Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

MẨU LỊCH SỬ TRONG ĐÊM TRUNG THU

Truyện

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Đã 6 giờ chiều, hắn vẫn còn ngồi ở quán bia cóc tại một thị xã đông đúc. Chả là, anh bạn thân ở hội văn nghệ địa phương sau khi viết xong cái truyện ngắn, biết hắn đang có việc ở thị xã bèn truy tìm bằng được để khoe. Đọc xong dòng cuối bản thảo, ngoặc được một câu gửi gắm: "Cái này mà chuyển thể thành phim truyện thì thú lắm đấy", ông bạn kéo hắn bằng được đi chiêu đãi. Biết văn nghệ sĩ tỉnh là nghèo nên hắn đã chủ động “tiến cử” một quán bia bình dân mà hắn từng đến, để ông bạn đỡ thâm thủng màng túi khi tỏ lòng hiếu khách mà không làm tổn thương đến sĩ diện của bạn…

Nhưng thật oái oăm, ở ngay cạnh quán bia này vừa mới khai trương một cửa hàng đặc sản Gà quê. Bạn hắn định chạy sang kiếm nửa con gà sang nhậu với bia vi sinh (mà hắn phải bấm bụng nói là bia địa phương có-hương-vị-đặc-biệt). Hắn giữ tay bạn lại: “Thôi, uống không cho mát. Uống nhanh, tôi phải về. Ông quên đêm nay là Trung thu, còn tôi có con nhỏ à?”. Ông bạn nhăn mặt: “Ông buồn cười nhỉ. Lâu ngày mới gặp nhau. Xe ông về chỉ hơn tiếng đồng hồ. Mà uống thì phải có mồi. Gà quê đây ngon lắm, lại an toàn”. Hắn lắc đầu quầy quậy: “Nhưng tôi không biết ăn thịt gà”, Không hiểu sao hắn ứng phó nhanh thế. Ông bạn tròn xoe mắt sau cặp kính cận dày cộp: “Thế à? Nhưng lần trước, trong cuộc chiêu đãi của tỉnh… Vậy thịt chó nhé? Hôm nay không phải đầu tháng, cũng chưa phải cuối tháng. Trẻ con không được ăn thịt chó (*), nhưng chúng ta thì ăn được”. Đúng là lý luận cù nhầy cốt là để cuối cùng được bày tỏ lòng quý bạn. Hắn nhún vai: “Tôi càng không biết ăn. Ông biết đấy, tôi tiêu hoá kém, mà thịt chó quá nhiều đạm”. Điều này thì hắn nói đúng trăm phần trăm, và bạn hắn tâm phục khẩu phục hoàn toàn.

Lẽ ra những câu chuỵên văn chương lẫn đời thường của hai “vĩ nhân tỉnh lẻ” sẽ rất trọn vẹn, lý thú, nếu như không có cái mùi cánh gà nướng, chân gà nướng bay sang ngào ngạt, cái mùi “hoa tiêu” đặc trưng của dân nhậu chuyên nghiệp. Xin mở ngoặc, hắn chỉ là dân nhậu nghiệp dư, nhưng cái mùi đưa đẩy bia rượu kia quả là hấp dẫn. Nếu ông bạn hắn là dân doanh nghiệp máu mê văn nghệ, hắn chẳng nề hà gì để xơi gọn cả hai đùi gà quê bạn chiêu đãi, và thêm vài cái cẳng gà nướng thứ thiệt cũng chẳng sao, mặc dù hắn chưa đủ tư cách để được liệt vào hạng có tâm hồn ăn uống.

Hắn bỗng nhớ lại một lần cũng lâu rồi, ở một ngôi nhà sàn miền núi, vào bữa cơm rượu đãi khách, hắn đã gắp ngay hai cái đùi gà cho hai đứa trẻ con, trước những ánh mắt thán phục và lời trầm trồ khe khẽ: “Cán bộ hiểu phong tục đồng bào quá!”. Và rồi hắn chỉ chọn toàn xương xẩu để gặm. Lúc đó, hắn chỉ hành động theo thói quen hình thành ở gia đình; và mới ra trường, hắn đâu đã biết gì về phong tục đồng bào. Hắn chỉ biết một điều: vì quý khách mà gia chủ chọn con gà béo nhất trong đàn gà thường chỉ để đem ra chợ bán chứ ít khi được thịt trong bữa ăn hàng ngày…

Câu chuyện giữa hắn và ông bạn bên cốc bia địa phương, đĩa lạc luộc chẳng mấy chốc lại xoay sang chủ đề “cái ăn” trong nghệ thuật chữ nghĩa. Bạn hắn bảo: “Ông thấy không, văn chương nước mình viết về miếng ăn, cái đói sao mà thấm thía. Chắc nhà văn thế giới không ai vượt qua được ông Nam Cao trong lãnh địa này”. Hắn gật đầu đồng tình, đế thêm: "Cứ gì văn chương. Thì tôi với ông chẳng thuộc diện vừa được xóa đói giảm nghèo, và đang trong cảnh đe dọa tái nghèo vĩ đại đấy thôi". Rồi hắn lặng lẽ uống, và mặc dầu bia rất khó uống cũng làm ra vẻ bia-rất-lạ như hắn tuyên bố lúc đầu, lại còn đòi thêm cốc nữa.

Lúc chia tay, bạn hắn về trước, còn hắn chạy vào toa-let nồng nặc của quán để nôn ra bằng hết thứ bia cỏ rẻ tiền. Khi ra, đang lục túi quần tìm chìa khoá xe máy chẩn bị cho cuộc hành trình gần 50 cây số về thủ đô thì có một người đàn bà quang gánh toòng teng đến gần hắn năn nỉ: “Anh ơi, mua nốt giúp em đi...”. Hắn nhìn người đàn bà. Gọi là chị cũng được mà gọi là bà cũng không quá. Người ấy thuộc loại người không thể đoán được tuổi vì sự lam lũ, khổ sở, nhẫn nhịn, và có lẽ cả sự tự ti nữa. Hắn nhìn vào đôi sọt. Vài quả na thâm xì, mấy quả hồng rụng cuống lấm tấm đen, đôi ba quả xoài nẫu. Hắn bật cười vô thức, vẻ giễu cợt: “Mấy thứ này còn ăn làm sao được nữa hở bà trẻ. Với lại, tôi phải đi xa, mua hoa quả làm gì”. Hắn tra chìa khoá vào cổ xe, rồi bất giác quay đầu sang bên. Đôi mắt người đàn bà đang ẫng nước. “Bác mua hộ cho các con em đi…”. Lời người đàn bà nhẹ như hơi thở, nhưng hình như có một sức mạnh kỳ lạ nào ẩn phía sau, và chị ta nói thật nhanh, thật khẽ khàng, dường bằng cách đó mới có thể duy trì nổi lòng dũng cảm: “Em bán rẻ cho bác… Em chỉ cần đủ tiền mua cái đèn ông sao và mấy cái chân gà cho các cháu đêm nay…”. Một câu từ chối thông thường sắp bật khỏi cổ hắn, như phản ứng. “Để tôi đi”. Nhưng lời lẽ đó chưa kịp bắt đầu thì bỗng tắc lại. Hắn chợt “ngộ” ra hoàn cảnh của người đàn bà xa lạ… Người ấy đang cầu xin hắn, với tất cả tính cấp bách và lòng tự trọng cần phải có… Hắn có thể gạt đi, phóng vù xe, và con đường đêm đầy gió lộng trong lành sẽ giúp hắn quên đi tất cả sự trớ trêu của nhân thế lẫn cảnh ngộ đau lòng này…

Nhưng đó có phải là giải pháp đúng nhất? Còn nếu không, hắn có thể làm gì với cái đống hoa quả nát này? Liệu vợ hắn, mẹ hắn, các em, các cháu hắn có cười vào mũi hắn là kẻ dở hơi?... Hắn cứ nghĩ ngợi trong khi lục túi để trả tiền và nhét các thứ vào túi ni lông, rồi làm ra vẻ hí hửng vì đã mua rẻ được của hời. Hắn biết trước là mẹ hắn sẽ lôi đống hoa quả đó từ tủ lạnh ra rồi kêu trời kêu đất đến nhà hàng xóm cũng nghe thấy…

Nhưng đó là chuyện của ngày hôm sau. Còn đêm đó, hắn về đến Hà Nội lúc hơn 8 giờ rưỡi. Bụng đói cồn cào, hắn mở lồng bàn đậy mâm cơm để phần (hắn đã gọi điện về báo sẽ ăn cơm ở nhà). Mẹ hắn vì đợi lâu quá nên đã ăn trước, rồi lên phòng riêng xem ti vi. Sáng nay, vợ hắn đưa đứa con gái đầy tháng về quê ngoại. Theo tục lệ ở quê vợ hắn, bà mẹ vợ sẽ chăm sóc con gái một tháng sau khi sinh nở tại nhà chồng, rồi sau đó lại đón hai mẹ con về để chăm sóc một tháng nữa tại quê. Lúc chiều, mẹ hắn đã thịt một con gà to để làm cơm thắp hương, và sẽ chỉ còn hai mẹ con hắn ăn cơm cúng tối nay. Lúc chiều tối, hắn ngăn bạn không mua g, một phần vì ái ngại cho túi tiền của bạn, nhưng một phần vì hắn biết lát nữa về cũng được ăn gà quê (bố vợ hắn đã gửi cho gia đình nhỏ của hắn một đôi gà bự nhân đầy tháng con bé).

Nhưng mở lồng bàn, hắn chẳng hề thấy món quan trọng nhất trong mâm cơm cúng. Hắn mở chạn rồi mở tủ lạnh. Đều không thấy. Hắn chạy lên gác. Mẹ hắn không rời mắt khỏi ti vi. “Mẹ ăn cơm chưa?”. “Rồi! Tao đợi mãi…”. “Thế… lúc sáng mẹ không mổ gà à?”. “Sao lại không. Gà hơn cân, béo lắm”. “Thế có còn không, mẹ?”. Lúc ấy mẹ hắn mới rời mắt khỏi màn hình ti vi, cười hể hả: “Cả nhà Nhíp đến ăn mà chỉ hết có nửa con. À, Nhíp nó đem cho con mày cái đèn ông sao đấy” (Mẹ hắn hay gọi gia đình cô em thứ tư của hắn bằng biệt danh của đứa cháu gái mà bà yêu quý và nuôi dạy từ bé). Hắn sốt ruột: “Thế bà để chỗ còn thừa ở đâu?”. “Cái gì còn thừa?”. “Thịt gà ấy”. Mẹ hắn ngẩn ra một giây rồi gật gù: "Thế mày có bạn đến ăn à?”. “Không ạ, chỉ mình con ăn thôi”. Mẹ hắn ngạc nhiên thực sự: “Ơ kìa… Tao nghĩ là mày không biết ăn thịt gà, nên đã cho mẹ con nó mang về hết rồi. Để mai thì chẳng ai ăn, tao cũng đã chán…”.

Nói xong, mẹ hắn quay lại với ti vi… Còn hắn thì sững người. Một nỗi xót xa xộc lên mũi hắn. Thì ra, bao nhiêu năm nay, mẹ hắn vẫn giữ nguyên ấn tượng là thằng con trai trưởng không biết ăn thịt gà! Suốt những năm dài chiến tranh, sơ tán, rồi đận giá-lương-tiền, mẹ hắn - một cô giáo dạy nhạc phải tần tảo nuôi dạy năm đứa con, bằng đồng lương còm giáo chức và số tiền khiêm tốn bố hắn nhờ vẽ tranh truyền thần, tranh quảng cáo, cổ động, minh họa sách báo… Từ tuổi niên thiếu cho đến khi đi học chuyên nghiệp, cứ ở nhà là hắn lặp lại thói quen nhường cho các em từ bát cơm độn mỳ độn ngô đến miếng thịt, gắp cá. Đôi lần bố hắn đi thực tế sáng tác kết hợp vẽ truyền thần ở tỉnh xa về, hý hửng đưa tiền cho mẹ hắn mua con gà nhép cải thiện, tới bữa ăn, lần nào hắn cũng giả bộ: “Con không thích ăn thịt gà đâu…”. Có thế, bố mẹ hắn mới yên tâm là không phải thằng lớn nhường cho cả nhà…

Những ngày tháng ấy đã in đậm trong tâm trí anh em hắn. Và ký ức của của mẹ hắn, khổ thay, đã hằn vết một điều: “Thằng lớn không biết ăn thịt gà”... Ngồi trước mâm cơm, hắn đã chảy nước mắt, vì thương thân thì ít mà thương bố mẹ thì nhiều…

Mẹ hắn lúc này đã tắt ti vi, đi lại trong phòng, chắc là đang nhớ đứa cháu gái bé bỏng… Bao năm tháng qua, dường như bà đã động viên con cháu chịu đựng thử thách bằng cái vẻ ngoài hồn nhiên vô tư lự của bà - kể cả khi chạy vạy lo toan từng cân gạo, từng chai nước mắm, từng lít dầu hoả, từng lạng thịt đậu tem phiếu, rồi lo chạy chương trình ở nhà trường, rồi lọ mọ đạp xe đêm hôm đi thăm các con nơi sơ tán; lúc rảnh rỗi lại ngồi son-phia những bài hát mới hoặc vùi đầu vào một cuốn truyện dày cộp giấy đen sì do thằng con trưởng vác về… Giờ đây, đã qua tuổi cổ lai hy từ lâu, bà lại vẫn vất vả để vui đùa với đứa cháu nội muộn mằn… Còn bố hắn, một họa sĩ bất đắc chí thì đã nằm yên nghỉ dưới mộ sâu hơn mười năm rồi, người chưa kịp được hưởng chút sung sướng gì của thời kinh tế mở cửa, người mà lúc sinh thời “chỉ bát mì tôm cũng ngon lành tựa bữa ăn đặc sản”, như hắn đã viết trong bài văn tế bố.

Đêm ấy, nhớ con gái, hắn đã nhớ thương cho cả một thời đói khổ của gia đình. Hắn chợt nghĩ đến người đàn bà với cái đèn ông sao cùng mấy chiếc chân gà loại rẻ tiền chị ta phải mua bằng được cho con cho bữa tối Trung thu. Chị ta chắc cũng đông con. Và chắc thế nào cũng có một đứa lớn hay nhường cho những đứa bé mấy chiếc cũng gọi là chân gà, với lý do đầy sức thuyết phục: “Con không thích ăn gà”.

Có điều, đứa bé đó chưa thể biết (và mong nó không bao giờ phải biết), từ miếng thịt gà nhép tới cái chân gà bị thải cũng đã có một lịch sử “phát triển đi xuống" đã ngót nửa thế kỷ...

___________________________

(*)Tên một truyện ngắn của Nam Cao.