhiêu khê rối rắm ấy trở nên nhiêu khê rối rắm,

Aphrodite, tóc em là con sông bằng vàng, da thịt em là hương hoa là mùi sữa, và mắt em là vì sao trên trời, Aphrodite, em là tất cả đất trời. Ai đã đứng phía bên kia bờ ngôn từ để thốt lên những lời vô ngôn,

Khi ta và em đặt chân lên miền đất có cái tên đáng yêu diễn dịch từ tên thần tình yêu Aphrodite ở bên bờ Mediterranean, biển Giữa, thì khái niệm về tình yêu đã trải qua những thiên niên kỷ nhọc nhằn, dường như những khi con người mãi tranh nhau chỗ đứng nơi mặt đất thì quên đi thứ khái niệm còn quí hơn da thịt của mình,

Thì chẳng phải một thời thần chiến tranh Ares, vị thần hiếu chiến và cuồng loạn, cũng say đắm nhan sắc của nàng hay sao, chẳng phải cái tên Aphrodite như một thứ khái niệm về phía khác của chết chóc, phía của tình yêu, một thứ khái niệm về luật lệ của cuộc sống,

Hôm ta và em đặt chân lên miền đất cổ kính ấy cứ nghe như đang vang lên tiếng hát của kẻ đang yêu. Mùi sữa với hương hoa hồng. Và tiếng hát của kẻ đang yêu. Con dế ca bài ca của đất rồi đi tìm chú ngựa non trong ngôi nhà của chuột. Tiếng hát trẻ thơ. Và phác thảo về luật lệ của tồn tại.

***

Trên những mảnh đất nung đào được ở Nineveh nơi bờ sông Tigris người ta đã đọc được thiên sử thi về vị vua anh hùng Gilgamesh của thành Uruk cổ kính, vị vua đã được nghe một người đàn ông có tên Utanapixtim kể về cơn đại hồng thủy do thần Enlin gây ra, người đàn ông đã thoát khỏi sự trừng phạt của các thần, và trở thành kẻ duy nhất có cuộc sống trường sinh bất tử,

Sách cựu ước nói chúa trời đã làm ra cơn lũ bốn mươi ngày đêm để tiêu diệt loài người tội lỗi, ta đã ân hận tạo ra con người, và nay thì chỉ mỗi nhà ngươi là còn được sống để gầy dựng lại loài người, dường như chúa trời đã nói với ông Noah như thế,

Các ông William Ryan, Walter Pitman, những người làm công việc khảo cứu của nước Mỹ bảo, một trận đại hồng thủy đã diễn ra dưới bầu trời Anatolia, thuở ấy, mặt đất nóng lên, băng tan, nước ở các biển lớn đầy lên, nước ở Mediterranean, biển Giữa, cũng đầy lên, và bắt đầu tràn vào biển Đen cho đến lúc dâng lên tận ngọn núi phía đông Anatolia, ngọn Ararat,

Dường những ký ức về trận lũ kinh hoàng trong quá khứ đã được con người khắc họa thành niềm mong mỏi thiêng liêng về một sự hoàn thiện nào đó, em nói,

Dẫu là Utanapixtim trong sử thi Gilgamesh hay Noah trong cựu ước, có trở thành bất tử, hay được quyền sống sót sau cơn lũ lớn, thì các vị cũng chỉ làm mỗi công việc gầy dựng lại loài người, ta nói,

Những đám mây không mấy sáng sủa là đang kéo về bầu trời Anatolia. Ta và em là đang đi trên mảnh đất Anatolia chẳng mấy bình yên, và đang nghĩ về cơn đại hồng thủy đã diễn ra trong quá khứ. Cơn lũ lớn xảy ra dưới bầu trời Anatolia là có thật. Và dường các bộ óc lớn của loài người nhân có lũ lớn muốn làm lại một loài người khác, hoàn chỉnh hơn. Ta và em là đang đi dưới bầu trời Antolia sắp có lũ lớn. Và đang nghĩ về các ông Noah và Utanapixtim, những kẻ sống sót sau cơn đại hồng thủy,

Những đám mây mưa là đang kéo về bầu trời Anatolia. Ta và em là đang đi trong sự báo động về một mùa lũ lớn. Nhưng chẳng dám nói ra là sẽ xảy ra lũ lớn. Cũng như chẳng dám nói ra là các bộ óc lớn của loài người đã thất bại thảm hại trong mưu toan điều chỉnh loài người. Bởi đám nhân loại được các ông Noah và Utanapixtim gầy dựng lại vẫn giống y đám nhân loại đã chết trong đại hồng thủy.

***

Bên kia sông Halys những giấc mơ.

Những giấc mơ cứ lặp đi lặp lại như ai đó cứ gỡ xuống dán lên bầu trời lịch sử bức tranh về nỗi băn khoăn của lũ phù du về sự vĩnh hằng và sự quyến rũ của quyền lực,

Ur, Eridu, hay Uruk, hay Lagooh, đều là những giấc mơ, những giấc của thời Mesopotamia son trẻ. Giấc mơ của vua người Amorite muốn biến thành những luật lệ vàng khắc lên đá, ta, Hammurabi, ta là sự thật, Nineveh, Nimrud trên bờ sông Tigris và Mari trên thượng nguồn Euphrate là của ta, Mesopotamia là của ta, những lời vua Hammurabi rắn như đá vẫn vang lên nơi thành cổ Babylon và tắt hẳn vào một ngày có người chiến binh Mursili I của đất nước Hittites vượt qua sông Halys tiến về miền Mesopotamia son trẻ,

Nhưng Mursili I là một giấc mơ khác. Giấc mơ của kẻ vừa mới bước ra từ niềm cảm hứng sáng tạo. Người ta nói khi thứ kim loại có tên là sắt được con người lấy lên khỏi mặt đất thì loài người đã bước sang một thời khác. Thời văn minh sắt. Mursili I là người của văn minh sắt. Vì vua trẻ của vương quốc Hittites với đoàn quân có chiến xa bánh sắt và những vũ khí bằng sắt đã vượt sông Halys san bằng các thành trì ở Mesopotamia. Và cứ tưởng vương quốc được gầy dựng bằng sắt của mình là còn mãi nơi mặt đất. Nhưng tro than đã phủ lên niềm vinh quang chiến thắng khi một vương quốc khác, vương quốc Phrygia nổi lên ở bên bờ sông Halys,

Và Lydia lại là một giấc mơ khác. Croesus, vị vua cuối cùng của nước Lydia giàu có đến mức những nghìn năm sau tên của vua vẫn là thứ thành ngữ để chỉ cho sự giàu có. "Một khi ngươi vượt sông Halys là ngươi hủy diệt một quốc gia hùng mạnh". Nhà tiên tri ở đền Delphi nói khi Croesus sửa soạn đi đánh nước Ba Tư ở phía bên kia sông Halys. Và cuối cùng thì Cyrus II, vua nước Ba Tư, đã tiêu diệt nước Lydia, bởi Croesus đã hiểu khác đi lời nhà tiên tri ở đền Delphi,

Ở Anatolia, sông Meander chảy vào Mediterranean, biển Giữa, còn sông Halys chảy vào biển Đen. Ta và em là đang đi trên bờ sông Halys. Những nghìn năm qua con sông Halys vẫn chảy vào biển Đen. Và như ai đó cứ gỡ xuống dán lên bầu trời lịch sử bức tranh về sự quyến rũ của quyền lực,

Cuộc hành trình của ta và em như mang thêm màu sắc bi tráng khi dừng chân nơi bờ sông Halys định mệnh. Buổi trưa, tự phía trời cao thẳm như đang lần lượt đổ ập xuống dòng nước đang trôi những hình thù của nghìn năm sông núi. Ta thì như đang nhìn thấy những thành quách nhìn thấy những ngai vàng cùng những áo mũ cân đai rơi rụng. Nhưng em bảo đấy chỉ là những mộng mị của con người làm bằng những vật thể có những tên gọi mơ hồ như ánh lửa ma trơi của những đêm trăng sao chết chóc,

Cuộc hành trình của ta và em như thêm phần bi tráng khi dừng chân nơi bờ sông Halys định mệnh. Những nghìn năm qua con sông Halys vẫn như một thứ ranh giới mong manh giữa tồn tại và không tồn tại.

***

Vào những tháng năm con người vừa bước ra khỏi sự mông muội, cuộc thể nghiệm vĩ đại nhất của tồn tại là đã diễn ra bên bờ Mediterranean, biển Giữa,

Buổi chiều dừng chân nơi dấu tích thành Troa bên bờ Mediterradian, biển Giữa, ta và em cứ nghe như đang vang lên tiếng hát của những kẻ hát rong thời Odysseus và Iliat,

Ca lên đi, hãy bắt đầu bằng cơn thịnh nộ của con trai nữ thần Thetis và Peleus, vua của quốc đảo Aegina. Homeros (Homer), người khởi xướng cuộc thể nghiệm của tồn tại là đang xướng lên bài ca về cuộc thể nghiệm,

Hãy bắt đầu đi những cuộc tình và những cuộc chiến. Các vị thần trên núi Olympus, kẻ tạo ra những giấc mơ ngu xuẩn cho loài người là đang phủ lên mặt đất trần thế những ảo ảnh khôn cùng,

Homeros (Homer), người khởi xướng cuộc thể nghiệm, như đang nằm dài ra trước tòa lâu đài thi ca nhân loại mà hát, những khúc hát dường không bao giờ cũ,

Hỡi nàng Helen, chuyện tày đình xảy ra là do trái tim quyến rũ của em, hay là do sự ngu si đa cảm của những chàng trai ngu si đa cảm, những nghìn năm qua con người nơi mặt đất vẫn đi tìm lời giải đáp, có quả thật là vẻ đẹp của em đã gây nên những cơn giận dữ,

Hay cơn giận dữ thành Troa cũng chỉ là cái cớ để những kẻ hoang tưởng nơi mặt đất hoang tưởng thõa mãn lòng tham muốn vô bờ bến của mình,

Helen của Spart và Parix của Troa. Hay nữ hoàng của biển Aegean và vị vua trẻ dưới bầu trời Anatolia. Hay cuộc tình đã lỡ buột nói ra của nhà thơ nhà chép sử Homeros (Homer), cuộc tình dẫn đến những bất trắc khôn lường nơi mặt đất,

Buổi chiều dừng chân nơi dấu tích thành Troa, ta và em nghe thấy có tiếng gì như tiếng thở dài vọng lại tự những nghìn năm trước,

Chẳng thể nào sửa lại được những gì xảy ra ngày ấy. Khi Homeros (Homer), kẻ đề xuất cuộc tình, chẳng thể dẫn dắt cuộc tình mình đề xuất, và khi nữ hoàng Helen đã rời Spart để lên giường nằm với vị vua trẻ thành Troa, thì lũ chim có thể bắt đầu thay đổi những lời ngợi ca, lũ ong hút mật có thể bắt đầu thay đổi cách đi tìm hoa, con người có thể bắt đầu thay đổi cách nhìn thế giới, và các vị thần trên núi Olympus có thể bắt đầu thay đổi cách nhìn loài giống con người, có nghĩa, cái không thể trở thành có thể,

Không còn là niềm hận thù của ông hoàng thành Spart đối với vị vua trẻ thành Troa, hay là niềm hận thù của Menelaus đối với Parix, mà bỗng trở thành mối hận thù giữa các quốc gia Spart và Troa, bỗng trở thành cuộc chiến có tính cách toàn thế giới, Spart bỗng kéo theo cả Agamenon vua của Mycene, kéo theo cả Odysseus vua của Ithaca, kéo theo cả Achille vua của Aegina, kéo theo cả các vị thần trên núi Olympus, cái không thể đã trở thành có thể,

Và đánh nhau bằng cả chân tay, bằng cả gươm đao, bằng cả phép màu, chia phe mà đánh, con người chia phe nhau, các vị thần chia phe nhau, bầu trời Anatolia như nơi thể nghiệm một cuộc chiến chưa hề diễn ra trong cuộc tồn tại, cái không thể đã trở thành có thể,

Và không có gì là không xảy ra dưới bầu trời Anatolia. Niềm hoan lạc. Cái chết. Nỗi sợ hãi. Cơn giận dữ. Những tráo trở, lừa lọc. Con người tráo trở, lừa lọc. Các vị thần tráo trở, lừa lọc. Các ông vua nơi mặt đất hoang mang. Các vị thần trên núi Olympus hoang mang. Zeus, thần của các thần, đã khóc. Apollon, Aphrodite, Hera, Athena, Hadet, Podeiong, các vị thần dưới trướng của Zeus, cũng khóc,

Và những con người ưu tú nhất nơi mặt đất đã lần lượt ngã xuống. Hector, và Patrocloc, và Achille, và Parix, và các anh em của Parix, những đứa con trai của Priam vua của thành Troa. Hằng vạn trai trẻ đã lần lượt ngã xuống trong suốt mười năm binh đao. Những cái chết nơi mặt đất đã khiến cho Hadet, thần cai quản thế giới của chết, cũng cảm thấy hoảng hốt,

Buổi chiều dừng chân nơi dấu tích thành Troa, ta và em đã nhìn thấy vua Priam khóc con, và vua Agamenon ngỡ ngàng trước sự phản bội của người vợ thân yêu. Sau mười năm của cuộc tình và cuộc chiến, người ta đã nhìn thấy những giọt nước mắt và những nỗi đắng cay trên gương mặt con người,

Vậy thì tồn tại là thuộc về tình yêu hay chiến tranh. Buổi chiều dừng chân nơi dấu tích thành Troa, em đã buột nói ra lời ấy,

Ta nói dường như Homeros (Homer) đã cố tình để cho vua thành Troa và vua Mycene khóc thay mình. Dường như nhà thơ vĩ đại của chúng ta đã nhìn thấy trước sự thất bại của mình trong cuộc thể nghiệm tồn tại.

***

Đêm Anatolia như có ai đó gác mắt lên bầu trời sao nhìn về phía ta và em. Ta nói là Zeus, thần của các vị thần. Nhưng em bảo không phải Zeus, mà là con trai Zeus, thần Apollon,

Trên đường đến cội nguồn trí khôn của con người, lũ các người đã nhìn thấy trong những tro than nơi mặt đất có cả xác của khôn ngoan minh triết,

Lời thần Apollon như lời chào thân thiết.