Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Tiếng vọng từ Chernobyl (kỳ 11)

Svetlana Alexievich

T. Vấn dịch

Ba Mẩu Độc Thoại

Độc Thoại

_____________________________

khi viết về Chernobyl

Những con kiến đang bò dọc theo một nhánh cây.

Trang thiết bị quân sự có mặt ở khắp mọi nơi. Và những người lính, khóc lóc, chửi thề, văng tục, máy bay trực thăng đập cánh. Nhưng, họ cũng đang bò.

Từ Khu Cấm, tôi trở về nhà. Ngày hôm ấy, thứ duy nhất trong số những thứ tôi chứng kiến, thứ duy nhất vẫn còn hiện ra rõ ràng trong trí nhớ của tôi, là hình ảnh những con kiến bò trên một nhánh cây. Chúng tôi ngừng lại giữa khu rừng, tôi bước xuống đứng hút thuốc bên cạnh một cây Bu lô. Tôi đứng rất sát cái cây, gần như là tựa lưng vào nó. Ngay trước mặt tôi là một đàn kiến đang di chuyển, chúng thản nhiên như không một chút bận tâm, để ý đến sự có mặt của tôi. Về phần tôi, chưa bao giờ tôi có dịp quan sát một đàn kiến chăm chú như bây giờ.

Ban đầu thì người ta bảo : “Đó là một thảm họa”, rồi ai cũng bảo: “Đó là một cuộc chiến tranh nguyên tử”. Tôi đã được biết về Hiroshima và Nagasaki. Đã xem những đoạn phim tài liệu về hai quả bom nguyên tử nổ ở hai thành phố Nhật Bản này. Quả thật là một sự kiện đáng sợ, nhưng vẫn có thể hiểu được : chiến tranh hạt nhân, phóng xạ phát ra do bom nổ. Thậm chí tôi có thể tưởng tượng được quả bom đã nổ như thế nào. Nhưng những gì xẩy ra ở Chernobyl hoàn toàn nằm ngoài tầm cảm nhận ý thức của tôi.

Bà có thể hình dung ra được không hình ảnh một vật hoàn toàn vô hình có thể xâm nhập vào thế giới rồi tiêu hủy chính cái thế giới nó bước vào. Cũng vật ấy, nó từ từ bò vào trong con người mình, rồi trụ lại ở đó. Tôi nhớ đến lời giải thích của một nhà khoa học : “Phải mất hàng ngàn năm trước khi bụi phóng xạ vĩnh viễn biến mất. Khoảng thời gian cần thiết để chất uranium tự phân hủy là 238 half-lives *, tính ra thời gian là hàng tỉ năm (4.5 tỉ năm). Cho chất Thorium là 14 tỉ năm.”. Năm mươi, một trăm, hai trăm. Nhưng vượt quá hơn nữa thì sao? quá hơn nữa thì ý thức của tôi thành tê liệt. Tôi không còn hiểu được gì nữa hết. Thời gian là gì? Tôi đang ở đâu đây?

Viết về những điều đó bây giờ ư, khi mới chỉ có khoảng thời gian 10 năm trôi qua ư? Thật là điên rồ! Không ai thậm chí giải thích được tại sao, hiểu được tại sao về những gì xẩy ra. Chúng tôi vẫn còn cố gắng hình dung một cái gì đó tương tự như cuộc sống của chúng tôi bây giờ. Tôi đã cố nhưng vô ích. Vụ nổ Chernobyl tạo ra huyền thoại Chernobyl. Bọn ký giả cạnh tranh nhau xem ai là người viết được những bài báo hãi hùng nhất. Những kẻ nào không có mặt ở Chernobyl khi vụ nổ xẩy ra thích thú được có cảm giác hãi hùng. Ai cũng đọc được tin nói về cái cây nấm to bằng đầu người nhưng chưa có ai trông thấy bằng mắt mình. Vậy thì thay vì viết, bà nên chịu khó ghi nhận dữ kiện làm tài liệu. Nói cho tôi xem đã có chưa một quyển tiểu thuyết giả tưởng về Chernobyl? Làm sao mà có được! Bởi vì thực tại ở Chernobyl còn hơn cả sự tưởng tượng.

Tôi có hẳn một quyển sổ ghi chép. Trong đó tôi thuật lại đầy đủ những mẩu đối thoại, những tin đồn, những giai thoại. Rồi thời gian sẽ cho thấy những ghi chép này thú vị biết bao. Cũng như cổ Hy lạp, cái còn lại của nó là gì? Chính là những huyền thoại về nó được lưu truyền.

Cuốn sổ ghi chép của tôi có những đoạn như sau:

“Đã từ 3 tháng này, ngày nào đài cũng ra rả một luận điệu : Tình hình ở Chernobyl đang ổn định, tình hình ở Chernobyl đang ổn định, tình hình đang ổn . . .”

“Những từ ngữ cũ thời Stalin lại được sống dậy : bọn mật thám phương Tây, những kẻ thù truyền kiếp của chủ nghĩa xã hội, những nỗ lực phá hoại tinh thần đoàn kết không thể bị phá hủy của nhân dân Xô Viết . . . Người ta mở miệng là nói về những tên tay sai, bọn khiêu khích phương Tây được phái đến đây nhưng chẳng ai nói một lời về sự cần thiết phải có chất i ốt để tránh bị nhiễm trùng. Bất cứ mọi thông tin ngoài luồng đều bị coi là tuyên truyền của ngoại bang.”.

“Hôm qua, tay tổng biên tập kiểm duyệt bài báo của tôi, anh ta cắt phăng đi đoạn tôi viết về bà mẹ của một trong những người lính cứu hỏa có mặt đầu tiên ở trạm hạt nhân trong đêm trạm phát nổ. Người lính cứu hỏa chết vì nhiễm độc phóng xạ quá nặng. Sau khi an táng con trai mình ở Moscow, bà cùng với chồng quay trở về làng, nhưng rồi cũng phải di tản sau đó không lâu. Vào mùa thu năm đó, họ lẻn về nhà bằng con đường xuyên qua rừng để thu hoạch dưa leo và khoai tây trong vườn nhà. Bà mẹ rất hài lòng : “Chúng tôi chứa đầy gần 20 thùng thức ăn”. Đó là niềm tin của họ đặt vào mảnh đất, bằng bản năng dạn dầy kinh nghiệm của người nông dân, bất kể cái chết của con mình cũng không làm họ suy xuyển niềm tin đó.”.

“Tay tổng biên tập tờ báo hỏi tôi : “Anh nghe lén đài Tiếng nói Âu châu tự do phải không? Tôi không cần những kẻ gieo hoang mang sợ hãi cho mọi người làm việc ở đây. Anh viết ngay cho tôi một bài báo về những anh hùng xem nào.”.

“Nhưng mà cái ý niệm cũ về kẻ thù đã bị tiêu diệt rồi mà? Kẻ thù chúng ta thì vô hình. Chúng hiện diện ở khắp mọi nơi. Cái ác bây giờ giả danh dưới một hình thức khác.”.

“Mấy ông giảng viên ở trong Ủy Ban Trung Ương Đảng đến. Ngày nào họ cũng chỉ quanh quẩn từ khách sạn đến trụ sở Đảng ủy bằng xe hơi rồi về. Họ tìm hiểu tình hình bằng cách đọc qua trang nhất các tờ báo địa phương. Họ mang theo hàng thùng thực phẩm từ Minsk đến, pha trà bằng nước khoáng đóng chai cũng do họ mang theo. Người nữ lao công ở khách sạn cho tôi biết như vậy. Người dân không bao giờ tin vào báo chí, truyền hình hoặc truyền thanh – Họ nhìn vào cung cách những quan chức lớn để tự rút ra những điều họ cần biết, vì đó mới là tin tức trung thực.”.

“Ở trong Khu Cấm, ai cũng tin vào điều bịa đặt lếu láo là rượu Vodka chế tạo ở Stolichnaya có khả năng bảo vệ hữu hiệu chống lại sự nhiễm xạ.”.

“Tôi phải lo cho con tôi thế nào đây? Tôi chỉ muốn dấu nó trong áo rồi tìm cách thoát khỏi nơi đây thôi. Nhưng ngặt nỗi tôi là một đảng viên. Tôi không thể làm thế được.”.

“Các cửa tiệm bỗng nhiên chất đầy những hàng hóa vốn khan hiếm. Tôi nghe ông bí thư khu ủy đảng đọc diễn văn : “Chúng tôi sẽ tạo ra thiên đàng dưới đất cho tất cả mọi người. Xin bà con ở lại và tiếp tục làm việc. Nhà nào cũng sẽ có thừa mứa xúc xích và kiều mạch. Hễ ở những cửa hàng đặc sản cao cấp có thứ gì thì bà con sẽ có những thứ ấy.”. Ông ta ám chỉ khẩu phần của gia đình ông ta. Giới quan chức cho rằng người dân chỉ cần có đủ Vodka và xúc xích là họ sẽ ngoan ngoãn phục tùng. Quỷ tha ma bắt lũ quan chức ấy đi! Tôi chưa bao giờ thấy cửa hàng thực phẩm nào có đủ các lọai xúc xích cả. Tôi đi vào rồi đi ra, chỉ mua được mấy cái vớ chân hàng ngoại cho vợ tôi.”.

“Có tháng người ta dễ dàng tìm mua mấy cái máy đo độ nhiễm xạ, nhưng cũng có khi không thấy một cái nào trên kệ hàng. Đây là điều cấm kỵ không báo nào dám đề cập tới. Càng không được viết về mức độ nhiễm xạ thực sự hiện đang xẩy ra, về những ngôi làng chỉ còn đàn ông, còn đàn bà và trẻ nít thì đã di tản đi chỗ khác. Trong suốt mùa hè chỉ có đám đàn ông làm các công việc giặt dũ, vắt sữa, cầy bừa. Và uống rượu, tất nhiên là phải thế rồi. Và đánh nhau. Một thế giới không có bóng đàn bà. Những điều đó đều bị kiểm duyệt, cắt hết, không cho in trên báo. Tay tổng biên tập nói như đe dọa : “Đừng quên rằng chúng ta có rất nhiều kẻ thù sống ở bên kia đại dương. Đó là lý do tại sao chúng ta chỉ nên viết về những điều tốt, tuyệt đối không nêu lên một điều gì xấu cả.”. Nhưng ở ngoài kia có một bữa tiệc thịnh soạn đang được chuẩn bị, và có kẻ thấy những quan chức tai to mặt lớn xách va li bước vào . . .”.

“Một bà cụ già chặn tôi lại gần trạm công an : “Cháu ơi, cháu giúp bà với! Đã đến mùa thu hoạch khoai tây rồi mà mấy ông lính này không cho bà về nhà .”. Người dân lẻn về nhà mình giống như thời chiến tranh làng bị bao vây. Họ băng qua tuyết, qua rừng, qua truông, vào ban đêm. Bị công an đi xe hơi, đi trực thăng rượt đuổi, bắt giữ. Mấy người già cảm thán “giống y như hồi bọn Đức còn chiếm đóng.”.

“Bắt gặp tên cướp cạn đầu tiên. Đó là một thanh niên còn rất trẻ mặc trên người hai cái áo choàng lông. Anh ta khai với cảnh sát đi tuần là mặc như vậy để chống bị nhiễm xạ. Bị tra khảo quá, cuối cùng anh ta thú nhận : “Đi hôi của lần đầu cũng có chút sợ hãi, nhưng những lần sau quen rồi cũng dạn dĩ hơn. Cứ quơ đại rồi chạy.”. Bản năng sinh tồn của con người là một chuyện, nhưng có những trường hợp không thể lấy cái tiêu chuẩn bình thường để đo lường được. Điều ấy có thể giải thích cho những hành động phi thường mà một người có thể thực hiện. Bao gồm cả những kẻ dám phạm vào một tội ác tầy trời.”.

“Một năm sau đó, tôi có trở lại ngôi làng cũ. Bầy chó đã hóa dại cả. Tôi tìm ra con chó Rex năm xưa, gọi nó, nhưng nó không chạy đến. Nó không còn nhận ra tôi nữa? hay không muốn nhận chủ? Nó có vẻ giận dữ nhìn chúng tôi.”.

“Thời gian vài tuần vài tháng đầu, mọi người ai cũng lặng lẽ. Một sự im lặng kéo dài. Tâm trạng mệt mỏi đầu hàng. Hẳn là phải bỏ đi thôi, nhưng đến ngày cuối cùng lại nghĩ, Không, đầu óc đã mất khả năng cầm nắm sự việc, khả năng phân tích điều gì đang xẩy ra. Tôi không hề nhớ được những vấn đề nghiêm túc, nhưng lại nhớ rõ mồn một những câu đùa cợt. “Bây giờ thì cửa hàng nào cũng có bán những sản phẩm kích hoạt phóng xạ.” “Chứng liệt dương được chia ra làm hai loại : Phóng xạ tích cực và phóng xạ tiêu cực.”. Bỗng nhiên, những câu đùa cợt ấy biến mất không để lại chút dư âm nào.

Tình cờ nghe được trong bệnh viện:

Thằng bé chết rồi. Hôm qua nó còn cho tôi mấy cục kẹo.”

Xếp hàng mua thực phẩm ở chợ.

“Chà, năm nay được mùa nấm đấy!”.

“ Chúng bị nhiễm độc cả rồi.”

“Ô kìa ! Có ai bắt mình phải ăn đâu chứ. Cứ mua đi, đem về phơi khô rồi đem ra chợ ở thủ đô Minsk mà bán. Thành triệu phú chứ chẳng chơi!”.

“Họ chọn đúng chỗ của mình để làm nhà thờ cho thiên đàng. Mấy vị linh mục quả là có tầm nhìn xa. Các thứ lễ nghi bí mật đã được cử hành trước khi xây nhà thờ. Nhưng mà họ xây cái nhà máy phản ứng hạt nhân giống như là một xưởng thợ. Như một cái chuồng heo bẩn thỉu. Họ đổ xi măng lên mái nhà. Thế nên nó mới chảy ra .”

“Này, có đọc cái này chưa? Người ta bắt được một anh lính đào ngũ ngay tại nhà máy Chernobyl đấy! Anh ta đào một cái hầm rồi xuống đó trú ẩn. Thức ăn thì anh ta đi tìm ở những căn nhà bỏ hoang, có khi được miếng mỡ lợn, khi được hũ dưa chua. Hoặc đặt bẫy thú rừng. Anh ta đào ngũ vì nhìn thấy mấy người lính già đánh đập đám lính trẻ cho đến chết. Anh ta tự cứu mình. Ngay tại Chernobyl.”.

“Lũ chó nửa sói nửa nhà đã bắt đầu xuất hiện đây đó, kết quả của việc trước đây lũ chó nhà bỏ chạy vào rừng. Chúng thậm chí lớn hơn cả chó sói, không đếm xỉa gì đến thủ hiệu của người, không biết sợ ánh sáng hay người là gì, cũng không nghe theo lệnh của đám thợ săn. Còn lũ mèo hoang cũng đã tụ tập thành bầy tấn công con người. Rõ ràng là chúng muốn trả thù con người. Chúng không còn nhớ gì đến thân phận cũ của mình là dưới con người một bậc và phải phục tùng con người. Còn với con người chúng tôi thì cũng đã biến mất hẳn lằn ranh giữa cái thật và cái không thật.”.

“Một ngày nào đó người ta sẽ tìm thấy dấu vết của cuộc chôn vùi một cách khác thường những sinh vật chết. Giới khoa học gọi nghĩa địa chó mèo là nghĩa địa sinh học. Nơi đó nằm yên nghỉ hàng ngàn những con chó, mèo, ngựa bị bắn chết. Nhưng chắc chắn là chúng không có tên.”.

“Hôm qua là sinh nhật thứ 80 của cha tôi. Cả nhà ngồi quây quần chung quanh ông. Nhìn ông, tôi nghĩ đến những biến cố lịch sử đời ông đã từng chứng kiến : Trại tù Gulag, Trại tập trung Auschwitz, rồi Chernobyl. Ngần ấy biến cố xẩy ra chỉ trong một thế hệ. Cha tôi vốn thích nhìn ngắm phụ nữ. Khi ông còn trẻ, mẹ tôi thường hay rất bực mình, bà kể “Không có một người đàn bà nào trong toàn bộ khu hành chính này mà lão ta không để mắt tới”. Ngay đến bây giờ tôi vẫn còn thấy ánh mắt ông mỗi khi nhìn thấy phụ nữ trẻ đẹp đi ngang qua lại hạ xuống ngang tầm thắt lưng của họ .”.

“Khu Cấm là một thế giới hoàn toàn riêng biệt. Một thế giới hoàn toàn khác nằm giữa phần còn lại của thế giới. Thứ thế giới thuộc về trí tưởng tượng của anh em nhà Strugatsky*, nhưng văn chương đã phải bước lui khi đối diện với khuôn mặt của thực tại”.

Từ những tin đồn:

Ở phía sau nhà máy nguyên tử Chernobyl, người ta dựng lên những lán trại để cô lập những người đã bị nhiễm một lượng lớn chất phóng xạ. Những người này ở đây để được theo dõi , nghiên cứu đặc biệt cho đến khi chết sẽ được đem chôn một nơi riêng biệt.

Xác người chết ở trong những ngôi làng chung quanh đó thì được chở bằng xe bus thẳng từ làng ra đến khu chôn cất, nơi đây đã có những hố lớn chôn tập thể hàng ngàn người một lúc. Giống như cách người ta chôn xác chết thời thành phố Leningrad bị phong tỏa.

Có vài người được cho là đã nhìn thấy một luồng sáng kỳ lạ phát ra từ trạm hạt nhân trong đêm mà nó phát nổ. Có người còn chụp được cả ảnh luồng sáng ấy nữa. Khi xem lại thì hóa ra đó là khói bốc ra từ một vật thể lạ ngoài hành tinh.

Ở Minsk, người ta cho rửa sạch sẽ các toa tàu hỏa và làm công việc kiểm kê dân số. Chính quyền sẽ chuyển toàn bộ dân đến Siberia. Nơi đây, người ta đã cho sửa sang lại các lán trại từ thời Stalin dùng làm trại giam tù cải tạo. Đàn bà và trẻ con sẽ đi trước. Người dân Ukraine không còn quê nhà nữa.

Vụ nổ Chernobyl không phải là một tai nạn, mà là một trận động đất. Lòng đất đã bị một sự cố gì đó xẩy ra, tạo nên một địa chấn cực mạnh.Các sức mạnh siêu nhiên đã tích cực nhập cuộc. Giới quân sự biết trước điều đó sẽ xẩy ra, nhưng họ không cảnh giác cho người dân biết, vì đó là những bí mật quân sự cần được tuyệt đối giữ kín.

Ở hồ, ở sông, đã thấy trôi lềnh bềnh những con cá khổng lồ mất đầu mất đuôi chỉ còn thân cá nổi lên.

Một biến cố tương tự như Chernobyl sẽ sớm xẩy ra cho loài người. Còn người Belarus sẽ biến thành một loài dã nhân.

Các loại thú rừng đã mắc bệnh vì nhiễm phóng xạ. Chúng buồn rầu đi lang thang vất vưởng, đôi mắt chúng lộ vẻ mệt mỏi. Những người thợ săn, phần vì sợ, phần vì quá tội nghiệp chúng nên không nỡ bắn. Thế nên, loài thú không còn sợ hãi người như trước nữa. Chồn cáo còn vào làng chơi đùa với trẻ con.

Những người Chernobyl sinh ra con cái nhưng trong cơ thể chúng không có máu, thay vào đó là một chất lỏng màu vàng không ai biết gọi là gì. Còn các nhà khoa học thì khẳng định rằng lũ khỉ đã trở nên thông minh hơn nhờ sống gần chất phóng xạ. Trong 3 hay 4 thế hệ nữa tất cả trẻ con sinh ra ở đây đều trở thành những nhà bác học cỡ Einsteins. Cái gọi là vụ nổ Chernobyl thực ra chính là một thực nghiệm vũ trụ đang được tiến hành. . .

Anatoly Shimanskiy, Nhà Báo

Chú Thích:

*Half-life: Số lượng thời gian cần thiết để hạt xạ tự phân hủy một nửa giá trị ban đầu của nó,

**Ám chỉ hai anh em Arkady Strugatsky và Boris Strugatsky, tác giả những tác phẩm khoa học giả tưởng nổi tiếng ở Nga những năm 1960s.

Độc Thoại

_____________________________

về dối trá và chân thực

Hàng chục quyển sách đã viết về Chernobyl. Những quyển sách dầy cộm với đầy đủ những lời bình. Nhưng biến cố đã vượt lên trên mọi mô tả mang tính triết học về nó. Có ai nói với tôi, hoặc có thể là chính tôi đã đọc đâu đó, rằng vấn đề đầu tiên mà Chernobyl phải đối đầu là không ai biết cái gì đã xẩy ra cho Chernobyl để hiểu tường tận những rắc rối mà nó đang gặp phải. Xem ra nhận xét này cũng có phần đúng. Tôi đang mong có ai đó đủ thông minh hiểu biết để giải thích cho tôi. Như cái cách người ta soi sáng đầu óc ngu muội của tôi về Stalin, Lenin, về Bôn Sê Vích. Hoặc như cái cách người ta tận tâm tận lực hô hào “Thị trường! Thị Trường! Thị trường tự do!”. Nhưng, chúng tôi, những người lớn lên chưa từng biết Chernobyl là gì, nay bị buộc phải sống với Chernobyl.

Tôi vốn là một chuyên gia về tên lửa, về nhiên liệu dùng cho tên lửa. Tôi đã từng làm việc ở Baikonur (một trung tâm phóng tên lửa ). Những chương trình không gian có tên như Vũ Trụ, Liên Vũ Trụ, những thứ đó hầu như đã là những phần không thể tách rời ra với cuộc đời của tôi. Đó khoảng thời gian thật kỳ diệu mà tôi đã sống qua. Tôi đã góp phần đem không gian, đem Bắc Cực, đem cả vũ trụ đến gần với mọi người. Ở liên bang Xô Viết, ai cũng có thể bay vào không gian với Yuri Gagarin, và cùng với Yuri bỏ mặc mặt đất lại phía sau. Và chúng tôi đã làm thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi vẫn còn cảm thấy tình cảm vô bờ mình dành cho Yuri Gagarin, một người Nga tuyệt vời, có nụ cười tuyệt vời không kém. Kể cả cái chết của ông cũng hình như đã được sắp xếp đâu ra đó.

Tôi đã sống qua những quãng ngày thật kỳ diệu! Vì lý do gia đình, tôi xin chuyển đến Belarus và kết thúc sự nghiệp của mình ở đây. Lúc mới dọn đến, tôi đã biết mình phải cố hết sức hòa nhập vào khoảng không gian đặc thù Chernobyl để tự điều chỉnh cách nhìn nhận sự việc của mình. Trước đó, tưởng tượng ra những gì xẩy ra ở đây là một điều bất khả với bất cứ ai, dù rằng tôi đã có một quá trình trải nghiệm trong các lãnh vực kỹ thuật cao cấp và ngoài không gian. Chỉ gỉai thích thôi cũng đã là một việc không dễ dàng – vì thực tế vượt quá mọi khả năng tưởng tượng của con người. Nó là . . . {Anh ta đang suy nghĩ}. Bà biết không, mới một giây trước đó tôi nghĩ mình đã hiểu được nó, một giây trước đó, cái mà tôi tự cho là hiểu ấy nó buộc tôi phải tìm cách lý giải nó. Khi nói về Chernobyl, ai cũng tìm cách lý giải sự việc. Riêng tôi, tôi chỉ muốn kể cho bà nghe về những gì chúng tôi đang làm ở đây. Không có việc gì mà chúng tôi không làm. Chúng tôi xây một ngôi nhà thờ - một nhà thờ đặc thù Chernobyl. Và để vinh danh Mẹ Thiên Chúa, chúng tôi xem ngôi nhà thờ ấy như một biểu tượng của “sự trừng phạt”, của sự phán xử cuối cùng. Chúng tôi kêu gọi dâng hiến tiền của, đi thăm người ốm, người sắp qua đời. Chúng tôi ghi chép lại những sự kiện, dựng lên một nhà bảo tàng. Trước đây, có lúc tôi nghĩ rằng, mình không thể nào toàn tâm toàn lực làm được một công việc như vậy. Mới đầu thì tôi bảo mọi người : “Tiền đây, hãy phân chia cho 35 gia đình, có nghĩa là 35 quả phụ”. Cánh đàn ông đều đã ra đi làm công việc của Thanh Lý Viên. Vậy phải làm sao cho công bằng. Nhưng bằng cách nào? Một bà có đứa con gái nhỏ bị ốm, bà kia lại có hai đứa con nhỏ, bà thứ ba đang bị ốm, có tới 4 đứa con và đang đi ở nhà mướn. Cả đêm tôi thao thức suy nghĩ làm sao để không ai bị thiệt thòi. Cứ thế tính tới, tính lui, tính đi, tính lại. Tôi đành chịu thua. Cuối cùng, chúng tôi đem số tiền chia đều cho mọi người có tên trong danh sách.

Công trình tôi quan tâm nhất là nhà bảo tàng : Nhà bảo tàng Chernobyl. {Anh ta im lặng}.Có lúc tôi nghĩ cái nhà bảo tàng mà mình đang cố thực hiện sẽ biến thành một nhà quàn cho tang lễ. Tôi cũng là một thành viên trong ủy ban tang lễ. Sáng nay, tôi vừa đến nơi chưa kịp cởi áo khoác thì có một phụ nữ chạy vào, khóc lóc. Cũng không thực sự là khóc, mà là la hét: “Hãy lấy lại hết huy chương, tưởng lục, quyền lợi của chồng tôi, nhưng phải trả lại anh ấy cho tôi!”. Bà ta kêu khóc ầm ĩ như thế một lúc lâu, rồi bỏ đi, để lại huy chương, bằng tưởng lục của chồng bà. Rồi đây, những tấm huy chương, bằng tưởng lục này sẽ được đem ra trưng bày trong nhà bảo tàng. Mọi người sẽ có dịp chiêm ngưỡng chúng. Nhưng tiếng kêu khóc của người vợ, sẽ chẳng có ai nghe được ngoài chính tôi. Tôi sẽ không thể quên được tiếng khóc ấy mỗi khi đem các di vật người chết ra trưng bày.

Đại tá Yaroshuk hiện đang hấp hối. Ông là chuyên gia đo lường mức nhiễm xạ. Vốn có sức vóc to khỏe như con bò mộng, nay ông nằm đó tê liệt cả tay chân. Vợ ông lật người ông như lật một chiếc gối, đút cho ông ăn bằng một chiếc muỗng. Ông bị sạn thận, cần phải tìm cách thải chúng ra ngoài, nhưng ở đây chúng tôi không có tiền để thực hiện cuộc giải phẫu như vậy. Chúng tôi đều là những kẻ cùng khổ, sống còn được là nhờ lòng hảo tâm của mọi người. Còn chính quyền thì hành xử như kẻ cho vay lấy lãi, họ bỏ quên những con người khốn khổ này rồi. Khi ông đại tá chết, người ta sẽ lấy tên ông đặt cho một con đường, một trường học, hoặc một đơn vị quân sự, nhưng chỉ sau khi ông đã chết rồi. Đại tá Yaroshuk. Ông có mặt khắp nơi trong Khu Cấm đế đánh dấu những vùng có độ nhiễm xạ cao nhất. Ông đã bị khai thác đến tận cùng ý nghĩa của sự khai thác, như thể ông chỉ là một dạng máy Robot. Ông biết thế, nhưng vẫn tận tụy với công việc, vẫn ngày ngày đi bộ từ lò phản ứng đánh một vòng chu vi chung quanh vùng ảnh hưởng với cái máy đo độ nhiễm xạ trên tay. Bắt gặp một “điểm nóng” nào, ông bèn cẩn thận xem xét hết chung quanh để có thể ghi lại một cách chính xác trên bản đồ.

Còn về những người lính được lệnh dọn dẹp trên nóc lò phản ứng thì như thế nào? Tổng cộng 210 đơn vị quân đội được điều động đến để làm công việc thanh lý những hậu quả của thảm họa hạt nhân Chernobyl với con số nhân lực là 340,000. Trong số đó, những người ở trên nóc lò phản ứng hứng chịu nhiều nguy hiểm nhất. Tuy họ được cấp phát áo chì mặc bảo hộ, nhưng do chất phóng xạ tỏa từ dưới lên trên, lại chỉ mang những đôi ủng giả da rẻ tiền, nên hầu như họ không được bảo vệ gì cả. Mỗi ngày, họ làm việc trên nóc lò, vào khoảng từ một phút rưỡi đến 2 phút. Hết thời hạn trưng dụng, họ được cho về với một tấm bằng tưởng lục và 100 rúp, rồi biến mất tăm đâu đó trên đất nước rộng mênh mông. Công việc trên nóc lò đơn giản, họ chỉ phải gom lại những mảnh than chì, xi măng, sắt bị vỡ từng mảnh. Khoảng thời gian cần thiết để đổ đầy những mảnh vụn ấy vào chiếc xe cút kít chiếm khoảng từ 20 giây cho đến 30 giây và cũng bằng ấy thời gian sẽ dùng để đổ chiếc xe đầy mảnh vụn ấy xuống dưới đất. Bà có thể hình dung ra được hoạt cảnh của đám thanh lý viên trên nóc lò rồi chứ : Chiếc áo bằng chì mặc bảo hộ, mặt nạ, chiếc xe cút kít và tốc độ làm việc điên rồ .

Trong viện bảo tàng ở Kiev, người ta trưng bày một hình mẫu mảnh than chì bằng cỡ chiếc mũ của người lính mà nếu đó là than chì thật thì trọng lượng của nó phải là 16 kí lô gram. Sức nặng như vậy chứng tỏ than chì có độ ép dầy như thế nào. Máy móc điều khiển bằng sóng vô tuyến thường bị tê liệt hoặc đôi khi làm ngược lại ý người điều khiển vì những nhiễu loạn gây ra bởi nồng độ xạ cao. Do đó, những “người máy” đáng tin cậy nhất chính là những con người làm việc trên đó. Họ được đặt cho biệt danh “Rô Bô Xanh” vì màu đồng phục xanh họ mặc trên người. Ba ngàn sáu trăm người lính thay phiên nhau làm việc trên nóc lò phản ứng bị phát nổ.

Những người lính ấy còn rất trẻ. Giờ thì họ đang chết dần mòn. Họ hiểu rằng nếu không có họ làm những công việc hy sinh như vậy . . . Về bản chất, những người lính trẻ này thuộc về một nền văn hóa hướng tới những thành tựu vĩ đại, vì thế họ không quản ngại hy sinh. Sau khi lò phản ứng phát nổ, đã tiềm tàng một nguy cơ khác có thể dẫn đến một hiểm họa thậm chí lớn hơn. Đó là lượng nước đọng lại dưới lò phản ứng, nếu trộn lẫn với than chì và chất uranium thải ra từ lò phản ứng sẽ gây nên một vụ nổ khác, lớn hơn, nguy hiểm hơn vì chứa đầy chất phóng xạ nguyên tử, với quy mô có thể từ 3 cho đến 5 megaton. Với sức nổ lớn như vậy, không chỉ toàn bộ vùng Kiev và Minsk, mà cả một phần lớn diện tích châu Âu sẽ trở thành vùng đất chết, con người không thể ở được. Bà tưởng tượng ra được rồi chứ? một thảm họa cho toàn thể châu Âu. Vậy để cứu vãn, không cho thảm họa ấy xẩy ra, người ta phải khẩn cấp hoạch định công việc : Phải có người lặn xuống nước mở khóa van an toàn! Ai tình nguyện làm việc này sẽ được thưởng một chiếc xe, một căn hộ chung cư, một nhà nghỉ ở thôn quê và gia đình sẽ hưởng trợ cấp vô hạn định. Lời kêu gọi tình nguyện có sự đáp trả ngay lập tức. Cũng những người lính trẻ ấy. Họ lặn xuống không chỉ một lần, mà nhiều lần. Họ mở được cái chốt van an toàn. Cả đơn vị được thưởng 7 ngàn rúp. Còn xe và căn hộ ở chung cư thì lời hứa ban đầu đã nhanh chòng bị quên lãng. Nhưng đâu có phải vì những thứ đó mà những người lính trẻ sẵn sàng hi sinh thân mình. Chẳng phải vì những thứ phần thưởng vật chất, huống hồ gì chỉ là những lời hứa suông.{Tỏ vẻ bực tức}. Những người trẻ ấy không còn tồn tại trên mặt đất này nữa. Có còn chăng chỉ là những gì được ghi lại trên giấy, và tên tuổi của họ, để lưu trữ trong viện bảo tàng. Nếu không có những sự hy sinh ấy của họ thì những gì sẽ xẩy ra hẳn sẽ không có một sự so sánh tương đối cân bằng.

Có người bảo tôi, sở dĩ có sự hy sinh ấy là vì chúng ta không đánh giá cao mạng sống con người. Rằng đó là biểu hiện của quan niệm theo thuyết số mệnh của phương Đông. Một người sẵn sàng hy sinh chính bản thân mình không hề cho mình là một cá nhân độc nhất. Anh ta bị thôi thúc bởi một mong ước khẳng định mình trong cuộc sống. Trước đó, anh ta là một con người bình thường, không bản sắc, chìm khuất ở phía sau. Bỗng nhiên, anh ta trở thành nhân vật chính, thu hút sự chú ý, với sự khao khát tìm ra ý nghĩa cho đời sống. Hệ thống tuyên truyền của chúng ta bao gồm những gì? ý thức hệ chăng ? Mình được cho có cơ hội chết ngõ hầu tìm ra ý nghĩa cuộc sống và được vinh danh. Người ta sẽ cho mình một chỗ đứng, một vị trí, một vai trò. Đó chính là sự đánh giá cao cái chết, vì chết là sự vĩnh cửu vô cùng. Anh ta biện luận với tôi bằng cách chứng tỏ những điều như thế đấy.

Nhưng tôi phản bác lập luận này, Một cách dứt khoát! Đúng vậy, chúng ta được giáo dục để trở thành những người lính. Chúng ta lớn lên với ý tưởng đó. Chúng ta lúc nào cũng sẵn sàng để lên đường, sẵn sàng thực hiện những nhiệm vụ khó khăn không thể thực hiện. Khi tốt nghiệp trung học, tôi ngỏ ý muốn được theo học ở một trường đại học dân sự, cha tôi bất bình : “Bố là một người lính chuyên nghiệp, còn con thì lại thích được tự do bay nhảy trong bộ đồ dân sự? Đất mẹ cần phải được bảo vệ, con hiểu chưa?”. Sau lần đó, cha tôi không buồn nhìn mặt tôi trong nhiều tháng, cho đến khi tôi nộp đơn thi vào một trường đại học quân sự. Cha tôi từng nhiều lần tham gia chiến trận. Bây giờ thì ông đã qua đời. Thực tế cha tôi không có nhiều của cải vật chất, giống như đa phần những người cùng thế hệ. Chết đi, cha tôi chẳng để lại gì : không nhà cửa, xe cộ, đất đai. Vật thừa hưởng duy nhất dành cho tôi là cái túi nhà binh đặc biệt dành cho sĩ quan trực tiếp chiến đấu trên chiến địa cha tôi nhận được sau khi hoàn thành một chiến dịch ở Phần Lan, trong đó có đựng các huy chương của ông. Ngoài ra, mẹ tôi còn giữ được một túi đầy, đựng 300 bức thư cha tôi viết ngoài mặt trận, khởi đầu từ năm 1941. Đó là tất cả những gì cha tôi để lại khi qua đời. Với tôi, đó là những thứ thật vô giá.

Bây giờ thì chắc bà hiểu được cái nhà bảo tàng này có giá trị lớn như thế nào đối với tôi rồi chứ ? Trong cái hũ nhỏ đó có chứa một nắm đất lấy ở Chernobyl. Kìa là cái mũ bảo hộ của người thợ mỏ. Cũng lấy từ đó. Cả một số dụng cụ của người nông dân ở trong Khu Cấm. Chúng tôi không thể trưng bày những cái dụng cụ đo độ phóng xạ được. Cả phòng sẽ “rực sáng” lên mất thôi. Ngoài ra, tất cả những gì bà thấy ở đây đều là thật. Không một chút giả tạo màu mè diễn kịch. Chúng tôi cần được mọi người tin tưởng. Và người ta chỉ tin những gì là thật, bởi vì đã có quá nhiều những điều giả dối xẩy ra chung quanh Chernobyl rồi. Đã từng có, và vẫn còn có rất nhiều những sự giả dối. Người ta còn lợi dụng Chernobyl làm chiêu bài gây quỹ, hoặc quảng cáo cho các dịch vụ thương mại . . .

Để có thể viết về Chernobyl một cách trung thực, bà cần xem một số băng hình ghi lại những cảnh chỉ có ở Chernobyl. Chúng tôi tom góp chúng mỗi ngày một chút. Đây không phải là cuốn biên niên sử Chernobyl bằng hình, vì họ không bao giờ cho phép ai làm việc đó, hoàn toàn cấm ngặt. Nếu họ bắt gặp bất cứ ai làm việc này, lập tức băng hình sẽ bị tịch thu và thiêu hủy. Cho nên, không có những hình ảnh dân làng di tản, hình ảnh gia súc bị lùa đi. Chính quyền không cho quay những cảnh phim bất lợi cho họ, chỉ có những gì được cho là có lợi mới được phép ghi lại mà thôi. Cũng có một vài tập hình ảnh về Chernobyl hiện nay được cho lưu truyền, những lẽ ra còn nhiều hơn thế nữa nếu không có sự kiện rất nhiều máy quay phim, máy chụp hình bị đập vỡ. Đám quan lại cửa quyền ấy hành hạ dân chúng không ít. Phải có thật nhiều can đảm người ta mởi dám nói hết sự thực về Chernobyl. Tình hình tồi tệ ấy đến nay vẫn còn. Hãy tin tôi đi, bà phải xem những băng hình này để nhìn thấy bằng mắt bà khuôn mặt đen xạm của những người lính cứu hỏa, đen như than chì. Để nhìn thấy đôi mắt họ, đôi mắt của những kẻ biết rằng mình sắp vĩnh viễn xa rời trần thế. Có một cảnh chiếu đôi chân của một người phụ nữ vào buổi sáng hôm sau khi vụ nổ xẩy ra bước đi trên cánh đồng để đến thửa đất của mình nằm sát ngay bên khu vực lò phản ứng. Cỏ dưới chân bà ướt đẫm sương đêm. Đôi chân người phụ nữ ấy gợi cho bà nghĩ ngay đến hình ảnh chiếc vỉ lò, với những lỗ nhỏ phủ đầy đôi chân lên tới tận đầu gối. Nếu bà muốn viết sách về Chernobyl, bà phải xem cảnh phim này.

Về nhà, tôi không thể ôm ấp đứa con trai nhỏ trước khi uống cạn 50 hoặc 100 grams rượu Vodka.

Trong nhà bảo tàng, chúng tôi dành hẳn riêng một khu cho những phi công lái trực thăng. Kia là đại tá Vodolazhsky, một anh hùng của nước Nga, xác ông được chôn trong ngôi làng Zhukov Lug, một phần đất của Belarus. Khi cơ thể bị nhiễm xạ ở mức độ tối đa cho phép, lẽ ra ông có quyền được miễn nhiệm và về nhà, nhưng ông đã tình nguyện ở lại để huấn luyện thêm 33 phi công trực thăng mới đến. Bản thân ông đã thực hiện 120 chuyến bay và vận chuyển 230 tấn hàng. Trung bình mỗi ngày ông đảm nhiệm từ 4 đến 5 chuyến bay, ở độ cao 30 mét phía trên lò phản ứng và nhiệt độ trong buồng máy có lúc nóng tới 60 độ Celsius. Thử tưởng tượng những gì diễn ra dưới đất khi từ trên không tới tấp rơi xuống những bao đựng cát. Hoạt động đó kích thích độ phóng xạ dầy khoảng 1800 đơn vị bức xạ một giờ. Dù ở trên không, các phi công vẫn có thể cảm được sức lan tỏa của phóng xạ. Để thả những bao cát xuống đúng mục tiêu, là những cái hố lửa còn cháy âm ỉ, phi công phải đưa mặt ra khỏi cửa máy bay dùng mắt trần để ước tính khoảng cách từ trên xuống. Không thể có cách nào khác. Tại các cuộc họp của giới chức thẩm quyền, mỗi ngày họ đều phán quyết một cách đơn giản : “Chúng ta cần phải hy sinh 3 mạng người cho việc này. Còn việc kia thì cần 1 mạng người.”. Thật đơn giản như thế. Và mỗi ngày.

Đại tá Vodolazhsky đã chết. Trên tấm thẻ y tế xác định lượng nhiễm xạ của ông, các bác sĩ ghi là 7 becs. Thực tế thì độ nhiễm xạ của cơ thể ông là 600 becs.

Còn có 400 thợ mỏ làm việc ở đường hầm ngay phía dưới lò phản ứng. Người ta cần một đường hầm để có thể đổ chất nitrogen lỏng vào đó với mục đích làm đóng băng cái gối bằng đất của lò, cái tên mà các viên kỹ sư gọi lớp đất nền dưới lò. Nếu không làm thế, lò phản ứng sẽ bị mạch nước ngầm dưới đất ngấm vào. Thợ mỏ được huy động khắp nơi từ Moscow, Kiev, Dniepropetrovsk. Không biết có ai còn nhắc đến họ không, nhưng ở đây giữa cái nóng 55 độ Celsius, những người thợ mỏ trần truồng nhoài mình đẩy xe. Hàng trăm đơn vị bức xạ bay lượn chung quanh. Giờ thì những người thợ mỏ ấy cũng đang chết dần dần. Nếu không có những sự hy sinh này thì điều gì sẽ xẩy ra? Tôi xem họ như những anh hùng, chứ không phải nạn nhân, của cuộc chiến Chernobyl, điều mà lẽ ra không xẩy ra. Người ta gọi Chernobyl là một tai nạn, một thảm họa. Nhưng thực chất đó là một cuộc chiến tranh. Tượng đài Chernobyl trông giống như một tượng đài chiến tranh.

Có những điều chúng tôi không bao giờ nhắc đến, vì bản chất khép kín thừa hưởng từ nền văn hóa Slavic. Nhưng bà cần phải biết vì bà đang viết sách về Chernobyl. Những người làm việc ở lò phản ứng, hay chỉ gần đó thôi, đều mắc một chứng bệnh rất phổ biến, đó là chức năng sinh dục của họ không còn hoạt động như trước nữa. Điều này cũng xẩy ra cho những người làm việc trong ngành tên lửa. Nhưng không ai công khai nói đến điều này.Vì nói ra là một điều cấm kỵ. Tôi đã có lần đi theo một ký giả người Anh, anh ta đưa ra nhiều câu hỏi rất thú vị. Đặc biệt là về chủ đề này – anh ta quan tâm nhiều đến khía cạnh con người của sự việc. Anh ta muốn biết cuộc sống riêng của chúng tôi như thế nào khi về với gia đình, mọi sinh hoạt, quan hệ thân mật v.v.. Nhưng viên ký giả này không thể nào có được những câu trả lời trung thực. Anh ta nhờ tôi gọi các phi công trực thăng đến để anh ta có thể nói chuyện trực tiếp với họ trong một nhóm người toàn đàn ông. Họ có mặt đầy đủ. Có người đã giải ngũ khi mới chỉ 35 hoặc 40 tuổi. Một người trong số họ bị gẫy chân vì chất phóng xạ làm xương chân mềm đi, nhưng cũng được bạn bè dìu đến. Viên ký giả người Anh đặt ra câu hỏi : Cuộc sống của các anh giờ như thế nào với gia đình, với người vợ trẻ? Các phi công im lặng, không trả lời. Họ đến để nói về thành tích 5 chuyến bay mỗi ngày của họ, vậy mà anh chàng ký giả người Anh lại chỉ hỏi về vợ họ ở nhà? Chỉ hỏi vậy thôi sao? Buộc lòng, viên ký giả phải đặt riêng câu hỏi với từng người, nhưng cũng chỉ nhận được câu trả lời giống hệt nhau : Chúng tôi đều khỏe mạnh cả, chính phủ trân trọng công lao của chúng tôi, và trong gia đình chúng tôi thì lúc nào cũng tràn ngập tình yêu. Không một ai, không một người nào trả lời thực với viên ký giả. Khi tất cả ra về rồi, tôi có cảm tưởng viên ký giả người Anh thất vọng ghê lắm. Anh ta bảo tôi : “Giờ thì anh hiểu cái lý do mà không một ai tin các anh hết chưa? Các anh tự dối chính mình.”. Cuộc gặp xẩy ra ở một tiệm cà phê. Hai cô gái trẻ hầu bàn phục vụ chúng tôi. Anh ký giả hỏi hai cô gái : “Các cô có thể cho tôi hỏi vài câu được không?”. Thế là hai cô gái giải thích tường tận mọi điều. Viên ký giả hỏi : “Các cô có muốn lập gia đình không?” “Có chứ! nhưng không phải ở đây. Chúng tôi ai cũng muốn lấy chồng người không phải ở đây, để có thể sinh những đứa con khỏe mạnh.”. Được thể, viên ký giả tiến xa hơn : “Các cô có bạn trai không? Họ thế nào? Họ có làm các cô thỏa mãn không? Hẳn các cô hiểu ý tôi muốn nói gì phải không?”. Hai cô gái cười to. “Anh đã nhìn thấy họ rồi chứ gì, mấy anh chàng phi công ấy! Tướng tá cao lớn. Ngực đầy huy chương sáng chói. Họ rất đẹp mã để ngồi trên bàn chủ tọa các buổi họp nhưng không được như vậy khi ở trên giường.”. Viên ký giả người Anh chụp hình hai cô hầu bàn, rồi quay qua tôi anh ta lập lại cùng một câu : “Giờ thì anh hiểu cái lý do mà không một ai tin các anh hết chưa? Các anh tự dối chính mình.”.

Tôi đưa anh ta vào Khu Cấm. Bản thống kê nhiều người biết đưa ra con số 800 bãi chôn rác thải chung quanh nhà máy Chernobyl. Viên ký giả mong đợi được nhìn thấy những cấu trúc hi-tech an toàn, nhưng lại chỉ có những hố chôn bình thường. Ở đó, người ta vùi đầy những “cây màu da cam” chặt ra từ diện tích 150 héc-ta rừng bao quanh khu nhà máy {Những ngày sau khi vụ nổ xẩy ra, những cây thông và cây xanh quanh đó đổi màu thành đỏ, rồi sau đó là màu da cam}.Còn có những hố chứa hàng tấn sắt thép thải, ống nước, quần áo bảo hộ, bê tông vụn v.v.. Anh ta cho tôi xem một bức hình cắt ra từ một tờ tạp chí xuất bản ở Anh, chụp toàn cảnh khu vực từ trên cao. Trong hình, tôi nhìn thấy hàng ngàn những chiếc xe vận chuyển, máy móc, xe cứu hỏa và xe cứu thương. Nghĩa trang lớn nhất nằm ngay cạnh nhà máy. Tay ký giả muốn chụp lại bức ảnh đó, bây giờ sau 10 năm . Có người hứa trả anh ta nhiều tiền hơn nếu anh ta chụp lại được bức ảnh. Thế là chúng tôi đi hết chỗ này đến chỗ kia, gặp hết quan chức này tới quan chức khác, kẻ thì bảo không còn giữ bản đồ, kẻ thì bảo không được phép. Sau khi đi cùng khắp mọi nơi, cho đến khi bỗng nhiên tôi nhận ra một điều : Cái nghĩa trang khổng lồ ấy, trong thực tế, đã không còn nữa. Nó chỉ còn hiện hữu trên sổ sách kế toán mà thôi. Nó đã bị phá rỡ, lấy đi tất cả phụ kiện vật dụng, đem bán ngoài chợ để người ta mua về xây văn phòng hợp tác xã, xây nhà cửa. Mọi thứ đều bị đánh cắp, lấy đi hết. Viên ký giả người Anh không hiểu gì cả. Tôi nói cho anh ta nghe sự thực, anh ta vẫn không tin tôi. Thậm chí chính tôi, khi đọc những bài báo can đảm vạch ra những điều tệ hại ấy, tôi cũng không thể tin rằng đó chính là sự thật. Có lúc tôi tự nghĩ: “Nếu giả sử như đây chỉ là những lời bịa đặt thì sao?”. Nó đã trở thành điển hình để đánh dấu một bi kịch. Một cách chào hỏi, một thứ hình nộm bù nhìn!”. {Anh ta có vẻ trong trạng thái tuyệt vọng, rồi im lặng .}.

Tôi tha đủ thứ về nhà bảo tàng. Đôi khi tôi bảo chính mình : “Quên phứt đi thôi! Buông bỏ hết đi thôi !”. Ý tôi là mình lấy tư cách gì để lấy những thứ này.

Tôi có dịp trò chuyện với một vị tu sĩ trẻ. Chúng tôi đứng trước ngôi mộ của viên Trung sĩ Nhất Sasha Goncharov. Anh này đã từng làm việc trên nóc lò phản ứng. Hôm ấy trời đổ tuyết và gió thổi mạnh. Một thứ thời tiết kinh khủng. Vị tu sĩ đang đọc kinh cầu nguyện cho người chết với chiếc đầu để trần. Sau đó, tôi nói với ông : “Hình như cha không cảm được thời tiết thì phải ?” Ông bảo: “Đúng vậy. Trong những khoảnh khắc như vậy tôi cảm thấy mình tràn đầy sức mạnh. Không có một nghi thức lễ thánh nào cho tôi được cảm giác đó bằng khi đọc kinh cầu cho người chết.”. Tôi nhớ rõ – những lời của một người luôn luôn ở gần cái chết. Tôi thường hỏi những ký giả ngoại quốc, có người đã từng đến đây nhiều lần, lý do họ đến đây, lý do họ muốn vào thăm Khu Cấm? Sẽ là ngu xuẩn khi nghĩ rằng họ đến đây vì tiền hay vì muốn có thành tích trong nghề nghiệp. Đây là câu trả lời : “Chúng tôi thích đến đây vì mỗi lần như thế chúng tôi cảm giác dường như chính mình đang nhận được một nguồn kích thích sinh lực rất bất ngờ.”. Đó là một câu trả lời không ai mong đợi, phải không? Tôi cho rằng, với những ký giả ngoại quốc, con người chúng ta hiện hữu nơi đây tạo cho họ cảm tưởng đang đối diện với những điều ký bí, chưa từng được khám phá. Thực sự, tôi đã không hỏi họ xem điều mà họ quan tâm nhất là chính con người chúng tôi ở đây, những gì họ có thể viết về chúng tôi, hay những gì họ có thể hiểu được về chúng tôi.

Tại sao lúc nào chúng tôi cũng cứ băn khoăn về cái chết?

Chernobyl – Chúng tôi đã không thể tách rời khỏi Chernobyl để sống ở một thế giới khác nữa được rồi. Những gì xẩy ra, thoạt đầu, gây cho chúng tôi cảm giác hụt hẫng, cảm giác nặng nề một nỗi đau. Nhưng với thời gian, chúng tôi đã nhận ra mình chẳng còn có một thế giới khác, một nơi chốn nào khác nữa để tìm nơi trú ẩn. Giờ đây, cảm giác mình đã ổn cố nơi mình đang sinh sống, dù đó chỉ là một lựa chọn đầy bi kịch, cũng đã cho chúng tôi một thế giới quan hoàn toàn khác hẳn.

Những người trở về sau một cuộc chiến được gọi những người thuộc về một thế hệ “đã bị mất”. Chúng tôi cũng thế, “đã bị mất”. Điều duy nhất không bao giờ thay đổi là nỗi thống khổ của con người. Đó là thứ tài sản duy nhất của chúng tôi. Là vật vô giá nhất mà chúng tôi sở hữu.

Tôi về lại mái nhà gia đình. Vợ tôi lắng nghe tôi kể những gì đã xẩy ra. Sau đó, cô ấy lặng lẽ bảo tôi : “Em yêu anh, nhưng em sẽ không thể để anh đến gần con trai chúng ta. Em sẽ không cho phép bất cứ ai chiếm đoạt nó. Chernobyl, hay Chechnya, hay bất cứ ai, hãy để cho con em được yên !”. Nỗi sợ đã chế ngự hoàn toàn cô ấy mất rồi.

Sergei Vasilyevich Sobolev, Phó Trưởng Ban điều hành hiệp hội bảo vệ di sản Chernobyl.