Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 25 tháng 4, 2016

Cầm Thư quán (kỳ 2)

Tiểu thuyết

Hà Thủy Nguyên

VI

Ngọc Thư đã say ngủ trong khí man mát, ngọt ngọt của đầm sen sau cơn mưa. Ngọc Cầm thơ thẩn đi ra thuỷ đình. Trăng lên sáng tỏ đẩy lùi những mây mờ về phía sau.

Khí từ trời ngấm vào gỗ rồi lại thấm ngược lên gan bàn chân cái cảm giác tê tê, lạnh lạnh. Nàng khẽ mỉm cười. Dải thắt lưng hồng vuột xuống mặt gỗ tự khi nào… Ngọc Cầm tháo từng lớp khuy… Gìơ thì chỉ còn dải yếm đào. Nàng vòng tay ra phía sau để lộ làn da trắng đến rợn mình. Dải yếm cũng tuột xuống cùng với xiêm y. Nàng lắc lắc đầu, chiếc trâm tung ra rơi vào góc tối đánh cạch một tiếng. Mái tóc buông xoã xuống như một dải suối mơ che khuất mảng sáng bừng của da thịt. Gío nhè nhẹ luồn qua kẽ tóc để vuốt ve mân mê nàng.

Tùm! Nước bắn lên tung toé vỡ bóng trăng loang lổ… Những giọt nước đọng trên tóc, trên da thịt Ngọc Cầm ánh lên màu lấp lánh. Nàng ngụp xuống dưới đáy nước, đám sen rúng động. Đột ngột nàng ngoi lên, ánh mắt bừng sáng muốn đọ với trăng hạ… Nàng vốc một vốc nước, thả nhẹ xuống mặt hồ. Tiếng nước chạm nước sắc lạnh.

Đột ngột một vòng tay luồn qua sóng nước, xiết chặt lấy nàng. Ngọc Cầm thốt hãi tới bối rối. Một hơi ấm phả nhẹ vào cổ nàng:

– Tại sao người nàng lại lạnh vậy… Vì nước chăng hay là vì gió…?

Ngọc Cầm khẽ quay mặt lại:

– Bài vịnh sen của ngài thiếp đã đọc rồi… quả là thanh nhã, quí phái… Mong ngài để thiếp vẫn giữ những cảm nhận ấy…

Thánh thượng vẫn không buông tay, ngài ghì chặt nàng, ép nàng vào chân thuỷ đình.

– Nàng là người phóng khoáng, tiêu diêu, nề hà gì những luận điệu giáo lý cứng nhắc đó…

Ngọc Cầm đột ngột cười một tràng dài. Thánh thượng càng áp chặt nàng. Hơi lạnh từ cơ thể nàng vẫn lan ra trong sóng nước.

– Điều ta nói đáng cười lắm ư?

Ngọc Cầm bấy giờ mới thôi cười. Nàng nhếch mép mỉa mai:

– Ta cười cho kẻ làm vua muốn xiển dương Nho học, gò ép muôn dân theo giáo lý, theo lễ nghĩa, thế mà chẳng thoát nổi dục vọng của chính mình…

Thánh thượng tỏ vẻ ngạc nhiên. Ngài nhìn thẳng vào đôi mắt trong vắt của nàng. Năm ngón tay rồng luồn qua mái tóc ướt hương nước, mân mê gáy nàng để rồi thấy hồn mình như siêu thoát.

Ngọc Cầm đẩy mạnh thánh thượng, thánh thượng chới với giữa dòng nước vì bất ngờ. Nàng chống hai cánh tay và nhảy lên thuỷ đình, khoác vội tấm áo lụa. Nàng hất tung mái tóc, nước văng lên mát lạnh trên da mặt của thánh thượng.

– Nếu thánh thượng yêu quý tiếng đàn của tiện thiếp, xin mời thánh thượng hạ cố tới nghe chơi… Còn nếu như ngài chỉ mơ tới chuyện mây mưa thì… - Ngọc Cầm nhếch mép-… tam cung lục viện của ngài là quá đủ rồi…

Thánh thượng mê mẩn nhìn theo dáng ngọc của nàng lướt đi trên thuỷ đình và biến mất sau cánh cửa.

Ngài phát hiện ra một băng lụa hồng còn nằm vương vất trên sàn gỗ. Ngài với tay nhặt lấy. Đó là một dải thắt lưng thêu sen vàng tinh tế. Thánh thượng giữ chặt trong tay, khoả nước bơi về thuyền mà lòng vẫn còn luyến tiếc…

VII

Tiết trời đã vào thu. Heo may đùa bỡn ngọn nến. Thánh thượng vẫn miệt mài bên bản tấu. Trống điểm canh tư. Bóng mây đen nhạt dần ngoài ô cửa sổ. Ngài đặt bản tấu cuối cùng xuống, đi đi lại lại rồi lại nhìn ra ô cửa tò vò. Vài con chim dậy sớm kéo màn mây đen theo sau đuôi vũ. Đằng sau đám vũ là những vì tinh tú lác đác mờ dần… mờ dần…

Ngài thở dài, giọng đều đều ngâm mấy câu thơ Nôm:

“Kế lậu canh mấy khắc dư

Đêm dài dằng dặc mới sang tư

Gió lay chồi ải khua chim thức

Nước rẫy trăng tà giục sóng đưa

Vạc thẩn thơ tìm nội quạnh

Trời lác đác vẻ sao thưa

Một bầu thế giới hây hây lạ

Mấy kẻ chung tình đã thức chưa?”

Đã hơn một tháng nay ngài không gần nữ sắc. Cứ ôm một người con gái trong vòng tay, ngài lại nghe vút lên tiếng tỳ bà khoáng đạt, bay bổng của Ngọc Cầm. Điều ấy làm cõi lòng ngài tan nát. Còn những lúc như thế này… hơi lạnh trong cơ thể nàng lại ám ảnh ngài. Chưa bao giờ ngài thấy trong mình ẩn chứa một sự si mê, cuồng dại tới vậy. Ngài có thể chăn dắt muôn dân, có thể đứng đầu trong đám Nho sinh, có thể cầm quân đánh bại Chiêm Thành… thế mà lại chẳng chinh phục nổi một giai nhân… Và một lần nữa, ngài thua thảm hại vì cũng chẳng thể… gạt hình ảnh ấy ra khỏi tâm khản.

VIII

Đêm đã về khuya, khuya lắm rồi…

Ngọc Cầm tung chăn bật dậy. Nàng thở dài tiếc nuối… Trong ảo giác của nàng vẫn còn văng vẳng tiếng sóng biển xô đẩy, dữ dội của một cơn bão khơi.

Nàng cầm cây đàn ra ngoài thuỷ đình. Gío hiu hiu thổi. Trăng thu dìu dịu của tháng Bảy làm tan cơn sóng trong đầu nàng, nhưng nàng lại cảm thấy gờn gợn. Nàng vẩy tay trên dây đàn. Tiếng vỡ của thuỷ tinh trong!

Trăng vẫn chỉ còn chưa tròn đầy… Xác sen trong đầm sáng lên lộ từng đường gân khô không khốc… Có tiếng mái chèo khoả nước. Nàng dừng đàn ngẩng lên.

Một chiếc thuyền nan vạch đường trăng tiến về phía thuỷ đình. Ngọc Cầm vẫn ngồi im. Bóng đèn lồng mờ mờ không chen nổi với ánh trăng.

Bỗng, từ thuyền văng vẳng ra tiếng hát của một người đàn ông:

“Đèn tà thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này”.

Ngọc Cầm nhếch mép, nàng không để ý tới chiếc thuyền nữa.

Rào rạt! Những dây đàn xô nhau như sóng nước. Tiếng nhạc lan trong nước, trở thành một loại thuỷ lực có thể đẩy bờ ra xa, xa mãi… xa tới vô cùng vô tận. Chậm rãi! Biến hoá! Chớp bể! Và… đột ngột dừng!

Không gian chìm trong tĩnh lặng tới lạnh người. Thuỷ lực rút dần, rút dần về phía thuỷ đình. Trong thuyền lại vang tiếng cười lớn và ngâm thơ:

“Nước biếc non xanh khéo hẹn hò

Thu màu đạm bạc bấy là thu

Rắp lòng đỏi lá thay hoa chốc

Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu

Khiến nguyệt lạnh lùng xâm trướng vóc

Xui trăng thất thểu lọt chăn cù

Vì ai cho phải tin nhàn lệ

Chẳng nhẽ đau lòng khách vọng phu”

Ngọc Cầm đứng dậy, nàng đặt cây tì bà xuống, đi về phía con thuyền, khẽ nghiêng đầu:

– Hay cho câu thơ “Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu”. Tiện thiếp xin được nghiêng mình kính phục Thánh thượng…

Tiếng cười trở nên sảng khoái! Con thuyền quay đầu, để lại câu nói:

– Hôm nay trẫm bận việc… Hẹn ngày Rằm sẽ cùng nàng thưởng nguyệt khoe tài…

Ngọc Cầm khẽ nhếch khoé hạnh. Nàng quay người hất mái tóc tung bay trong gió, xuyên qua màn trăng… Trong không gian chỉ còn tiếng khoả nước bì bõm…

IX

“Hàng đêm ta cứ nghe thấy tiếng sóng biển vỗ vào nhau vừa êm ái, vừa dữ dội… Long Thành chật hẹp ư? Hay cái thuỷ đình này quá chật hẹp? Bầu trời cao rộng kia liệu một ngày nào đó ta cũng sẽ thấy nó chật hẹp chăng? Ta cuồng dại, ta đầy tham vọng… ta chỉ nên vừa lòng với khoảng trời này… Mặt trăng tròn vành vạnh kia đã thật sự hoàn hảo hay nó không tròn như ta tưởng?”

Tiếng Ngọc Thư đều đều tụng theo bài kệ:

“Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa

Xoạ thủ đinh ninh vấn Tổ ông

Kỷ độ mại lai hoàn tự mãi

Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong”

(Đất hoang một khoảnh trước núi xanh

Chắp tay hỏi Tổ vẫn đinh ninh

Bao lượt bán đi rồi mua lại

Vì thương tùng trúc gió trong lành)

Trời bắt đầu đổ mưa, trăng mờ dần trong ô cửa sổ. Ngọc Cầm nhìn ra ngoài, lòng trĩu nặng. Mưa ngày lễ Thất tịch thật rầu rĩ. Nó gợi cho con người hình dung tới cảnh một ma nữ áo trắng xoã tóc, ôm hài nhi khóc lóc bên chiếc giếng cổ trơ ra vài cây dương xỉ.

– Đêm nay là ngày mở cửa Âm tào… Em nghỉ sớm đi, đừng ra thuỷ đình chơi đàn nữa… Mấy năm trước có người bị ma đùa rơi xuống hồ đấy…

– Vâng ạ…

Mưa vẫn rả rích. Trăng thỉnh thoảng ló ra khỏi mây nhợt nhạt như khuôn mặt của một thiếu nữ chết đuối vừa được vớt từ hồ lên.

Ngọc Cầm nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ của Ngọc Thư. Nàng còn nghe xa gần bì bõm mái chèo khua nước. Nhổm người dậy, nàng khe khẽ bước xuống, mở cửa đi ra thuỷ đình.

Nàng rướn người treo chiếc đèn lồng đỏ viết câu thơ Nôm “Quen dạ thề sương nhũ tuyết đầu” lên xà nhà. Chiếc thuyền tiến lại gần trong màn sương mờ…Thánh thượng đã đứng ở đầu mũi thuyền… Mưa vương đầy trên trường bào của ngài!

– Trời mưa lạnh… nàng không nên ăn mặc giản đơn như vậy!

Thánh thượng cởi trường bào khoác lên vai Ngọc Cầm. Nàng cúi đầu e thẹn trước cử chỉ ân cần của Thánh thượng. Hai người cùng ngồi xuống bàn trà.

– Hôm nay nàng không gẩy đàn sao?

– Nhân lại không bằng địa lại, địa lại không bằng thiên lại. Sáo trời là tột đỉnh của âm thanh! Đã có tiếng mưa hay hơn tiếng đàn của tiện thiếp rồi…

Hai chớp mắt gặp nhau. Hôm nay thì trăng chịu thua hẳn bóng đèn. Mái tranh bị dột, nước rỏ qua mấy lớp lá khô lợp mái, long tong xuống sàn gỗ.

– Hàng ngày chúng thi lễ với ta, chẳng khác khấn vái nguyền ta chết sớm… Ta nào khác một cô hồn…

– Thiên mệnh của ngài là vậy, không thể khác được…

Thánh thượng đột ngột đứng dậy, đứng bên mép thuỷ đình nhìn ra phía mưa đi dạo trên mặt hồ. Ngọc Cầm cũng đứng dậy, đi đến bên cạnh thánh thượng.

– Ấy là tại ngài đã tự xây xung quanh ngài và con dân của ngài một bức tường đồng quá ư vững chắc…

Ngài ôm chầm lấy Ngọc Cầm. Nàng khẽ cựa mình đẩy thánh thượng nhưng sức nàng không đủ.

– Chẳng lẽ nàng không thấy tội nghiệp ta ư? Ta chỉ xin nàng thời khắc này thôi, lòng ta được sưởi ấm biết bao…

– Nếu thánh thượng còn những suy nghĩ ong bướm, tiện thiếp đành phải tự dấu mình dưới đáy hồ kia vậy…

Thánh thượng buông Ngọc Cầm. Nàng cởi tấm trường bào trả lại cho ngài:

– Xin thánh thượng hãy hồi cung…

Ngài ngồi phịch xuống nền gỗ, tấm trường bào tuột tay rơi tõm xuống nước.

– Dẹp yên Chiêm Thành có nghĩa gì với ta… Xây dựng một thời đại thái bình thịnh trị có nghĩa gì với ta… Hàng đêm ta vẫn mơ thấy điệu nhạc “Hải du” của nàng.

Ngọc Cầm quỳ xuống bên thánh thượng, khẽ nắm đôi bàn tay ấm nóng của ngài. Mưa hắt vào đọng ngọc li ti trên từng sợi tóc của hai người. Thánh thượng lại cởi tấm áo đỏ thêu rồng phượng khoác lên người nàng.

– Hôm nay âm khí nặng nề…

Thánh thượng vòng tay qua vai Ngọc Cầm. Đôi mắt nàng ánh lên màu sáng của chiếc đèn lồng đỏ. Đôi tay ngài vuốt nhẹ trên bộ y phục lụa trắng thướt tha. Ngực nàng phập phồng một sự sờ sợ khó diễn tả.

– Có một bài thơ ta muốn ngâm tặng nàng…

Tấm áo đỏ và vạt áo trắng của nàng buông lỏng dần lộ ra bờ vai như sương tuyết. Trăng lúc này đã tỏ hơn đôi chút, làm bừng lên màu bạch ngọc của da thịt. Nàng ngậm những ngón tay đầy cảm xúc của ngài. Thánh thượng bật cười:

“Linh linh dao thấu ngọc

Tải địa đức linh trường

Huân thạch vô đa điếu…

(Róc rách tiếng ngọc từ suối vang xa

Đất chứa nhiều chất quí, đức thiêng lâu dài

Đá nóng không thể buông câu ngồi chơi…)

Thánh thượng ngập ngừng. Ngọc Cầm nhíu mày tỏ vẻ giận dỗi. Thánh thượng khẽ đặt môi lên cặp môi hồng màu sen của nàng.

– Ta sẽ làm nốt câu thơ cuối khi mưa tạnh!

Thánh thượng từ từ đỡ Ngọc Cầm ngả lưng trên mặt gỗ lành lạnh. Những vạt áo dần dần trở nên vô nghĩa. Thánh thượng trườn trên tấm thân trắng trẻo và lạnh toát của nàng. Sự chạm nhau của vô thức! Đôi mắt nàng nhắm chặt, cố cắn răng không dám thốt lên một tiếng rên. Thánh thượng ôm chặt nàng trong lòng với hi vọng hơi ấm có thể làm tan băng giá và giảm nỗi đau tột cùng đang giằng xé nàng. Vẻ mặt ngài bừng lên sự say mê tựa thưởng thức một điệu nhạc độc nhất vô nhị.

Ngài vùi đầu trong mái tóc dầy đen mượt thơm mùi sen. Những ngón tay mát rợn vẫn lướt trên da ngài. Ngài cảm giác từng mạch máu của mình đang rung lên một điệu nhạc mê hồn. Thánh thượng càng thích thú hơn khi nghe thấy tiếng những ván gỗ kót két theo nhịp điệu của khúc “Phượng Cầu Hoàng”.

– Trời tạnh mưa rồi… Thiếp muốn đuợc nghe nốt câu thơ cuối…

Thánh thượng khẽ di bộ ria lên ngực nàng đầy khoái cảm. Ngài ôm trọn Ngọc Cầm trong tay, thẫn thờ ngâm:

“Mộng hàm tích ích chương”

(Chỉ thấy một vốc nước là say sưa, rồi khí tiết càng già dặn)

Ngọc Cầm cười khúc khích:

– Thánh thượng quả là đã uống phải nước suối Tham rồi…

Mưa lại tì tõm trên mặt nước. Những đám mây đen vội vàng che khuất ánh trăng.

– Tình cảm thật sự của nàng đối với ta là như thế nào… Nếu nàng không biết ta là Hồng Đức!

Ngọc Cầm nhếch mép, nàng quay đi, kéo vạt áo đắp lên cơ thể:

– Ngài tưởng thiếp coi trọng cái địa vị đế vương của ngài ư… Sự si mê tiếng đàn của thiếp trong trái tim ngài đã khiến thiếp rung động…

– Ta thiết nghĩ người si mê tiếng đàn của nàng không phải chỉ mình ta!

Ngọc Cầm đặt tay lên môi giữ chặt lời thánh thượng.

Tiếng trống canh tư vẳng lên. Thánh thượng khoác vội áo. Ngọc Cầm mệt mỏi quấn tấm lụa quanh mình.

Chiếc thuyền nan biến mất trong cái mờ mờ nửa sáng nửa tối. Ngọc Cầm đứng dậy, nâng nhẹ gót bước vào phòng.

Trên tấm ván còn một vệt máu đỏ tươi non. Mưa róc rách qua từng lớp lá khô tuôn xuống, rỏ trúng vệt máu. Máu và nước hoà tan, lăn qua kẽ hở của hai tấm ván, rơi dần… rơi dần chạm tới đáy hồ.

Chú thích:

5- Bài thơ Thiền của Ngũ Tổ Pháp Diễn của Trung Quốc

6- Lấy tứ trong chương “Tề vật luận”- “Nam Hoa Kinh”- Trang Tử

X

Vẫn như mọi ngày Ngọc Cầm buông từng sợi tơ đàn theo tiếng gió… Lá dập dềnh dưới chân thuỷ đình, không thể thoát để lơ lửng ra khơi. Bóng nga chênh chếch sau mái cỏ dẫn lối cho một con thuyền nan nhỏ lướt giữa sóng để rồi khẽ chạm vào gác thuỷ đình.

Thánh thượng vui vẻ bước lên từng bậc tới sát gần nàng nhưng tuyệt nhiên không cất tiếng gọi. Ngũ cung vẫn cứ thay nhau thoát ra một âm điệu trầm, chậm tới run lòng.

– Xin thánh thượng hồi cung!

Ngọc Cầm đột ngột dừng đàn. Thánh thượng không khỏi ngỡ ngàng, ngài lúng túng chưa biết phải hiểu ra sao…

Nàng nhếch mép đứng dậy hất dải lụa vuốt qua bàn tay rồng:

– “Yên khí lăng cung khuyết”! Hay cho câu thơ của thánh thượng!

Thánh thượng vòng tay ngang lưng nàng, nàng bước chân nhanh, nép vào cột đình. Ngài chợt hiểu ra điều giận dỗi của Ngọc Cầm. Thực tình đó chỉ là câu thơ để vịnh cảnh Dương Qúi Phi tự tử ở Mã Ngôi, vậy thì tại sao nàng lại phản ứng thái quá như vậy.

– Ta chỉ vô tình nghĩ rằng Dương Quý Phi là kẻ làm loạn cung Đường thôi… Có gì mà phải giận! Nàng thật dư ý nghĩ…

Ngọc Cầm lơ đãng lướt tay trên những sợi tơ ngân lên sóng vỗ mạn thuyền:

– Thiếp chẳng qua có khác gì thương nữ cần gì biết đến vận nước suy vong, chỉ biết tới khúc “Hậu đình hoa” mà thôi… Thánh thượng là Kiệt Trụ hay Đường Minh Hoàng hay Hồng Đức, thiếp cũng chỉ muốn say theo khúc “Hải du”…

Thánh thượng ôm nàng trong vòng tay, hơi lạnh từ người nàng vẫn toả ra khiến ngài càng xiết chặt hơn.

– Ta hiểu, nhưng chẳng lẽ nàng lại chỉ tầm thường như Bao Tự, Dương Quý Phi ư…

Ngọc Cầm lắc đầu cười. Nàng nghe thấy tiếng những chiếc lá khô vàng đang vươn mình cố bám riết lấy chân thuỷ đình. Nàng nghe thấy cả bóng trăng đang rướn người thoát khỏi mái cỏ, muốn bay vọt lên đỉnh trời cao. Cả kia nữa, tiếng giấc mộng bi thu của chị Ngọc Thư vẫn đang thổn thức trong căn phòng nhỏ trống vắng. Những thứ âm thanh ấy, Bao Tự không nghe được, Dương Qúi Phi không nghe được và… thánh thượng lại càng chẳng bao giờ nghe được.

Thánh thượng kéo tay Ngọc Cầm, nàng thu lại. Đôi mắt nàng vẫn chạy theo ánh vàng dập dềnh trên sóng.

– Thiếp đã từng nói với thánh thượng từ ngày đầu, nếu ngài coi thiếp là một số trong muôn vàn giai nhân được sủng ái thì thiếp…

– Nàng vẫn không hiểu ta sao… - Thánh thượng chợt lớn tiếng - Ta cảm giác mình lãng quên tất cả khi ở bên nàng, tin thắng trận ư, hay tin được mùa làm ta phấn khích! Không! Khi nghe tiếng tì bà của nàng mới là lúc ta có được cái khoái cảm cực độ. Cái kẻ có thể hô phong hoán vũ, có thể thốt nửa lời mà vạn người chết thực ra chẳng bao giờ có thể tiêu diêu, tự tại như mong muốn.

Bóng trăng đè lên ngực thánh thượng tới tức thở. Ngọc Cầm vẫn lạnh như băng. Nàng bắt đầu so dây.

– Nàng đã quên rằng còn có ta ở đây sao?

Điệu nhạc rung rung lung lay bóng nguyệt. Sương mờ kéo từ đâu lại phủ một lớp mỏng lên mặt nước. Bầu trời nén sương xuống mặt nước, mặt nước lại đẩy sương lên. Sương bị mắc giữa một khoảng không gian ngưng đọng. Sương lãng đãng chìm dần trong tiếng nhạc, và những chiếc lá cũng không muốn thoát khỏi chân thuỷ đình để phiêu du trên mặt sóng nữa.

Thánh thượng lặng thinh. Ngài chỉ biết thở dài theo bóng đen của Ngọc Cầm đổ trên sàn gỗ. Đột ngột ngài đứng dậy, bước thật nhanh, toan chạm vào dải yếm đỏ. Nhưng… đôi tay Ngọc Cầm vẫn lướt nhanh trên cung bậc. Ngài đành ngồi xuống bên cạnh và bị mê hoặc bởi năm ngón tay ngà trượt dần theo những sợi tơ…

Tấm yếm đỏ – cổ cao trắng ngần! Khúc thanh tâm – sóng lặng dưói màn sương! Nếu cứ ngồi trong thuỷ đình để nhìn lên trời thì chẳng bao giờ có thể thấy trăng.

Thánh thượng ngoảnh đi chẳng dám nhìn vào dung nhan mơ màng của Ngọc Cầm. Ngài chỉ dám xốn xang theo lớp sóng loang lổ ánh nga. Một bóng ma nào đang múa trước mắt ngài… Bóng ma ẩn hiện trong sương, đong đưa theo nhạc… Nhìn kĩ… nhìn kĩ… hoá ra là Ngọc Cầm.

Ngài choáng váng quay mặt lại. Ngọc Cầm vẫn ngồi đó trong khói sương đọng lại. Vẫn cổ cao trắng ngần, vẫn tấm yếm đỏ, vẫn dải tóc buông xoã như một bóng ma…

Chú thích:

7 – Trích bài “Mã Ngôi” của Lê Thánh Tông vịnh Dương Qúi Phi.

8 – Lấy ý từ câu thơ “Thương nữ bất tri vong quốc hận - Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa” của Đỗ Mục. Có nghĩa là: “Gái làng chơi không biết tới cái hận mất nước - Phía bên sông chỉ biết hát khúc Hậu Đình Hoa.

XI

Chiếc thuyền con bị buộc dây vào một chiếc cọc trên bãi cát trắng. Sóng đẩy thuyền ra xa rồi dây lại lôi tuột thuyền vào. Thuỷ triều dâng. Nước biển tháo nút buộc lỏng lẻo của sợi chão… Thuyền bị kéo ra xa dần… xa dần bờ cát trắng.

Biển cả mênh mông thay! Sương chẳng đè nổi sóng lặng! Sao dập dìu đuổi nhau trên cánh sóng mà chẳng bao giờ bắt được nhau… Sao va đập vào mạn thuyền một thứ âm thanh xa vời…

Ngọc Cầm mở bừng mắt dậy… Tiếng gió mùa đông rít từng hồi trên nóc thuyền. Nàng lách người khỏi tấm chăn bông đắp ngang ngực thánh thượng. Nàng nhìn qua khe hở. Ngoài kia có những gì? Một màu đen sâu thắm, không trăng, không sao, không phân biệt nổi đâu là trời là nước!

Nàng bất chợt thở dài… Một hơi trắng mờ toả ra tan vào sợi khói tuôn dài từ ngọn bạch lạp. Nàng rờ rẫm trong khoang thuyền, khẽ chạm vào dây đàn! Nẩy lên tiếng sao sa…

Thánh thượng cựa mình, ngài khẽ vuốt mái tóc của Ngọc Cầm:

- Sao thế… nàng tỉnh rồi ư?

Ngọc Cầm lại nép mình trong cánh tay ngài:

– Thánh thượng có thấy đêm nay lạnh không?

Ngài mỉm cười, giật mình vì cảm thấy mười đầu ngón chân nhỏ bé của Ngọc Cầm đang run lên:

– Ta chỉ có một tham vọng là có thể sưởi ấm nàng… Vậy mà sao hơi lạnh của nàng vẫn đáng sợ như vậy.

– Thiếp từ thuở sinh ra đã thế…

Năm ngón tay nàng vẫn mân mê trên sợi đàn căng.

– Có phải vì chiếc đàn kia đã hút hết sinh khí của nàng, để lại cho nàng thứ âm khí lạnh lẽo…

Ngọc Cầm lại gẩy một dây đàn. Ánh mắt nàng xa heo hút về phía chân trời vô định.

– Tại sao ngài không nghĩ rằng mây nước cũng lạnh!

– Nhưng nàng không phải mây nước…

Ngài lại di bộ ria mép lên gò má Ngọc Cầm. Màu điểm trang trên khuôn mặt nàng đã nhạt dần theo tiếng trống canh. Chiếc chăn bông bị dồn xuống cuối khoang thuyền… Ngọc Cầm bật cười thích thú phát hiện ra một vết son mờ mờ trên bụng thánh thượng. Nàng dùng ngón tay xoá vội vết son.

– Sao thế? Ta muốn giữ nó lại, như lúc nào cũng cảm thấy có nàng bên cạnh…

Vết son biến mất. Ngọc Cầm gối đầu lên ngực ngài:

– Còn thiếp chỉ muốn là một người bước đi trên cát mà không để lại dấu chân…

Sóng vỗ mạn thuyền! Đều đều, êm êm! Lạnh!

– Ta e sẽ ít tới thăm nàng được…

Ngọc Cầm vẫn lơ đãng nghịch những dây đàn một cách hỗn độn.

– Quan ngự sử Lương Như Hộc đã biết chuyện của chúng ta… Viên trung thần ấy hết lời can ngăn ta… Ta không thể không nghe…

Những âm thanh chợt im. Ngọc Cầm khẽ thở dài:

– Lương ngự sử là trung thần, ngài nên nghe lời can gián của ông ấy…

– Nàng giận ta đấy ư? Ta chỉ hận mình làm vua mà không được thoả lòng mình…

Ngọc Cầm ngồi dậy, nàng thắt lại dải yếm đào, khoác vội từng tấm xiêm y.

– Tiện thiếp tự lấy làm xấu hổ… Thánh thượng ở đây cùng tiện thiếp, tức là có biết bao cung nữ đang thầm khóc trong thâm cung và cũng có biết bao bản tấu nằm dở dang trên bàn đợi phê duyệt…

Thánh thượng suy tư miết chiếc lược ngà trên mái tóc đen mượt óng ánh bóng sáng của nàng. Hai ba sợi tóc mỏng như tơ quấn theo chân lược. Ngài gỡ chúng ra, thả trên đầu ngọn lửa. Lửa xèo xèo thiêu đốt rụi. Đám tro tàn lả tả bay xuống chăn…

XII

Ngọc Cầm cựa mình thức dậy… Qua tấm bình phong, nàng thấy Ngọc Thư và vợ chồng Phù Thúc Hoành đang nhàn đàm trong thư quán. Hoa đào bắt đầu rơi từng cánh xuống thành cửa sổ. Đôi bướm trắng vẫn lượn lờ quanh cành đào khô như xương của một hạc tiên.

Ngọc Thư khe khẽ ngâm:

“Xuân lai hoa điệp thiện tri thì

Hoa điệp ưng tu cộng ứng kì

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn

Mạc tri hoa điệp hướng tâm trì”

(Xuân sang, hoa bướm khéo quen thì

Bướm liệng, hoa cười vẫn đúng kỳ

Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo

Thây hoa mặc bướm để lòng chi)

Phù Thúc Hoành và Ngô Chi Lan cả cười. Phù Thúc Hoành lắc đầu:

– Ngọc Thư càng ngày càng luyến ái các vị thiền sư rồi đấy… Chẳng lẽ trong hàng trăm tao nhân mặc khách ghé qua Cầm Thư quán, em không thấy vừa ý một ai?

Ngọc Thư vuốt nhẹ mái tóc. Ngô Chi Lan nhấp một ngụm rượu rồi ngẫm nghĩ, suy tư:

– Cách đây hai năm, chị tình cờ nghe một buổi giảng đạo chùa An Quốc, khí độ cao sang. Khi ấy, vị trụ trì đang hỏi đồ đệ về lẽ sinh trong trời đất. Các sư đều trả lời rằng do khổ mà nên… Chỉ có một nhà sư trẻ tuổi, khí độ cao sang, khác người cho rằng: “Nguồn gốc của sinh là đi từ nhị nguyên tới nhất nguyên.”

– Ta thiết nghĩ vị sư đó mới thực là đắc đạo! - Phù Thúc Hoành tiếp lời - E rằng chùa An Quốc chẳng giữ nổi chân con người đó…

Ngọc Thư cười khúc khích:

– Đã tu thì phải thành Phật chứ tu thành người, e rằng vị sự đó chưa đắc đạo thật đâu…

– Ta nghe nói nhà sư ấy dã dong thuyền giữa biển khơi, giờ chẳng biết phiêu dạt phương nào…

Đã cuối giờ Tị, Ngọc Thư liếc nhìn qua tấm bình phong. Nàng thở dài, khuôn mặt trở nên buồn bã. Ngày nào Ngọc Cầm cũng ngủ tới gần trưa, ngày nào cũng lặng lẽ chơi đàn sau tấm bình phong. Nàng cảm nhận thấy sự bất ổn, bấn loạn trong cung đàn của người em gái.

Vợ chồng Phù Thúc Hoành vừa lên thuyền ra về thì Ngọc Cầm mới vươn mình thức dậy.

Ngọc Thư xếp lại những cuốn sách lên kệ, để mặc tiếng đàn đủng đỉnh, đu đưa. Nàng đột ngột cất tiếng hát:

“Lửng lơ vừng quế soi thềm

Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng

Dao vàng bỏ đẫy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng

Đèn tà thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này…”

Ngọc Cầm ngừng đàn. Nàng không giấu nổi sự ngạc nhiên nhìn Ngọc Thư.

– Em đừng tưởng trong tiếng đàn của em có điều gì bất ổn chị không nhận ra…

Ngọc Cầm lặng lẽ quay mặt đi.

– Em đã dám làm chuyện gì thì em phải dám nhận chuyện ấy chứ! Đừng quay mặt đi như thế… Chị không muốn ngăn em lại, nhưng em cũng đừng đẩy mình vào ngõ tối…

Ngọc Cầm đưa mắt nhìn những cuốn kinh Phật đặt trên kệ sách.

– Chị cứ mê đắm theo Phật Thích Ca… nhưng Thích Ca đâu có cho chị sự khoái lạc mà chị đang khát khao! Hoa đào ngoài kia nở cho ai xem? Loài ong bướm đều là hạng tiểu nhân hết ư? Với kẻ đã lạnh lòng, hoa nở cũng như hoa tàn, thì cuộc đời này đâu còn nghĩa lý gì nữa…

Ngọc Thư lắc đầu đánh rơi chồng sách trên tay. Nàng nhìn ra ngoài những bông hoa đọng sương.

– Vị khách ấy đã làm em đổi khác quá nhiều… Em… không còn là Ngọc Cầm ngày xưa của chị nữa!

Ngọc Cầm hất tay đẩy cây đàn xuống đất. Dây đàn run lên!

– Thánh thượng khiến em cảm thấy cõi đời này nhạt nhẽo và nhàm chán… Ở trong vòng tay ngài, em vẫn mơ tới tiếng sóng biển xa khơi… Mặt hồ này chật hẹp quá chăng?

Khói từ nhang trầm lượn vòng trong khí trời ẩm ướt. Ngọc Thư lặng lẽ nhặt từng cuốn sách lên. Những cuốn sách vẫn xô nhau ngã trên kệ…

Khúc “Hải du” hôm nay chậm và lạnh đến ghê người. Đôi mắt Ngọc Cầm trở nên vô cảm. Tầng khói phủ uốn cong cành tre trĩu nặng. Mấy cánh hoa đào không ai bẻ cũng rơi…

Chú thích:

9 -Thơ Thiền của Giác Hải thiền sư.

H.T.N.