Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2017

Camus và Sartre chia rẽ về vấn đề tự do như thế nào

Sam Dresser

Aeon.

Hiếu Tân dịch

https://aeon.co/ideas/how-camus-and-sartre-split-up-over-the-question-of-how-to-be-free

Họ là một đôi cọc cạch. Albert Camus là người Pháp ở Algeria (pied-noir) sinh ra trong một gia đình nghèo, có nét đẹp dễ dàng mê hoặc. Jean-Paul Sartre, xuất thân từ tầng lớp trên trong xã hội Pháp, khó có thể nói là đẹp trai. Họ gặp nhau ở Paris trong thời kì chiếm đóng, và trở nên thân thiết sau Thế Chiến Hai. Vào thời gian thành phố này dần dần hồi phục trở lại, Camus là bạn thân nhất của Sartre. Sau này Sartre viết “Sao hồi ấy chúng tôi yêu anh đến thế.”

Họ là những thần tượng rực rỡ của thời đại. Báo chí theo dõi từng cử động hàng ngày của họ: ‘Sartre ẩn dật ở Les Delux Magots..’, ‘Camus lang thang ở Paris...’ Khi thành phố bắt đầu tái thiết, Sartre và Camus lên tiếng về tinh thần của thời đại, Châu Âu đã bị tàn phá, nhưng đống đổ nát do chiến tranh để lại đã tạo không gian cho tưởng tượng về một thế giới mới. Độc giả nhìn vào Sartre và Camus để hình dung ra bộ mặt của cái thế giới mới đó. Nhà triết học Simone de Beauvoir sau này nhớ lại “chúng tôi đã mang đến cho thời hậu chiến hệ tư tưởng của nó.”

Hệ tư tưởng ấy hiện ra dưới dạng chủ nghĩa hiện sinh. Sartre, Camus và các bạn bè trí thức của mình bác bỏ tôn giáo, dựng những vở kịch mới và bi quan, kêu gọi bạn đọc sống đích thực, và viết về cái phi lí của thế giới – một thế giới vô mục đích và vô giá trị. Chỉ có “những hòn đá, xác thịt, những ngôi sao và những sự thật có thể sờ mó được,” Camus viết. Chúng ta phải chọn sống trong thế giới này và phóng chiếu ý nghĩa và giá trị của chính chúng ta lên nó để làm cho nó có ý nghĩa. Điều đó có nghĩa là con người là tự do và chịu gánh nặng của nó, vì tự do có kèm theo một trách nhiệm ghê gớm, thậm chí khiến ta suy kiệt, để sống và hành động một cách đích thực.

Tư tưởng về tự do gắn bó Camus và Sartre về mặt triết học, rồi cuộc chiến đấu vì công bằng đoàn kết họ lại về mặt chính trị. Họ lao vào đối mặt với bất công và chữa trị nó, và trong mắt họ, không có nhóm người nào bị đối xử bất công hơn những người công nhân, giai cấp vô sản. Camus và Sartre nghĩ về họ như những người bị xiềng vào lao động của mình, và bị cắt xén mất tính người. Để giải phóng họ, cần xây dựng những hệ thống chính trị mới.

Tháng Mười năm 1951, Camus xuất bản cuốn Kẻ nổi loạn. Trong đó, ông nêu ra một phác thảo “triết lí nổi loạn”. Về thực chất đây không phải là một hệ thống triết học, mà là hỗn hợp của nhiều tư tưởng triết học và chính trị: mọi con người là tự do, nhưng bản thân tự do là tương đối, người ta phải chấp nhận các giới hạn, sự tiết chế, “những mạo hiểm có tính toán,” những cái tuyệt đối là chống lại con người (phi nhân bản). Trên hết, Camus lên án bạo lực cách mạng. Bạo lực phải được sử dụng trong những hoàn cảnh cực chẳng đã, (dù sao ông cũng đã ủng hộ những cố gắng chiến tranh [chống phát xít] của Pháp) nhưng sử dụng bạo lực cách mạng để thúc lịch sử đi theo hướng mà anh mong muốn là không tưởng, chuyên chế và phản bội chính anh.

“Tự do tuyệt đối là quyền của những kẻ mạnh nhất thống trị,” Camus viết, “trong khi công bằng tuyệt đối đạt được bằng cách đàn áp tất cả các mâu thuẫn, do đó nó phá hủy tự do.” Xung đột giữa công bằng và tự do đòi hỏi thường xuyên tái cân bằng, điều hoà về chính trị, một sự chấp nhận và hoan nghênh cái hạn chế nhiều nhất: tính nhân đạo của chúng ta. “Sống và để người khác sống” ông nói “để tạo ra con người của chính chúng ta.”

Sartre đọc Kẻ nổi loạn một cách phẫn nộ. Theo ông, có thể đạt được cả tự do và công bằng hoàn hảo – và đó là thành công của chủ nghĩa cộng sản. Dưới chủ nghĩa tư bản, và trong bần cùng, những người công dân không thể tự do. Những lựa chọn của họ không dễ chịu và không nhân đạo: làm công việc đáng ghét, hoặc chết. Nhưng bằng cách loại bỏ nhứng kẻ áp bức và trao quyền tự trị rộng rãi cho công nhân, chủ nghĩa cộng sản cho phép mỗi cá nhân sống không thiếu thốn về vật chất, do đó họ có thề lựa chọn thể hiện bản thân cách tốt nhất. Điều đó làm cho họ tự do, và thông qua sự bình đẳng vững chắc này, đó cũng là công bằng.

Vấn đề là, đối với Sartre và nhiều người phái Tả khác, cần phải có bạo lực cách mạng để đạt tới chủ nghĩa cộng sản, bởi vì phải đập tan trật tự hiện tồn. Tất nhiên không phải tất cả những người phái tả đều tán thành bạo lực như thế. Sự chia rẽ giữa những người cứng rắn và những người ôn hoà phái tả, rộng hơn, giữa những người cộng sản và những người xã hội, không phải là mới. Tuy nhiên trong những năm 1930 và đầu những năm 1940, người ta đã thấy phái Tả tạm thời đoàn kết chống phát xít. Khi phát xít tan rã, sự đoạn tuyệt giữa những người phái tả cứng rắn dung thứ cho bạo lực và những người ôn hòa lên án nó quay trở lại. Sự chia rẽ này trở nên gay gắt hơn nhiều do sự biến mất trên thực tế của phái Hữu và uy thế của Liên Xô – nó tiếp sức cho những người cứng rắn trên khắp châu Âu, nhưng dấy lên những bất an cho những người cộng sản khi sự khủng khiếp của những trại tập trung, khủng bố và những phiên tòa trình diễn bị đưa ra ánh sáng. Câu hỏi cho mọi người phái tả thời kì sau chiến tranh thật đơn giản: anh đứng về bên nào?

Với việc xuất bản Kẻ nổi loạn, Camus tuyên bố một chủ nghĩa xã hội hòa bình không dùng đến bạo lực cách mạng. Ông kinh hoảng về những câu chuyện từ Liên Xô, nó không phải là một đất nước của những người cộng sản tay-trong-tay, sống tự do, mà là một nước không hề có tự do. Trong khi đó thì Sartre chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản, và ông sẵn sàng tán thành bạo lực để làm thế.

Sự chia rẽ giữa hai người bạn là một cú giặt gân của truyền thông. Les Temps Modernes – tở báo do Sartre biên tập, đăng một bài phê phán cuốn Kẻ nổi loạn, có lượng bán ra tăng ba lần. Cả hai tờ Le Monde và L’Observateur tường thuật nghẹt thở cuộc đổ vỡ này. Khó mà tưởng tượng ngày nay một mối hận thù trí thức lại thu hút sự chú ý của công chúng đến mức ấy, nhưng trong sự bất hòa này nhiều độc giả thấy cuộc khủng hoảng chính trị của thời đại phản ánh trong đó. Đó là cách nhìn chính trị diễn ra trong thế giới tư tưởng, và một thước đo giá trị của các tư tưởng. Nếu anh tận lực tận tâm với một tư tưởng, anh buộc phải giết người vì nó sao? Đâu là cái giá của công bằng? Đâu là cái giá của tự do?

Lập trường của Sartre bị nhiều người phản đối, nhưng ông chiến đấu để bảo vệ nó đến hết đời mình. Sartre là nhà hiện sinh, ông nói con người bị kết án phải tự do, cũng chính là Sartre - nhà Marxist, nghĩ rằng lịch sử không để nhiều khoảng trống cho tự do đích thực theo nghĩa hiện sinh. Mặc dù ông không bao giờ thật sự gia nhập đảng Cộng sản Pháp, ông vẫn tiếp tục bảo vệ chủ nghĩa cộng sản trên khắp châu Âu cho đến năm 1956, khi xe tăng Liên Xô vào Hungary cuối cùng đã thuyết phục ông rằng Liên Xô không theo đường tiến bộ. (Thật ra, ông thất vọng về việc Liên Xô tiến vào Hungary bởi vì họ đang hành động giống như Mỹ, ông nói). Suốt đời Sartre vẫn giữ được tiếng nói mạnh mẽ bên phái Tả, ông chọn Tổng thống Pháp Charles De Gaulle làm bung xung ưa thích của mình. (Sau một đòn tấn công cực kì hiểm ác, người ta yêu cầu De Gaulle bắt Sartre. “Chẳng ai lại bỏ tù Voltaire,” ông trả lời). Tuy nhiên, Sartre vẫn rất khó lường, cho đến khi chết, 1980, ông vẫn giữ mối quan hệ lằng nhằng quái đản kéo dài với chủ nghĩa Mao tàn khốc. Mặc dù Sartre tách rời hoàn toàn khỏi Liên Xô, ông vẫn không hoàn toàn từ bỏ ý nghĩ cho rằng có thể biện minh cho bạo lực cách mạng.

Bạo lực cách mạng của chủ nghĩa cộng sản đã đẩy Camus sang một quỹ đạo khác. Ông viết trong
Kẻ nổi loạn: “Cuối cùng tôi chọn tự do. Vì cho dù công bằng không được thực hiện, thì tự do vẫn duy trì quyền đối kháng chống lại bất công và giữ cho truyền thông cởi mở.” Từ phía bên kia cuộc chiến tranh lạnh, khó mà không đồng tình với Camus, và ngạc nhiên về nhiệt tình để Sartre vẫn giữ nguyên là người cộng sản trung thành. Việc Camus tỉnh táo theo sát thực tế chính trị, khiêm nhường về mặt đạo đức, nắm vững những hạn chế và những sai lầm có thể có của chủ nghĩa nhân đạo, ngày nay vẫn là một thông điệp được nhiều người chú ý. Ngay cả những tư tưởng đáng kính trọng và có giá trị nhất thì vẫn cần được cân bằng với nhau. Chế độ chuyên chế và chủ nghĩa không tưởng là con đường nguy hiểm để tiến lên – và là lý do để châu Âu bị tàn phá, khi Camus và Sartre phấn đấu để hình dung ra một thế giới công bằng hơn và tự do hơn.

.