Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Thơ Nguyễn Huy Hoàng

Nguyen Huy HoangNguyễn Huy Hoàng. Quê quán: Hà Tĩnh. TS Ngữ Văn. Nghề nghiệp: Giảng dạy, Nghiên cứu văn học. Hiện sống và làm việc tại Matxcơva - LB Nga. Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam
Tác phẩm đã in
- Ngoảnh lại (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 1995
- Dư âm (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 1996
- Phía bên kia trời (Thơ) NXB Văn học Hà Nội 1999
- Miền yêu thương (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 2002
- Đa mang (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 2005
- Matxcơva thời mở cửa (Truyện Ký) NXB Sáng tạo, Matxcơva Liên bang Nga 1998, NXB Văn hoá Hà Nội tái bản 2002
- Vẫn còn có bao điều tốt đẹp (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 2008
- Giữa thanh thiên, bạch nhật (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 2009
- Một thời tôi từng có (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 2012
- Đếm bước cuộc hành trình (Ký sự) NXB Lao động, Hà Nội 2012
- Canh ngọn đèn đợi sáng (Thơ) NXB Văn học, Hà Nội 2013
- Mưu sinh (Ký sự) NXB Hà Nội 2014
- Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX (Giáo trình) NXB Đại học Tổng hợp, Hà Nội 1998
- Thi pháp truyện ngắn N. Gogol (Chuyên luận) NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001


Những ngày xanh, không trở lại bao giờ...

Buổi sáng này, tôi đã gặp ở đâu?
Cây ướt đẫm, trời giăng làn mây mỏng
Nhà bên núi, chợt mờ, rồi chợt hiện
Đường ven đồi, nằm lẩn khuất trong sương
Suối rì rầm, lau xao xác trên nương
Vồng hoa cải, bê lạc bầy, gọi mẹ...
Tôi đã có một ban mai như thế
Đã lâu rồi, thưở ấy, ở Sơn La.

Xa lắm rồi, bao ngày tháng trôi qua
Nương ven núi đã mấy mùa hoa cải
Tôi vẫn nhớ con bê vàng cuối bãi
Trên cổ khua chùm lục lạc vang đều
Ngẩn ngơ nhìn bên phía suối trong veo
Cô gái Thái ngâm mình, nghiêng tóc xõa
Dường như chẳng có gì, mà rất lạ
Một mảnh lòng day dứt nhớ Sơn La.

Buổi sáng này, như sớm ấy, năm xưa
Sương giăng kín, lá rơi vàng lác đác
Xui tôi nhớ đám mây miền cổ tích
Trong giấc mơ lãng đãng cuối chân trời
Chưa kịp gần đã quá đỗi xa xôi
Tôi đánh mất điều mình chưa kịp có
Còn da diết, xốn xang lòng một thưở
Khi sáng nay, như sớm ấy đang về?

Tôi hiểu rằng, tôi đã bỏ ra đi
Với tuổi trẻ không một lời tiễn biệt
Nếu gặp lại con bê, chùm lục lạc
Con suối trong, luống cải chớm hoa vàng
Đường ven đồi, lau xao xác trên nương
Chắc chẳng thể như tôi từng thổn thức
Kho báu vật, tôi vô tình đánh mất
Những ngày xanh, không trở lại bao giờ...


Em sẽ gặp bến bờ mùa thu ấy

Cứ lẩn thẩn hình dung nhiều năm nữa
Em ra sao khi tóc bạc, da mồi?
Lưng chùng xuống, bước ra đường khó nhọc
Liệu em còn đủ nhớ, nhận ra tôi?

Chắc khó lắm, bởi vì tôi cũng vậy
Cũng tháng năm vắt kiệt mảnh thân tàn
Sóng xô dạt, bờ bạc đen số phận
Chọn tôi làm hình phạt chốn trần gian

Và khi đó, hai bóng hình tiều tuỵ
Lúc nhớ quên, lúc vô cớ buồn vui
Đáng nguyền rủa thời gian sao nghiệt ngã
Chẳng mồ sâu, tuổi trẻ vẫn chôn vùi

Tôi nhớ mãi tóc em lùa trong nắng
Gió mùa thu chải xanh mướt khung trời
Và mỗi lúc nụ cười em toả rạng
Lá ven rừng cũng muốn ghé làn môi

Tôi đã viết những vần thơ đau đớn
Đã bao đêm cùng gạch xóa, giãi bày
Từng cay đắng ngỏ lời trên trang giấy
Liệu em còn cất giữ đến hôm nay?

Tôi những muốn, khi đêm về nhức mỏi
Em lần trong ký ức cũ xa xăm
Chong đèn đọc những vần thơ quên lãng
Sẽ giống như uống giọt thuốc an thần

Em sẽ gặp bến bờ mùa thu ấy
Tuổi hoa niên chói sáng của một thời
Sẽ gặp bóng người gieo hồn trên giấy
Gửi đêm dài, gặt lấy những rụng rơi...


Giật mình

Lạ kỳ đã mấy tháng nay
Nửa đêm trở chứng lại hay giật mình.

Phải đâu dồn dập hung tin
Trung Đông nổi lửa, đao binh động trời!
Phải đâu vật chuyển, sao dời
Đất bằng dậy sóng, lòng người đổi thay!

Cuộc cờ phó thác rủi may,
Hẩm duyên nhớ mướn, thương vay cuối đời
Mang hồn gửi nắng trăm nơi
Giật mình, hoá khói lên trời hư không.

Cũi lồng nhốt vận long đong
Buông câu, thả lưới, vẫn trong bể trần
Cá vàng đã lặn biệt tăm
Giật mình, máng vỡ cuối sân tan tành.

Năm tàn xót những ngày xanh
Lá rơi ngồi tiếc thân cành trụi trơ
Mỏi tay vẫy bến xa mờ
Giật mình, vực thẳm xói bờ thời gian


Nghe mùa thu gọi

Bao lần từ độ trăng lên
Đêm đem vạt áo dãi trên lá vàng
Chờ cho gió lặng, sao tàn
Áo khăn gói mối sầu giăng, tôi về

Một mình với mảnh trăng quê
Một mình và cả tứ bề mênh mông
Một mình tôi, một tấc lòng
Đêm thu trải hết lên nong lá buồn

Hôm qua trời đổ trăng suông
Lá rơi, in dấu chân sương ngỡ ngàng
Tôi nâng lấy chiếc lá vàng
Nghe mùa thu gọi trong làn hương khuya


Tiếng gọi

Bỗng trong mưa bụi trắng trời
Tiếng ai nhắn gọi, hay lời tháng năm?
Dặm về, nẻo vắng xa xăm
Chiều đông thấm mỏi bước chân độc hành

Đâu rồi, bếp rạ, mái tranh
Đâu rồi, lối ngõ uốn quanh xóm nghèo?
Sân đình, bến nước trong veo
Cây đa đêm hội, trăng treo. Đâu rồi?

Tìm đâu ra giữa quê người
Cỏ xanh đầu bãi, chiều phơi nắng vàng
Rặng tre nghiêng xuống giếng làng
Bóng ai tóc xõa, trăng loang vai mềm

Chập chờn nhớ giữa trời quên
Lòng quê lãng đãng trên miền mộng mơ
Chiều đông, mưa tuyết mịt mờ
Quê hương xa vắng, dường như nhắn về...


Làng quê Nga hoài niệm

Hai mươi năm trước, tôi tìm đến
Tháng Năm xanh thắm cỏ chân đồi
Bên hồ lấm tấm hoa ngân tước
Cô gái chân trần, tóc nắng phơi

Bà mẹ người Nga, cười đôn hậu
Buộc tấm khăn san, mở cổng vườn
Gió sớm khẽ lay hàng dâu dại
Tràn ngập căn phòng hương táo thơm

Cốc kvat đỏ như màu mận
Sủi bọt men chua uống tỉnh người
Chiêc bánh ra lò còn bỏng giẫy
Sơn hào cũng đến thế này thôi!...

Nhà mẹ Nga xưa, tôi về lại
Hỏi mãi, tìm ra lối qua làng
Chợ nông trang cũ tường xiêu vẹo
Bãi chăn nuôi giờ bỏ phế hoang

Vườn xưa cánh cổng um tùm cỏ
Nhà trống, gió lùa, bếp lạnh tanh
Tấm thảm ố vàng, mưa dột thấm
Phủ mờ, bụi bám những bức tranh

Ông lão đưa đường thờ thẫn kể
Trai làng đi hết, chẳng còn ai
Xóm trên còn độ dăm con trẻ
Già cả như tôi, chỉ mươi người

Ơn Chúa, có bà còn tốt phước
Mỗi năm con đến một đôi lần
Còn thì, như lá thu sắp rụng
Ngồi chờ Thần Chết ghé qua thăm

Tôi có đứa con lên thành phố
Làm ăn, nghe nói khổ trăm bề
Thân nó, nó lo còn chưa đủ
Tôi già, biết vậy, có mong chi...

Suốt chuyến xe về, lòng trĩu nặng
 Làng quê thưở ấy, thế này sao?
Đâu rồi người mẹ Nga đôn hậu
Trùm tấm khăn san, tựa cổng rào?


Đêm Valentine

Thành phố ngập sắc màu, tuyết dịu dàng rắc phấn
Đêm lung linh, náo nhiệt suốt canh khuya
Sau cửa kính, nến hồng, hoa thắm đỏ
Níu bàn chân du khách dạo trên hè

Trên quảng trường, dòng người như trẩy hội
Từng cặp đôi ấm áp áo lông choàng
Say men rượu, mắt tràn trề hạnh phúc
Tôi một mình lạc lõng giữa trần gian

Trên sàn nhảy, sao thiên hà mờ ảo
Những gót hồng lướt theo nhạc du dương,
Chọn cho mình chiếc bàn con góc vắng
Gọi cà phê, tôi nhấp nháp nỗi buồn

Một cô gái phấn son, còn trẻ lắm
Ghé tai tôi: nếu anh có đủ tiền
Tôi cùng anh sẽ thuê phòng khách sạn
Đến hết đời, anh chẳng thể nào quên!

Anh đừng ngại, tôi biết anh cô độc
Đêm Valentine, anh chỉ có một mình
Ai cũng vậy, khi đơn côi, trống rỗng
Cần người tình và cốc rượu sămpanh

Tôi kéo ghế, mời cô ngồi bên cạnh
Gọi sămpanh và bước lại quầy hoa
- Ba trăm rúp một bông! - người bán hàng cao giọng
- Cho năm bông, giấy kính, buộc lenta!

Cô cầm lấy, tôi trao tay cô gái
Những bông hoa rực đỏ một góc tường
Nỗi lận đận, bọt bèo nơi đất trích
Lòng dùng dằng ca kỹ bến Tầm Dương*

- Tôi là ai, chắc rằng anh đoán biết
Bước sa cơ, chân sụp xuống vũng bùn
Đã bao phen liều mình, không muốn sống
Lại cùng đường, kiếp nạn vẫn không buông...

- Tôi cũng vậy, kẻ hàng binh số phận
Cũng rơi rụng, đắng cay, câu chuyện rất dài...
Cô trẻ, đẹp, tin rằng cô hạnh phúc!

Mắt đượm buồn nhìn tuyết phất phơ bay...
-------
* Địa danh trong "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị

Đêm  8 - 3

Đêm khuya khoắt, bên vệ đường lầm bụi
Chị nhà quê dáng run rẩy, co ro
Tay cóng lạnh, ôm bó hoa ế ẩm
Chân dại tê, nhẫn nhục đứng hàng giờ

Xe nườm nượp, nam thanh cùng nữ tú
Các quý ông thời thượng mượt bóng đầu
Khoác tay các quý bà diêm dúa
Đang trưng ra một thế giới sang giàu

Bỗng nhiên một chàng trai ghé lại:
- Hoa bao nhiêu? Chị mang hết ra đây!
Chị nhà quê trước vận may nghẹn giọng
- Dạ thưa ông, tất cả mỗi ngần này!

- Chị ở đâu?
- Tận ngoại thành, xa lắm!
- Ngày hôm nay có ai tặng chị hoa?
- Loại như tôi, xin ông đừng mai mỉa
Có bao giờ mơ những thứ cao xa!

- Chị hãy về với chồng con kẻo muộn
Tôi sẽ mua tất cả bó hoa này
Xin tặng chị!

Chị nhà quê oà khóc
Giọt lệ nhoè, rơi nóng cả bàn tay


Thầy giáo làng

Giở trang sách xưa, trên xứ người, lại nhớ
Thưở bát gạo vơi cõng khoai sắn đáy nồi,
Nhớ Thầy giáo trường làng giảng bài Địa lý
Đồng Bắc Bộ phì nhiêu, bát ngát ruộng Tháp Mười

Mỏ vàng Bồng Miêu, than đen Hồng Quảng
Sản vật đầy rừng, cá quẫy đặc sông
"Và các em, một ngày không xa nữa
Xã hội phồn vinh, thế giới sẽ đại đồng!"

Như giữa quảng trường, giọng Thầy sang sảng
Tay giơ cao, mắt sáng, ngẩng cao đầu
"Rồi mai đây nước nhà công nghiệp hoá
Không còn giàu nghèo, sẽ bình đẳng như nhau..."

Thầy nghỉ hưu, ra đi trong túng thiếu
Những năm tám mươi, đói gõ cửa từng nhà
"Tam xuân tích bệnh, bần vô dược"*
Câu thơ vận vào đời, xưa Thầy vẫn ngâm nga

Thầy chưa từng một lần ra khỏi huyện
Nhưng trên tấm bản đồ, Thầy đi khắp thế gian
Cây thước gỗ, bảng đen, đã ngàn lần xuyên Việt
Từ vịnh biển thẳm sâu đến chót vót đại ngàn

Con đã đến những nơi Thầy chỉ giáo
Cao nguyên Di Linh, Bồng Miêu, Hồng Quảng, Tháp Mười...
Cả những nơi cổ thư chưa từng viết
Bạch Hổ, Yên Tử, Vũng Tàu... rốn dầu tận ngoài khơi

Con đã gặp những người dân rời nhà đi lạc xứ
Nghe khúc hát ly quê thắt ruột ở đất người
Con đã qua những cánh rừng cháy trụi
Dù hết bom đạn chiến tranh, lửa tắt lịm lâu rồi

Mâm cơm vẫn thế thôi, những người dân vỡ ruộng
Quanh năm lo đói ăn, lo thất bát mùa màng
Những đưa trẻ giống con xưa, ngồi lưng trâu lại đọc
"Nước ta giàu tài nguyên, có biển bạc, rừng vàng..."
----------
* Thơ chữ Hán, Nguyễn Du:"Ba năm mang bệnh, nghèo không thuốc"


Đọc hồi ký

Được tặng cuốn hồi ký
Dày những ba trăm trang
Cả núi sách trên giá
Chẳng quyển nào đẹp bằng

Nhân vật trong tự truyện
Khiêm tốn viết về mình
Một cuộc đời lăn lộn
Mà không kém lung linh

Tuổi thơ đầy gian truân
Túp lều tranh, vách đất
Rồi dành cả tuổi xuân
Lên đường đi đánh giặc

Và khi có cương vị
Tầm nhìn mấy chục năm!
Phò dân và giúp nước
Sống ngay thẳng, thanh bần

Đọc xong thật cảm động
Như tiểu thuyết chương hồi
Chỉ có điều, tác giả
Kể về người nào thôi!


Hưu rồi

Đã hưu ngót nghét năm trời
Xót xa, tiếc nuối cái thời chưa hưu
Lâu đài, biệt thự quạnh hiu
Lối xưa, xe ngựa dập dìu bấy nay

Hưu là như thế này đây:
Chẳng còn xếp nọ, xếp này, kính thưa!
Hết thời kẻ rước, người đưa
Quen theo cửa trước, lạ chờ cửa sau
Hứng lên, chém gió vài câu
Khiến cho khối kẻ rập đầu, dạ ran!

Từng đêm lén mở ngăn bàn
Xấp xanh, tờ đỏ xếp tràn phong bao
Thôi thì váy ngắn, chân cao
Thôi thì đặc sản, năm sao ê hề
Cửu trùng lọng đỡ, ô che
Phì gia, ấm tử, phong thê một đời
Đã hưu thấm thoắt năm rồi
Mà sao vẫn cứ rụng rời chân tay

Hưu là như thế này đây:
Chẳng ai lai vãng, tối ngày vào ra
Mới vừa thưa gửi, lân la
Hưu rồi, giáp mặt, như là người dưng
Mặt trơ, mày dạn, lạnh lùng
Hẫng người, ngượng buốt sống lưng, ê chề
Kinh vàng, ý ngọc xưa kia
Hỡi ôi, giờ đố ai nghe một lời!

Chiều chiều ngồi ngắm cơ ngơi
Xót xa đứt ruột, tiếc thời chưa hưu


Nơi từng là trận địa

Những chiến tích không mảy may dấu vết
Ụ pháo, hố bom, công sự, chiến hào
Đều biến mất.
Bên lô nền chia sẵn
Mấy toà nhà to vật vã, bọc tường cao

"Nhà của thằng thời thanh niên trốn lính
Bà bán nước chè, nhổ toẹt miếng trầu tươi
Ngao ngán kể.
 Nó chui vào bệnh viện
Giả ốm đau, điên dại mấy năm trời!

Bom đạn hết, nó về làng béo tốt
Nhâng nháo giang hồ, ra Bắc vô Nam
Trùm vay lãi, đòi nợ thuê, chém mướn
Ai nhắc tên cũng táng đởm, kinh hồn

Ai cũng gọi nó là ông, là xếp
Mặc bảnh bao, xe bóng lộn lên đời
Nhà nườm nượp rước quan này, quan nọ
 Em út về trổ hết ngón ăn chơi

Nó vơ hết đất đai vào dự án
Ruộng thổ cư bù giá rẻ như bèo
Cả di tích chiến tranh, san bằng hết
Lắm ô dù che chắn, đố ai kêu!

Tiền bạc nó giờ phải đo bằng khối
Trước mặt xưng ông, sau dân cứ gọi thằng
Chẳng ai dám nói nó ngày xưa trốn lính
Mấy năm trời chui bệnh viện trùm chăn!"

Trận địa cũ chẳng còn đâu dấu vết
Chỉ quán ăn, nhà chia khoảnh, phân nền
Xe san sát xếp hàng bên hàng nhậu
Quán đèn mờ hát xướng suốt thâu đêm

Những đồng đội, trời cho, còn sống sót
Trở về quê lại lam lũ trên đồng
Khi rỗi việc, thừ người châm điếu thuốc
Lại nhớ thời khói lửa, mắt rưng rưng...


Quan xưa*

Một đàn xiểm nịnh vây quanh
Vai cao, đầu thấp, tay khoanh trước thềm
Từ ngài danh phận chửa nên
Đến ông nức tiếng võ biền tứ phương

Ghế quan ngự giữa công đường
Đuôi nheo, cờ phướn rủ buông hai hàng
Bát âm, đàn sáo nhặt khoan
Át đi bao tiếng kêu van cửa ngoài.

Mặc năm thất bát sắn khoai
Dân đen rã họng, giêng hai ăn mày
Nông phu bỏ ruộng không cày
Lìa quê tan tác chân mây cuối trời;
Mặc nơi biên ải xa xôi
Ngoại bang dòm ngó chờ thời tràn sang.

Còn đây, ngay giữa phủ quan
Ăn chơi, hát xướng ngày tàn, canh khuya
Mỹ nhân muôn nẻo cống về
Bạt ngàn vật lạ, ê hề của ngon
Trên là vàng, dưới là son
Dân có còn, nước có còn, mặc bay!
-------------------------
*Kính dâng hương hồn cụ Phạm Duy Tốn – tác giả "Sống chết mặc bay"



Thăm mẹ chị thanh niên xung phong

Chị được đưa về làng
Ba bốn năm về trước
Tiểu sành phủ quốc kỳ
Có xe kèn đón rước

Mẹ già ngoại tám mươi
Thoả một niềm mong ước
 Không tìm thấy mồ con
Chết không nhắm mắt được!

Chị ra đi mười bảy
Ngã xuống tuổi đôi mươi
Chưa có ai để nhớ
Chưa ai gửi một lời

Chưa một ngày nhàn hạ
Bạt đất đá, san đồi
Hết ngủ hầm, ngủ lán
Thế rồi... loạt bom rơi...

Một năm mười hai tháng
Một tháng ba chục đêm
Bốn mươi năm đằng đẵng
Bóng mẹ canh ngọn đèn

Nước mắt hầu đã cạn
Gian bếp lạnh vào ra
Bữa không buồn nhóm lửa
Cửa thông thống gió lùa

Một đời thân góa bụa
Trời thì xa, đất gần
Trút hơi tàn nằm xuống
Biết ai lời trối trăng?

Ngồi với mẹ một giờ
Nơi một đời mẹ sống
Lòng nhói tận nỗi đau
Trái tim già vô vọng.


Matxcơva bây giờ đã khác

Matxcơva bây giờ đã khác!
Dù tháp thờ vẫn ngự giữa trời cao
Tuyết vẫn trắng, sông vẫn êm đềm chảy
Rừng bạch dương muôn thưở vẫn rì rào

“Matxcơva không tin vào nước mắt”*
Không mơ màng bánh vẽ chín tầng mây.
Đêm choáng lộn phơi trần lưng phố cổ
Thần tượng chen cùng quảng cáo trưng bày

Thước đo cũ bỏ đi không dùng nữa
Điều thiêng liêng, thần tượng đã xưa rồi
Cả khúc hát cũng lạc bè, sai giọng
Niềm vinh quang, nay thay mốt, lỗi thời

Mốt thời thượng phô mình trên phố xá
Nét vàng son pha lẫn với tân kì
Nơm nớp sống giữa thực hư, thật giả
Giữa thấp hèn và trang trọng, uy nghi

Matxcơva - thiên đường cao vòi vọi
Của lớp người gặp vận, mới phất lên!
Matxcơva, đáy thẳm sâu cơ cực
Của những người Nga nhỏ bé, thấp hèn!

Bao quý ông từng ôm hôn cờ đỏ
Thấy cảnh ăn xin, giờ chẳng động lòng
Đám thanh niên kẻ say mê băng nhóm,
Kẻ phớt đời trước mọi cảnh hưng vong.

Vẫn còn lại những người dân chất phác
Nói chuyện bể dâu chỉ mỗi biết lắc đầu.
Matxcơva bây giờ đã khác
Những cái nhìn đầy ắp nỗi lo âu.

------------------
* Tên một bộ phim nổi tiêng thời Xô viết


Vẫn như là người lính lúc ra đi

Người thương binh già qua đời sáng nay
Đồng đội cũ còn dăm người lác đác
Mắt nhoà lệ. Suốt một đời trận mạc
Những tấm lưng rũ xuống chiếc quan tài

Chiếc nạng gỗ nửa đời không thiếu được
Giờ thừa ra, lặng lẽ xếp bên tường
Dưới hốc tủ, những chiếc giày một phía
Trên ngăn bàn, đầy các loại huân chương

Con chó già bỏ ăn bên bếp lạnh
Nằm dài ra, hiểu rằng chủ không còn
Vòi nước cũ lâu ngày, không khoá chặt
Chảy giọt dài, giọt ngắn suốt đêm hôm

Một tấm áo màu hoa cà thấm máu,
Quyển vở rách bươm với chiếc nơ hồng
Theo trăng trối của người quá cố
Được đặt vào phía trái tim ông.

Người thương binh già qua đời sáng nay
Người ta liệm bộ áo quần quân phục
Ông cất kỹ hồi chiến tranh kết thúc
Vẫn như là người lính lúc ra đi!
                           Matxcơva 5 - 1997



Đọc Radisev*

"Các người chiếm hàng ngàn mẫu đất
Vô số lâu đài, dinh thự, điền trang
Vũ hội tiệc tùng, liên miên yến ẩm
Tôi tớ, con sen phục dịch hàng đàn

Mọi điều luật là roi da, gươm súng
Đám nông nô, những kiếp thợ cày
Sống hay chết, do các người định đoạt
Đòi tự do là chịu kiếp tù đày

Các người hãy thử nhịn ăn một bữa
Hãy ở trong lều chịu rét một đêm
Hãy bỏ một ngày nai lưng làm việc
Và thử tra chân vào khóa gông xiềng

Thì các người mới hiểu thế nào là đói
Hiểu thế nào là rách rưới, lầm than
Hiểu thế nào là mồ hôi, nước mắt
Và lòng dân sôi tận đáy căm hờn!

Tất cả các người đều đáng đem xử bắn
Chẳng cần luật sư, chẳng cần đến quan tòa
Tội của các người sáng tỏ như toán học!"
Tôi đọc những trang sách này trên chuyến tàu
từ Xanh - Peterbua tới Matxcơva.


Đoản khúc mùa thu

Tay đút túi, lang thang dọc vỉa hè
Phố vắng lặng, lòng vẩn vơ, trống trải
Hồn Mỵ Châu, gió vô tình thổi mãi
Lá vàng rơi như lông ngỗng ven đường

Giá có ai, nói với tôi rằng
Ở phía trước có một bàn tay vẫy
Ở phía trước có mắt ai ngóng đợi
Một làn môi thầm nhắc gọi tên mình!

Giá có ai nói với tôi rằng
Sau sa mạc là địa đàng, đất hứa
Sau cát bỏng và ngút ngàn cháy lửa
Là vườn cây, là mái lá yên bình!

Giá có ai nói với tôi rằng
Với cuộc sống chẳng bao giờ trễ muộn
Hãy đi tới, hãy dang tay đón nhận
Những món quà số phận sẽ ban cho!

Tôi sẽ lên đường, ngược cơn gió mùa thu
Để lại đằng sau nỗi lòng phố vắng
Niềm khắc khoải, những giấc mơ vô vọng
Ngựa chồn chân máng cỏ, bốn bức tường

Tay đút túi vẩn vơ, trống trải khôn cùng
Lá vàng rải dọc đường như lông ngỗng
Phố vắng lặng, chỉ trời xa trống rỗng
Làm thế nào đi hết được mùa thu


Giữa mưa thu ướt át

Không rả rích cơn mưa, cũng đã đủ buồn rồi
Thu đang đến, ào ào lá rụng
Mái hiên cũ, tường rêu mờ ướt sũng
Con đường mòn lầy lội dấu chân qua

Chút nắng hè, mới đó đã rất xa
Ngỡ mộng tưởng, ngỡ chưa từng có thật.
Cũng như em, phía chân trời tít tắp
Có hay không? Hay ảo ảnh xa vời?

Tuổi trẻ bỏ ta đi, viên đá cuội chìm rồi,
Những vòng sóng, dư âm còn sót lại
Như tiếc nuối, như mơ hồ nhắc mãi
Như bâng khuâng, điều đã có một lần.

Hỏi có gì bền mãi với thời gian?
Rồi tất cả thành bụi mờ dĩ vãng,
Cả mái hiên, cả bức tường rêu xám
Cả con đường tầm tã lá vàng rơi.

Và cả anh, cả em, cả bao người
Sẽ có lúc bỗng trở thành quá khứ,
Đến tên tuổi chẳng còn ai nhớ nữa
Như chúng ta chưa có mặt bao giờ!

Anh đầu trần đối diện với cơn mưa,
Với em ở phía trời xa tít tắp,
Thì có nghĩa một điều đang có thật
Vẫn còn ta giữa ướt át thu buồn...
            

Về Riazan

               (X.Exênhin, nhà thơ muôn đời của nhân dân Nga)
                                                    M.Gorki

Thật kỳ lạ, cứ bồi hồi, xao xuyến
Riazan dẫu bao bận tôi về.
Những đoàn người hành hương không dứt
Nơi sinh thành thi sĩ của đồng quê.

Tôi đứng lặng bên bãi sông bát ngát
Chú bê vàng thơ thẩn cánh đồng xa,
Bên hàng dậu, chó con nằm hóng nắng
Ngỡ Xecgây đâu đó phía sau nhà.

Con đường đất bụi mờ in bờ cỏ
Mảnh vườn thưa, nếp nhà gỗ khiêm nhường
Vẫn dáng mẹ áo choàng che kín cổ
Ngóng con về, lối ngõ lẫn đêm sương

Vẫn gióng giả từng hồi chuông cầu nguyện
Nắng đầu thu hong thắm dải rừng vàng
Cô thôn nữ, tóc phơi màu kiều mạch
Ngược gió chiều, phơ phất tấm khăn san.

Những luận thuyết, những giáo điều, thần tượng
Lần lượt thay qua dâu bể, chuyển vần
Còn nước Nga vẫn nghiêng mình ngưỡng vọng
Trước hồn thơ bất tử của thi nhân.

Dường như chỉ làng quê Nga nhân hậu
Mạch thi ca được nuôi dưỡng đời đời
Và âm thanh đàn oocgan muôn điệu
Vượt bến bờ đến với Tổ quốc tôi.