Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

THƠ JOHN ASHBERY

(1927)

Phan Nhiên Hạo dịch

JOHN ASHBERYJohn Ashbery sinh năm 1927 tại Rochester, bang New York. Học cử nhân ở Havard (1949) và cao học ở Columbia University (1951). Tác giả của hơn 20 tập thơ, kịch, phê bình nghệ thuật. John Ashbery có lẽ là khuôn mặt nổi bật nhất của thơ ca Hoa Kỳ hiện nay. Tập thơ “Self-Portrait in a Convex Mirror” in năm 1975 của ông nhận được cả ba giải thưởng: Pulizer, National Book Critics Circle Award, và National Book Award. Ông cũng được trao tặng rất nhiều giải thưởng, huy chương, và trợ cấp nghệ thuật danh tiếng khác. John Ashbery hiện dạy học tại Bard College, bang New York.

Cùng với Frank O’Hara, John Ashbery là nhân vật chủ lực của trường phái thơ New York (mặc dù chính Ashbery nghi ngờ sự tồn tại của cái gọi là “trường phái thơ”). Thơ Ashbery kết hợp tính thể nghiệm với truyền thống, cảm xúc cao nhã với ngôn ngữ hàng ngày, cảm quan bi đát với tính châm biếm. John Ashbery quan tâm mô tả cái kinh nghiệm sống động của việc sáng tạo hơn chính kết quả sáng tạo, đề cáo ấn tượng tức thời hơn sự hoàn hảo. Thơ John Ashbery khó đọc vì những liên tưởng văn hóa hàn lâm, sự thay đổi liên tục của giọng điệu và ngôn ngữ, sự vụn rời của mạch thơ. ảnh hưởng bởi tính tự động của Siêu Thực và hội họa Biểu Hiện Trừu Tượng, thơ Ashbery đầy những hình ảnh dường như không ăn nhập gì với nhau, những liên tưởng bất ngờ và rất thường khi vô nghĩa. Thông qua hình thức phức hợp này, thơ Ashbery nỗ lực nắm bắt những tác động của đời sống đô thị, đặc biệt tác động của thông tin, lên tâm thức con người hiện đại.

Một số tác phẩm tiêu biểu:

Some Trees (1956),The Tennis Court Oath (1962), Selected Poems (1967), Three Madrigal (1969), Fragment (1969), Evening in the Country (1970), The Vermont Notebook (1975), Self-Portrait in a Convex Mirror (1975), Houseboat Days (1999), As We Know (1979), A Wave (1984), Three Books (1993), Your Name Here: Poems ( 2000), Chinese Whispers (2002)...

Glazunoviana

Tên đàn ông đội mũ đỏ

Với con gấu xứ lạnh, cũng ở đây sao?

Khung cửa sổ nhìn ra bóng râm

cũng ở đây sao?

Và tất cả những trợ giúp nhỏ nhặt,

Tên ký tắt của tôi trên bầu trời,

Đụn cỏ khô đêm mùa hè miền cực?

Con gấu

ngã chết trong tầm nhìn cửa sổ

Những bộ lạc đáng yêu vừa chuyển lên phương bắc.

Trong bóng tối nhập nhoạng nhạn bay ra dày đặc

Những dòng sông của cánh vây bủa chúng ta và mênh mông phiền não.

Khi đặt tên say lên phà đưa thư

Tôi thử từng thứ một, chỉ vài thứ bất tử và miễn phí.

ở một chốn khác ta ngồi trong ánh sáng ngày

Thong thả, lọc xuống,

Đợi chờ ai đến. Ngôn từ cay nghiệt cất lên,

Trong lúc mặt trời nhuộm vàng tán xanh cây phong...

Vậy đấy, nhưng trong mơ hồ

Tôi đã nhận ra xao động của hơi thở mới trên những trang sách

Suốt mùa đông dài bốc mùi một thư mục cũ

Những câu chữ mới khởi động. Mùa hè

tốt tươi, chưa đi quá hết nửa đường

Tràn đầy bí ẩn hứa hẹn về sự viên mãn,

Lúc chẳng ai còn có thể lang thang

Thậm chí kẻ vô tâm nhất cũng im lặng

để ngắm một điều chuẩn bị xảy ra.

Cái nhìn thủy tinh giữ lại

Và ngươi run rẩy dấn lên: rằng ta là kẻ bị nhận diện?

Họ đã chú ý đến ta, lần này, đúng như chính ta

Hay trì hoãn nữa? Bầy trẻ

Hãy còn đang chơi, đám mây vươn lên trời chiều

Nôn nóng nhanh nhảu, để rồi tan đi

khi hoàng hôn đến đậm đặc trong trẻo.

Chính ngay trong hồi còi tàu

Dưới đó, một thoáng, tôi nghĩ

sự vụ chính thức vĩ đại bắt đầu, giao hưởng,

Màu sắc tập trung thoáng chốc, một bài ballade

Thâu tóm toàn bộ thế giới, nhẹ nhàng,

hãy còn nhẹ nhàng, nhưng với uy quyền và sự khéo léo.

Sự thắng thế của tàn tro xám đang rơi?

Những vẩn bụi mặt trời. Ngươi đã ngủ dưới nắng

Lâu hơn tượng sphinx, mà chẳng biết gì hơn.

Vào đi. Tôi ngỡ bóng ai đổ ngang khung cửa

Nhưng đó chỉ là nàng đến hỏi thăm lần nữa

Liệu tôi sẽ vào, nếu chưa, không cần vội vã.

Huy hoàng của đêm đã hiện. Mặt trăng xanh xao dòng đạo citeaux(1)

Leo lên ngự đỉnh thiên đàng, yên vị,

Sau cùng tham dự vào trò của lũ bóng tối.

Một tiếng thở dài từ những sự vật nhỏ bé trên đất,

Sách, báo, nịt tất cũ và các bộ nút quần áo công đoàn

Giữ trong hộp trắng các-tông đâu đó, tất cả

Phiên bản kém hơn của những đô thị dẹt ra trong đêm bình đẳng.

Mùa hè đòi hỏi và lấy đi quá nhiều,

Nhưng đêm, kẻ dè dặt, trầm lặng, cho nhiều hơn nhận.

(1) Citeaux: một nhánh tu xuất phát từ dòng Benedictines, nhưng khắc kỷ hơn, thành lập năm 1098 ở Cistercium (Cyteaux) (ND)

Và nàng tên Ut pictura poesis (1)

Không thể tuyên bố điều này vậy nữa.

Băn khoăn bởi cái đẹp ngươi phải bước

Ra ngoài, nơi thoáng đãng,

Nghỉ ngơi. Chắc chắn chuyện buồn cười nào có xảy ra

Cũng tốt. Đòi hỏi hơn nữa sẽ là kỳ quặc

Ngươi, kẻ có nhiều tình nhân,

ngưỡng mộ sẵn lòng

Chìu chuộng mọi sự, nhưng ngươi cho rằng

Chuyện này không phải, nếu mà họ biết rõ ta...

Quá nhiều phân tích. Còn bây giờ,

Phải nhét gì vào tranh-thơ:

Hoa luôn dễ thương, cụ thể là hoa phi yến.

Tên những đứa trai ngươi một lần biết, xe trượt của chúng,

Tên lửa được lắm—nhưng liệu món này còn ở trên đời?

Còn nhiều thứ nữa chất lượng cũng bằng

những thứ vừa nêu. Lúc này nhất thiết phải

tìm vài từ quan trọng, và nhiều từ thường,

những từ cùn cùn. Nàng tiếp cận tôi

về việc mua lại bàn giấy. Đột nhiên đường phố

lên cơn vang ầm những nhạc cụ Nhật.

Chúc thư buồn tẻ vung vãi khắp nơi. Đầu hắn

nhập vào đầu tôi. Chúng tôi là trò bập bênh. Phải

Viết đôi điều về chuyện này ảnh hưởng ra sao

Đến kẻ làm thơ :

Sự khắc kỷ cực độ của một đầu óc gần như trống rỗng

Va chạm với cơn hứng tình, trang trí lá cành theo kiểu Rousseau của nỗi khát khao

giao cảm

Một điều gì đó, dù chỉ vì

Kẻ khác và lòng mong muốn của họ để hiểu được ngươi, rồi rời bỏ ngươi

Tìm những trung tâm giao lưu khác, để sự thông hiểu

có thể bắt đầu, và cứ vậy mà được cởi bỏ.

(1) “Ut pictura poesis”, viết tắt “u.p.p.”, đại ý “thơ ca giống như hội họa”. Đây là quan niệm kinh điển của Horace (65-8 B.C.) , cho rằng thơ rất gần với họa, đặc biệt trong khía cạnh “trình bày” hiện thực (ND)

Phiên Bản Khiêu Gợi Của Ta

Hắn nói hôm nay chẳng muốn làm gì .

Tốt thôi. Trong bóng râm

Sau ngôi nhà, ngăn khỏi tiếng động đường phố,

Người ta thể ôn lại mọi cảm xúc xưa

Ném cái này đi, giữ cái kia lại.

Trò chơi chữ

Giữa chúng ta trở nên trầm trọng khi chỉ còn lại

Vài cảm xúc khả dĩ khiến mọi sự nhập nhằng.

Một ván nữa chăng? Thơi, nhưng những điều cuối

Ngươi luôn tìm ra để nói thì thật duyên dáng, và giải cứu ta

Trước khi bóng đêm giải cứu. Chúng ta lênh đênh

Trên những giấc mơ như trên xà-lan băng tuyết,

Tan rã trước những nghi vấn và những vệt rạn ánh sao

Giữ gìn ta luôn tỉnh thức, chiêm nghiệm về những giấc mơ

Trong khi chúng đang diễn tiến. Chỉ là sự cố. Ngươi nói.

Ta nói thế nhưng ta có thể giấu đi. Nhưng ta không chọn làm như vậy.

Cảm ơn. Ngươi là kẻ rất đáng mến.

Cảm ơn. Ngươi cũng vậy.

Nguồn: Sách “15 nhà thơ Mỹ TK XX”, NXB Hội Nhà Văn, 2007