Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

Phê bình văn học thế kỷ XX (kỳ 2)

Thụy Khuê

 

Chương 2- Sơ lược tiến trình phê bình trong thế kỷ XX

Triết gia đầu tiên để lại hệ thống suy tưởng làm nền cho sự phân tích và phê bình văn học là Aristote với tác phẩm Thi học (Poétique). Sau Aristote, phê bình văn học xuyên nhiều thế kỷ trong tình trạng gần như tĩnh lặng, với những cá nhân phê bình tài năng, nhưng không làm xoay trở tình thế và đưa ra những phương pháp làm thay đổi cục diện toàn thể.

Ở Pháp, thế kỷ XIX, Charles-Augustin Sainte-Beuve (1804-1869) là khuôn mặt nổi trội, tạo ra lối phê bình dựa trên tiểu sử tác giả để phân tích tác phẩm.

Phê bình của Sainte-Beuve còn gọi là phê bình thực chứng hay phê bình sử quan, ngự trị tại Pháp đến đầu thế kỷ XX, và người đầu tiên lên tiếng đả kích Sainte-Beuve là Marcel Proust. Sau phê bình sử quan của Sainte-Beuve còn có phê bình ấn tượng của Jules Lemaitre, Anatole France... xuất hiện cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: nhà phê bình dùng ấn tượng mà tác phẩm tác dụng lên chính mình để viết. Phê bình ấn tượng ảnh hưởng sâu đậm đến Hoài Thanh.

Đầu thế kỷ XX, xuất hiện một phương pháp phê bình được coi là tân kỳ là phê bình phân tâm học Freud, do chính cha đẻ của phân tâm học đề xướng. Đây là sự bắc cầu giữa phê bình tiểu sử của Sainte-Beuve và triết học phân tâm.

Freud quan niệm tác phẩm là sự thực hiện những giấc mơ hay những ham muốn, phát xuất tự tuổi thơ, bị dồn nén, rồi bị đẩy lui vào vô thức. Phê bình phân tâm dựa trên ba khái niệm chủ chốt: giấc mơ, dồn nén, vô thức, khá thịnh hành trong nửa đầu thế kỷ XX, nhưng sau đó, bị bỏ rơi. Vì không phải trường hợp nào cũng có thể “phân tâm” được, nhất là khi không biết rõ tung tích và tiểu sử tác giả. Phê bình phân tâm cũng không đề cập tới vấn đề chữ, là yếu tố chính trong một tác phẩm, mà sự khám phá về ngôn ngữ học sẽ đem đến những ánh sáng mới.

Phê bình phân tâm ảnh hưởng đến nhiều nhà phê bình Việt Nam. Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa đã dùng để “phân tâm” sự “trụy lạc” trong “tâm hồn Nguyễn Du” và “Kiều” và sau 1954, trở thành cái mốt trong văn học miền Nam, để phân tích những “ám ảnh tính dục của Hồ Xuân Hương. Chỉ cần dùng sự khảo sát văn bản của Hoàng Xuân Hãn, chứng minh Hồ Xuân Hương, tác giả Lưu Hương Ký không phải là tác giả những bài thơ dâm, tục, thì bao nhiêu “kiến giải” về “ám ảnh tình dục” của Hồ Xuân Hương sẽ trôi theo mây khói.

Phê bình hiện đại thế kỷ XX, chính thức bắt đầu với sự khám phá và phát triển của ngữ học.

Người phê bình không còn dựa vào tiểu sử tác giả như phê bình lịch sử Sainte-Beuve, hoặc viết theo chủ quan cảm nhận, như phê bình ấn tượng của Jules Lemaitre; hoặc đồng hoá tác giả với nhân vật, đồng hoá ám ảo (fantasme, phăng-tát) của nhân vật với ám ảo của tác giả, như phê bình phân tâm học Freud, mà còn phải giải thích cấu trúc ngôn ngữ, tìm hiểu những ý nghiã, những biểu tượng nằm sau ngôn ngữ, đưa đến sự tìm hiểu xã hội và lịch sử con người.

Vì văn học hiện đại đã tách khỏi khuôn mẫu cổ điển (kể một truyện có đầu có đuôi) mà bước vào những kết hợp phức tạp hơn: truyện không có chuyện; pha trộn tưởng tượng và thực tế; đảo lộn trật tự thời gian; tìm đến cái phi thực và phi lý; đi vào những địa hạt không tưởng... nên cần có con đường khác mở ra trong việc phê bình: Ngoài việc khảo sát văn bản, nhà phê bình còn có nhiệm vụ khám phá bản chất văn chương, tư tưởng chứa đựng trong tác phẩm để dựng lại cả cái sườn cấu trúc văn chương tư tưởng của tác giả trong hành trình sáng tác, trong bối cảnh lịch sử và xã hội. Người có thể đại diện cho nội dung phê bình thế kỷ XX là Mihail Bakhtin (1895-1975).

Một công việc như thế, trước tiên, đòi hỏi kiến thức về Ngôn ngữ học nói riêng và Ký hiệu học nói chung.

- Ngôn ngữ học tức là khoa học về ngôn ngữ (Linguistique trong tiếng Pháp).

- Văn phạm hay Văn pháp (Grammaire trong tiếng Pháp) là sự khảo sát văn pháp của một thứ tiếng.

- Ký hiệu học hay dấu hiệu học (Sémiologie trong tiếng Pháp) là khoa học về các dấu hiệu hay ký hiệu (signe) trong đó có ký hiệu ngôn ngữ.

Nửa đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ học – vượt trên văn phạm truyền thống – được áp dụng vào phê bình, dẫn đến những kết quả bất ngờ.

Nửa sau thế kỷ XX, dấu hiệu học hay ký hiệu học mở rộng phạm vi hơn, đưa phê bình vào những vùng đất khác, ngoài dấu hiệu ngôn ngữ. Sáng tác cũng mở ra những hướng đi mới, với những khái niệm “tiểu thuyết mới”, “tác phẩm mở”... nên cần phải có một cách đọc mới.

Trong thế kỷ XX, nhà phê bình không còn bị giới hạn trong sự khen chê giáo khoa, mà có thể cách tân và phát triển nền phê bình như một nền văn chương thứ nhì, song song với sáng tác.

Curtuis xác định: phê bình là “văn chương của văn chương. Phê bình trở thành một thứ sáng tác “có đối tượng là sáng tác”.

Văn bản phê bình trở thành một sản phẩm của sáng tạo, không còn tùy thuộc vào sáng tác như một sản phẩm phụ tùng, “ăn theo” nữa.

Phê bình từ bỏ lối viết chủ quan, giáo điều, tự cho mình cái quyền sinh sát trên một tác phẩm, để có thể vận hành song song với sáng tác, như một nguồn sáng tạo thứ nhì, xuất phát từ văn bản.

Nếu sáng tạo khởi đi từ cuộc đời để tiến tới văn bản thì phê bình khởi đi từ tác phẩm để đến với cuộc đời: hai hành trình ngược chiều, nhưng song song và gặp gỡ, và đó là một phép lạ chỉ có thể xẩy ra trong văn chương nghệ thuật.

Phê bình thế kỷ XX, còn là sự giao thoa giữa những cặp phạm trù: ngữ họcvăn chương (trường phái Hình thức Nga), bác ngữ họcvăn chương (trường phái Bác ngữ học Đức); hoặc là sự tổng hợp hai ý thức: ý thức của người viếtý thức của người đọc (trường phái Ý thức của Thụy Sĩ), hoặc là sự gặp gỡ giữa tưởng tượngvăn chương (Bachelard), giữa triết họcvăn chương (Blanchot, Sartre), ký hiệu họcvăn chương (Eco, Barthes)...

Công lao khai phá nền phê bình hiện đại trong thế kỷ XX, thuộc về trường phái Hình thức Nga, ra đời trước thế chiến thứ nhất, với những tên tuổi như Eikhenbaum, Tynianov, Jakobson, Chklovski, Tomachevski... Trường phái này bị nhà cầm quyền Xô-Viết chôn vùi. Gần nửa thế kỷ sau, khoảng những năm 60, sách của họ mới được dịch và phổ biến rộng rãi trên thế giới.

Cùng xuất thân trong nhóm hình thức, nhưng Bakhtin đứng riêng một cõi, ông cực lực phê bình phương pháp “máy móc” của trường phái Hình thức, theo ông: chỉ chú ý đến khía cạnh ngữ học của văn bản mà bỏ quên con người. Bakhtin là người đầu tiên nghiên cứu văn chương nói chung và văn chương tiểu thuyết nói riêng, trên bình diện triết học, dùng hiện tượng luận, đặt nền móng cho khoa ký hiệu học. Bakhtin đưa tác giả và môi trường xã hội, vào nghiên cứu phê bình. Ông được định vị như khuôn mặt lớn nhất của phê bình Nga trong thế kỷ XX.

Cùng thời điểm ấy, ở Đức, xuất hiện một nhóm các nhà Bác ngữ học[1] chuyên về các thứ tiếng có nguồn gốc La tinh[2] với Gundolf, Curtius, Auerbach, Spitzer. Họ chủ trương khảo sát văn chương Âu Châu như một toàn thể duy nhất, khởi đi từ nguồn ngữ tự La tinh.

Cùng số phận với những nhà Hình thức Nga, những nhà Bác ngữ học Đức cũng bị chính quyền Đức Quốc Xã khủng bố. Năm 1933, hầu hết phải chạy sang dạy Đại học Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ), rồi sang dạy đại học Mỹ. Ảnh hưởng của họ trực tiếp trên trường phái phê bình Ý thức ở Genève, và gián tiếp dẫn đến những khái niệm mới như văn học so sánh, liên văn bản... được mở rộng trong nửa sau thế kỷ XX.

Giữa thế kỷ XX, ở Thụy Sĩ, xuất hiện trường phái phê bình Ý thức, với Marcel Raymond, Albert Béguin, Georges Poulet, Jean Rousset và Jean Starobinski. Nhóm này – còn gọi là trường phái Genève – đặc biệt đề cao sự gặp gỡ của hai ý thức: ý thức của người viếtý thức của người đọc.

Vai trò của người đọc đã được de Saussure nhấn mạnh ngang hàng với người viết, như mối tương quan giữa người nóingười nghe, nay được giới phê bình, lấy lại và đem ra ánh sáng. Trường phái phê bình ý thức giữ vai trò chủ động trong việc phát triển nền “phê bình mới”, khi sách của hai trường phái Nga và Đức chưa được dịch sang tiếng Pháp và quảng bá rộng rãi ở Châu Âu.

Paul Valéry (1871-1945), nhà văn và nhà phê bình Pháp, thăm thú nhiều lãnh vực văn chương nghệ thuật và ông đã nắm bắt được rường mối liên lạc mật thiết giữa các ngành nghệ thuật với nhau. Sự tìm kiếm của Valéry vừa độc lập, vừa tản mạn, nhưng những khám phá thi học của ông, về âm, về ý, có nhiều điểm tương đồng với lý thuyết của những nhà Hình thức Nga.

Trong khi mọi người đi theo những phương pháp khoa học để phân tích văn bản, thì thập niên 40, ở Pháp, nhà bác học Gaston Bachelard, đưa ra phương pháp “phê bình tưởng tượng”, hay phê bình phân tâm vật chất. Tuy có chữ phân tâm, nhưng phê bình của Bachelard chẳng dính dáng gì đến phê bình phân tâm học của Freud đã nói đến ở trên.

Bachelard khai phá vùng đất của mơ mộng, truy nguyên nguồn cội hành động thi ca với một lối viết đầy thi vị. Ông dùng những phương pháp tế vi, sâu sắc để tìm hiểu văn chương: vật chất hóa tưởng tượng hoặc tưởng tượng hoá vật chất, đào sâu đến tận nguồn của sự sống và sáng tác.

Jean Paul Sartre là người đặt vấn đề: Văn chương là gì? một cách quy mô và triệt để. Trước Sartre, Mallarmé, Proust, Du Bos... cũng đã đề cập đến câu hỏi này, nhưng phải đến Sartre vấn đề mới được phân tích một cách cặn kẽ, thấu triệt.

Sartre coi văn chương như một hiện tượng và ông dùng hiện tượng luận để khảo sát, mở ra hướng phân tích mới cho phê bình văn học Pháp, phê bình hiện sinh hay phê bình hiện tượng luận. Nếu không có J.P. Sartre thì chưa chắc đã có R. Barthes.

Maurice Blanchot có lẽ là nhà phê bình sâu sắc nhất của Pháp, nhưng ông ít được thế giới biết đến. Đại học Hoa Kỳ có vẻ chú ý đến những lý thuyết thời trang như Postmoderne (Hậu hiện đại) của François Lyotard, hay Déconstruction (Tái kiến trúc) của Dérrida hơn là những bài triết luận sâu sắc của Maurice Blanchot về con đường hủy diệt của sáng tác, với những câu hỏi vô cùng bất ngờ về tính cách tứ tán, tự sinh, tự triệt của hành động viết.

Bakhtin đã khai mở những khái niệm đầu tiên về ký hiệu trong ngôn ngữ tiểu thuyết, nhưng đến nửa sau thế kỷ XX, ngành ký hiệu học mới được phát triển trong phê bình, Roland Barthes, Umberto Éco, trở thành những “chuyên gia” của phương pháp phê bình ký hiệu học này.

Cuốn Segno (Ký hiệu) của Umberto Eco là một trong những tác phẩm khúc chiết, tương đối dễ đọc, về một khái niệm khá rắc rối là ký hiệu học. Tác phẩm nhắm vào ba điểm chính: giải thích khái niệm ký hiệu, trình bày những lý thuyết về ký hiệu học và đề cập đến chỗ đứng của ký hiệu trong lịch sử tư tưởng. Vai trò của người đọc và khái niệm tác phẩm mở là hai đề thuyết quan trọng trong phê bình của Eco.

Roland Barthes, tổng hợp những khái niệm ngữ học và ký hiệu học từ đầu thế kỷ XX, đưa vào phê bình, tạo ra một cái nhìn khá toàn diện về các ngành nghệ thuật và ngoài nghệ thuật. Dưới con mắt Barthes, mỗi hệ thống ký hiệu, đều có thể là đối tượng khảo sát của phê bình.

Ngoài ngôn ngữ viết, còn có các hệ thống ký hiệu khác như ngôn ngữ máy móc, ngôn ngữ điện ảnh, ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ truyền hình, ngôn ngữ vi tính, v.v. như vậy, phê bình thực sự đi vào mọi kẽ ngách của đời sống hàng ngày, trở nên một thực thể lưỡng diện: vừa bác học, qua cách phân tích, lý giải, vừa bình dân, vì đối tượng của nó là những sinh hoạt của đời sống.

Thập niên 70, vấn đề Hậu hiện đại được đặt ra và nhanh chóng trở thành một cái mốt xung quanh lý thuyết hậu hiện đại của J.F. Lyotard. Lý thuyết này phát xuất từ Pháp, được một số đại học du nhập vào Mỹ và được coi như khuynh hướng tân kỳ của văn học hiện đại. Chúng tôi sẽ giải mã lý thuyết của Lyotard trong chương cuối: Hậu hiện đại, thực chất và huyền thoại, chủ đích giúp độc giả phân biệt đâu là những lý thuyết phê bình đích thực, bổ ích cho sự tìm hiểu văn chương, đâu chỉ là ảo giác không tưởng của một thời nhất định.

Thụy Khuê

(Còn tiếp)

Kỳ 1: http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/ph-bnh-van-hoc-the-ky-xx-ky-1/


[1] Bác ngữ học (Philologie, tiếng Pháp) là khoa học về văn bản, bao gồm việc nghiên cứu phê bình và tìm hiểu mối liên hệ của nó với nền văn minh, lịch sử và nguồn gốc chữ.

[2] Bác ngữ học la tinh (Philologie romane) chuyên khảo sát các thứ tiếng có nguồn gốc từ tiếng La-tinh như tiếng Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...