Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Bà mẹ Việt Nam trong âm nhạc Phạm Duy

Nguyễn Phú Yên

 

Thế giới âm nhạc của Phạm Duy hết sức rộng lớn, từ chủ đề âm nhạc cho đến ngôn ngữ âm nhạc nên có thể nhìn ông dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Trước khi bước vào con đường sáng tác, ông đã trải qua thời kỳ làm ca sĩ, theo chân gánh hát của Đức Huy, đi hát trong những năm 1943-1945. Chính những ngày tháng này đã cho ông đi hết con đường xuyên Việt, đi đến những vùng đất khác nhau của quê hương Việt Nam. Chính trên bước đường đó ông đã nghe được nhiều câu ca, điệu hò và tâm hồn âm nhạc ông đầy đặn lên bằng những giai điệu dân gian ở mọi miền; tất cả đã ăn sâu vào tâm tưởng để rồi ông cất lên bài hát riêng của mình với cá tính sáng tạo đặc thù. Ông đã gắn bó với ngôn ngữ âm nhạc dân tộc trong suốt cuộc đời mình. Ngay từ rất sớm, khi còn tuổi thanh xuân bước vào những nẻo đường kháng chiến, ông một lòng trung trinh với ngôn ngữ này để nói lên cuộc sống của người dân quê trong không gian quê nhà luôn gần gũi, thân quen mà ông đã gắn bó và đắm chìm trong đó. Hình ảnh đầu tiên luôn khắc ghi đậm nét trong âm nhạc của ông chính là hình ảnh quê hương, đất nước và hình ảnh người mẹ Việt Nam được tìm thấy trong hầu hết sáng tác của ông. Ông ôm đàn ca hát trên mọi bước đường lãng du cũng chỉ để hát về quê hương và mẹ.

 

Hình ảnh của mẹ gắn liền với lời ru được nghe từ lúc bé thơ: 

Ðêm khuya trăng tà/ Mẹ ru con ngủ/À à ơi! À à ơi!

Ngoan ngoan con nhoẻn miệng cười

Trông con mẹ tưởng như đời nở hoa…

Ngoan ngoan con nhoẻn miệng cười

Thương con, mẹ những tơi bời ruột gan…

(Ru con, Thái Nguyên, 1947)

https://www.youtube.com/watch?v=jT9XlH4y4GY&spfreload=10

Suốt một đời mẹ vui buồn với con. Và người con lưu giữ hình ảnh mẹ từ đó, để rồi khi lớn lên, trên những nẻo đường chinh chiến, người con bao giờ cũng nghĩ đến mẹ trước tiên:

Ai có nghe tiếng hát hành quân xa

Mà không nhớ thương người mẹ già

Chờ con lúc đêm khuya

Người con đã ra đi, vì nước.

Con bước đi khi trống làng dồn xa

Mẹ đưa mắt trông về ngọn cờ

Cầu cho đứa con trai/ Ở đâu đó con ơi, được vui!

(Nhớ người ra đi, Thái Nguyên, 1947) 

https://www.youtube.com/watch?v=B5KMizqsmG8

Mẹ có hay chăng con về
Chiều nay thời gian đứng im để nghe
Nghe gió trong tim tràn trề
Nụ cười nhăn nheo bỗng dưng lệ nhòe.
Con thấy me yêu đã già
Hẳn là miền quê những năm vừa qua
Chiếc bóng in trên vách nhà
Một ngày một đêm tóc sương phai mờ…
(Người về, 1954)
https://www.youtube.com/watch?v=vzHlh2tO98w

Trên đường kháng chiến, lúc nào ông cũng gặp những người mẹ, tuy xa lạ nhưng rất đỗi gần gũi. Vào miền Trung năm 1948, ông đã nghe câu chuyện về một bà mẹ ở Gio Linh khiến ông rất xúc động. Và một khúc recitativo cất lên đã làm lay động nhiều trái tim. Bà mẹ đã là một bi kịch trong câu chuyện kể. Mẹ sống giản dị ở miền quê như bao bà mẹ khác, cũng tảo tần mưa nắng, chăm bón ruộng vườn:

Mẹ già cuốc đất trồng khoai

Nuôi con đánh giặc đêm ngày

Cho dù áo rách sờn vai

Cơm ăn bát vơi bát đầy Hò hò ơi ới hò…

Câu chuyện phát triển đến hồi bi thảm: giặc đến đốt phá xóm làng:

Nhà thì nó đốt còn đây

Khuyên nhau báo thù phen này

Mẹ mừng con đánh giặc hay

Ra công xới vun cày cấy/ Hò hò ơi ới hò…

Và rồi hiện thực kinh hoàng đến với mẹ, sự việc không ngờ hết sức thảm thiết khiến mẹ ngây dại không còn biểu đạt nổi cảm xúc của mình:

Mẹ già tưới nước trồng rau

Nghe tin xóm làng kêu gào

Quân thù đã bắt được con

Mang ra giữa chợ cắt đầu/ Hò hò ơi ới hò…

Mẹ lẳng lặng nén sự khổ đau và nỗi căm thù tột cùng đến độ tưởng chừng như mẹ dửng dưng, vô cảm đến lạnh lùng:

Nghẹn ngào không nói một câu

Mang khăn gói đi lấy đầu

Chiều về thôn xóm buồn teo

Xa xa tiếng chuông chùa réo/ À à ơi ới hò!

Bi kịch như một nghịch lý: mẹ không kêu gào, la hét trước cái chết của con mà lại bình tĩnh, gan lì đến độ kiêu hãnh, cao ngạo – hình ảnh của người mẹ kháng chiến:

Tay nâng nâng lên rưng rức nước mắt đầy

Mẹ nhìn đầu con tóc trắng phất phơ bay

Ta yêu con ta môi trắng bết máu cờ

Nụ cười hồn nhiên đôi mắt ngó trông ta.

(Bà mẹ Gio Linh, Quảng Trị, 1948)

https://www.youtube.com/watch?v=jBTs8borvb8

Hình ảnh người mẹ lẳng lặng trong hoàn cảnh đau thương cực độ đó đã gây xúc động lòng người qua giai điệu áo não của bài ca. 

Ở một tầm khái quát cao hơn, hình ảnh mẹ quê được ông mô tả và khắc họa khá rõ nét về lòng thương con, sự tần tảo, tính chất phác:

Mẹ quê, mẹ quê vất vả trăm chiều

Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu.

Bà bà mẹ quê, gà gáy trên đầu ngọn tre

Bà bà mẹ quê, chợ sớm đi chưa thấy về…

Bà bà mẹ quê, đêm sớm không nề hà chi

Bà bà mẹ quê, ngày tháng không ao ước gì

Nhỏ giọt mồ hôi vì đời trẻ vui.

Miệng khô, miệng khô nhớ bát nước đầy

Nhớ bà, nhớ bà mẹ quê xưa ấy

Mùa đông, mùa đông manh chiếu thân gầy

Cháu bà, cháu bà ngủ ngon giấc say…

(Bà mẹ quê, 1953)

https://www.youtube.com/watch?v=qUPyu_RRiwM

Khi vào đến miền Nam, Phạm Duy lại có thêm một khúc recitativo nữa kể câu chuyện về một bà má ở đây:

Mẹ già mẹ già ở túp lều tranh

Đói no ai biết rách lành ai có hay

Một ngày một ngày tháng tám năm sáu mươi hai

Có anh là anh Ba cán bộ về đây về đây tuyên truyền

Hò là hò ơ ơ hò ơ.

Anh thưa anh học xong chiến lược giữ xóm làng

Mẹ gật gù nghe anh và xin rất cám ơn.

Đang khi anh cười vang, ai nổ súng dưới vườn

Mẹ vội lùa anh Ba vào trốn dưới gầm giường!

Mẹ đưa anh Ba quốc gia ẩn núp, rồi lại giúp anh Tư giải phóng khi có đoàn quân đi ngang ngoài ngõ. Thế là hai người con ở hai chiến tuyến đều được mẹ đưa xuống gầm giường! Ôi lòng mẹ thật bao la, mẹ ở bên trên mọi thứ chủ nghĩa, mẹ chỉ có lòng bao dung ôm ấp đàn con vì đó là mẹ Việt Nam:

Năm mươi năm làm dân chưa được mấy lúc mừng

Vậy mà mẹ không than, chỉ sống với lòng thương!

(Bà mẹ phù sa, mùa xuân 1967)

https://www.youtube.com/watch?v=EhsauPxoCf8

Sau những tháng ngày ngược xuôi trên những nẻo đường đất nước, Phạm Duy về thành để rồi không nguôi nghĩ đến lời ru của mẹ, tiếng nói của mẹ đã cho ông một đời gắn bó với nước non:

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời

Mẹ hiền ru những câu xa vời

Ạ à ơi tiếng ru muôn đời.

Tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui

Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!

Tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi

Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!

(Tình ca, 1952) 

https://www.youtube.com/watch?v=jaYxyrE5RzU

Ông đã gói ghém tâm tình của mình chỉ trong một ca khúc ngắn nhưng đủ dung lượng chứa đựng tình yêu đối với tiếng nói Việt Nam, đối với quê hương đất nước Việt Nam và đối với con người Việt Nam.

Sau khi ngợi ca những người mẹ cụ thể trên nhiều miền đất nước, Phạm Duy đã khái quát hóa hình ảnh người mẹ bằng một trường ca mang tên Mẹ Việt Nam viết năm 1963-1964. Tác giả đã thổ lộ trong lời nói đầu tập trường ca này: “Mẹ Việt Nam là một âu ca, ca tụng mẹ Tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch sử nước nhà, đề tài và cảm hứng nhắm dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất ta và phải được truyền đi trong thế giới tàn nhẫn hiện tại”. 

Trường ca gồm bốn phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ, Biển mẹ. Phần Đất mẹ gồm 5 bài: Mẹ ta, Mẹ xinh đẹp, Mẹ chờ mong, Lúa mẹ, Mẹ đón cha về, ngợi ca người mẹ xinh đẹp, phục sức giản dị, mộc mạc:

Mẹ Việt Nam, không son không phấn

Mẹ Việt Nam, chân lấm tay bùn

Mẹ Việt Nam, không mang nhung gấm

Mẹ Việt Nam, mang tấm nâu sồng.

Mẹ tiêu biểu cho những đức tính tốt đẹp như sự tảo tần, chịu thương chịu khó, lòng bao dung, nhân ái nhưng cũng rất anh hùng: 

Việt Nam có anh hùng, mắt nhung và môi son

Giữa mùa xuân giết giặc

Yêu nước non, hé môi cười

Nụ cười thanh bình

Mẹ Việt Nam.

Phần Núi mẹ cũng có 5 bài (Mẹ hỏi, Mẹ bỏ cuộc chơi, Mẹ trong lòng người đi, Mẹ trả lời, Mẹ hóa đá). Phần này mô tả mẹ qua hình tượng núi vọng phu để nói về sự chờ đợi người chồng sẽ trở về sau cơn binh lửa:

Ra đi còn nhớ ngày nào

Nuôi con mẹ vẫn nguyện cầu

Biết mấy nỗi thương vay

Thấy trẻ nhỏ giơ tay

Con ngựa người vất vả

Xe nặng nề qua ngõ

Thương thi sĩ hay buồn

Cho nên mẹ hóa ra hòn núi cao.

Phần Sông mẹ gồm 5 bài (Muốn về quê mẹ, Sông còn mải mê, Sông vùi chôn mẹ, Sông không đường về, Những dòng sông chia rẽ) nói đến những dòng sông chia cắt như hình ảnh những đứa con còn trăm mối ngổn ngang, chia lìa nhau trong cuộc tử sinh nên không về với mẹ:

Nước đi là nước không về

Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông

Chia anh em vì quên tiếng gia đình

Chia tay chân và cắt đứt thân mình…

Lũ con lạc lối đường xa

Có con nào nhớ mẹ ta thì về.

Phần Biển mẹ gồm 7 bài: Mẹ trùng dương, Biển đông sóng gợn, Thênh thang thuyền về, Chớp bể mưa nguồn, Phù sa lớp lớp mây trời cuộn bay, Mẹ Việt Nam ơi, Việt Nam - Việt Nam. Hình ảnh mẹ là hình ảnh của biển, ôm ấp vỗ về trong nỗi thương nhớ những đứa con xa và mong ước chúng trở về bên mẹ... Âm điệu ngân nga tha thiết và lời ru đằm thắm, dịu dàng:

Sóng vỗ miên man như câu ru êm của mẹ dịu dàng

Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của mẹ trùng dương…

Sóng vỗ êm êm như khuyên con nên trở lại mẹ hiền

Gió rít thông reo như kêu con mau trở về mẹ yêu.

Rồi những đứa con đã kêu tên mẹ trong nỗi thương yêu miên viễn:

Chúng con đã về khát khao hơi mẹ

Chúng con xin thề giữ thơm quê mẹ

Cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới

Chỉ còn tình yêu của mẹ mà thôi.

Bài chung khúc ca ngợi hình ảnh đất nước với ước mơ vươn tới tương lai yên vui để xây tình người:

Việt Nam Việt Nam

Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời

Việt Nam Việt Nam Việt Nam muôn đời.

https://www.youtube.com/watch…

Ông đã thể hiện được lòng mơ ước của dân Việt. Nhiều năm sau đó, khi ở ngoài đất nước, ông vẫn không nguôi ngoai nhớ về và dõi theo hình ảnh bà mẹ Việt Nam để cho ông hồi tưởng và ước mơ. Hồi tưởng về mẹ đau thương trong chiến tranh, ông không khỏi nóng lòng với niềm băn khoăn tìm cách đưa mẹ ra khỏi thảm cảnh bi đát đó: 

Nào ai đang nhìn Mẹ ta hấp hối

Mẹ đau, Mẹ nghèo, Mẹ yếu, không vui

Nhìn nhau bối rối, ta cùng hối lỗi

Xúm xít lại rồi, giải cứu cho Người.

Dù mẹ bây giờ dung nhan đã đổi thay và còn bơ vơ trong hiện tại nhưng lòng ông vẫn mang niềm tin sắt son và ước mơ rằng mẹ sẽ vĩnh hằng trong tươi trẻ:

Mẹ bây giờ lạc loài trên thế giới

Việt Nam là gì, giảng nghĩa cho coi

Mẹ quên tiếng nói, tên họ đổi thay

Cuối thế kỷ này, Mẹ sẽ hai mươi.

(Mẹ năm 2000, 1988)

https://www.youtube.com/watch…

Thế là một điều rõ ràng không ai phủ nhận được là người nhạc sĩ lớn của chúng ta suốt đời gắn bó với quê hương, cùng khổ đau và cùng reo vui theo vận nước, mà dù ở tâm trạng nào ông cũng một đời ngợi ca đất nước, mà biểu tượng đậm nét chính là hình ảnh Mẹ Việt Nam.

Điều đáng nói về ngôn ngữ âm nhạc là khác với nhiều nhạc sĩ cùng thời, ông thường dùng nhạc ngữ phương Tây và vận dụng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhạc ngữ phương Tây với nhạc ngữ dân tộc. Nét nhạc ngũ cung Việt Nam được ông khai thác trong hầu hết sáng tác của mình. Viết về mẹ như trên, ông thường dùng thang âm ngũ cung miền Bắc trong lời ru con, chạy trên năm âm do re fa sol la hoặc trong lối ngâm thơ chạy trên năm âm re fa sol la do, đôi khi chuyển hệ (métabole) sang năm âm re mi sol la si. Trong bài "Bà mẹ Gio Linh", ông vẫn còn dùng ngũ cung Bắc có chuyển điệu nhưng vẫn là nhạc thuật Tây phương: đoạn đầu cung re thứ, đoạn sau cung fa trưởng; khác hẳn cách dùng điệu Nam ngũ cung Huế như trong bài Nước non ngàn dặm ra đi, với thang âm do re (non) fa (già) sol la (non). Khi nói đến bà mẹ miền Nam trong bài "Bà mẹ phù sa", ông sử dụng thang âm ngũ cung hơi Nam giọng oán do mi fa sol la.

Để khắc họa hình tượng người mẹ trong âm nhạc của mình, ngoài tâm tình tha thiết để ngợi ca, xưng tụng, Phạm Duy còn dùng nhạc ngữ Việt Nam để chuyển tải nội dung sao cho người nghe nhận ra đó chính là hình ảnh người mẹ Việt Nam, tiếng nói Việt Nam, quê hương Việt Nam, nhận ra cảm giác gần gũi, ấm áp với những âm hưởng đã ăn sâu bao đời trong tâm thức người Việt. Cái tài hoa của người nghệ sĩ chính là ở khả năng đó. Vì vậy các bài hát về bà mẹ của Phạm Duy dễ đi vào lòng người và đã để lại dấu ấn khó phai qua bao thế hệ người yêu nhạc Việt Nam.

N.P.Y.