Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

Cuối tuần với Modiano

Chân Phương

Vivre, c’est s’obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.

RENÉ CHAR

Nghe tin mừng Patrick MODIANO vừa được trao Nobel – đây cũng là vinh dự lớn cho nền văn học Pháp với 15 Nobel Văn học – tôi lục tìm trong mấy kệ sách nhà mớ tiểu thuyết của Modiano để đọc lại. Thấy thiếu mấy cuốn – có lẽ cho mượn hay tặng bạn – tôi lái xe về Cambridge ghé nhà sách ngoại văn Schoenhof’s hi vọng tìm được vài đầu sách. Nhưng đã muộn, dân ghiền sách hoặc mê văn chương Pháp đã mua hết mọi trước tác của nhà văn Tân-Nobel; chỉ còn duy nhất một quyển suy nghiệm về lịch sử khô khan… Bèn quay về nhà, ngồi cạnh lò sưởi nhỏ với La Place de L’Etoile vừa nhâm nhi rượu vang cho qua đêm dài lập thu.

Sinh năm 1945 ở ngoại ô Paris ông bỏ đại học văn khoa sau năm dự bị và theo nghiệp văn bút từ đó. Tiểu thuyết đầu tay LA PLACE DE L’ ETOILE gây sự chú ý với giải Roger Nimier 1968; tiếp theo là LA RONDE DE NUIT và LES BOULEVARDS DE CEINTURE – ba cuốn truyện ông viết một hơi trong 5 năm thành bộ tam thiên (trilogie) về giai đoạn nước Pháp bị Hitler chiếm đóng. Đây sẽ là chủ đề xuyên suốt các trước tác về sau của Patrick Modiano. Giải Goncourt năm 1978 với tiểu thuyết RUE DES BOUTIQUES OBSCURES cùng giải Văn Chương Quốc Gia Grand Prix National des Lettres năm 1996 cho toàn bộ văn nghiệp là vài dấu mốc vinh quang trong cuộc đời của một văn hào bị phân thân liên tục giữa ký ức, bản sắc và số phận con người thăng trầm theo các biến động lịch sử.

Làm thơ từ lúc 9, 10 tuổi Patrick Modiano cũng có viết vài ca khúc. Bài đầu tiên của ông đặt lời là “Étonnez-moi Benoit” được Françoise Hardy hát năm 1968.

Nhưng máu văn chương đã lôi ông vào thế giới tiểu thuyết từ thuở 15 tuổi với nhiều phác thảo bỏ dở; cho đến mùa hè 1966 khi ông viết một mạch bản thảo La Place de l’Etoile và dứt điểm vào dịp Giáng Sinh. Đứa con đầu được nhà Gallimard xuất bản năm 1968 giúp cho tác giả nó đủ tự tin để sáng tác ngay sau đó La Ronde de nuit – phát hành năm kế tiếp. Cuốn sau này là một kiệt tác ngắn với cốt truyện và tình tiết tập trung quanh nhân vật mang bí danh Lamballe, vừa làm mật vụ Gestapo Pháp vừa tham gia kháng chiến nội thành Paris, một loại tính cách nhị trùng cộng bệnh lý lịch sử-văn hóa mà Modiano sẽ dàn dựng và đào sâu trong chuỗi tác phẩm hư cấu của mình. Lamballe là tiền thân cho nhân vật Lucien Lacombe, phim truyện sau này Louis Malle sẽ đạo diễn thành công theo kịch bản của Modiano. La Ronde de nuit đưa chàng nhà văn 23 tuổi lúc ấy vào danh sách các ngòi bút sáng giá của tạp chí uy tín Le Magazine Littéraire khi tổng kết 40 văn học thế giới 1966-2006. Bài nói chuyện giữa tác giả với tạp chí năm 1969 chung quanh hai cuốn truyện đầu tay cũng được đăng lại trong số báo đặc biệt này:

Jean Montalbetti: Có liên hệ gì giữa hai quyển sách?

Patrick Modiano: La Place de l’Étoile là bài toán Do Thái và chỉ có vậy. La Ronde de nuit không chỉ là nước Pháp thời Vichy. Khi viết, tôi lợi dụng không khí Paris dưới ách chiếm đóng, nhưng tôi đồng thời không muốn truyên kể của tôi bị ràng buộc vào một thời điểm. Trong cả hai cuốn, bao giờ cũng là sự tìm kiếm bản sắc. Cuốn đầu là bản sắc do thái, còn cuốn sau là sự trốn chạy bản năng khỏi mọi định hình bản sắc. Sự việc diễn ra trong một khung cảnh đạo lý, nhưng nhân vật của nó là một kẻ hoàn toàn thiếu tính chất đạo lý.

JM: Tại sao ông quyến luyến với một thời kỳ khi mà ông chưa có mặt trên đời?

PM: Đó là một thế giới trong đó tôi tìm thấy tất cả những gì ám ảnh mình – dù tôi không được biết nó. Sau ngày chiến tranh kết thúc, ta đã thấy hình thành một xã hội nhập nhằng đầy bọn trục lợi và đám thất thế. Trong thế giới ấy tôi tìm lại thứ cảm giác tôi thường xuyên có trong người là sự chông chênh không tìm ra điểm tựa. Lại còn một bầu khí công an của sự băng hoại luân thường. Khi tôi nghĩ đến giai đoạn Đức chiếm đóng, điều tôi lưu tâm không phải tính cách anh hùng ở vài người mà là sự thối nát và đớn hèn của đại đa số.

[...]

JM: La Ronde de nuit được ghi chú là tiểu thuyết. Nhưng nơi trang 148 ông thú nhận rằng các nhân vật của mình từng hiện hữu và được nêu đúng tính danh… Có phải đó chỉ là một xảo thuật?

PM: Tôi đã vận dụng một lối vọng tưởng huyền thoại (mythomanie) để có thể trộn lẫn sự thực với hư cấu. Cùng lúc tôi có cảm tưởng cách pha nhiễu này gây nên một thứ tâm trạng bất ổn đáng lẽ không xảy ra nếu độc giả biết được chắc chắn họ đang ở trong cõi tưởng tượng thuần túy hoặc là trong thực tế lịch sử. Xin nói thêm, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến đối với tôi hầu như họ là huyền thoại… Tôi nhìn ngắm họ như những kẻ đi dây rất quyến rũ. Tôi có cảm nghĩ mình sinh vào thời kỳ ấy, và khi nhắc gợi các xung đột của họ tôi cũng được quay về nguồn cội của mình.

[...]

Tôi có vài kỷ niệm khó quên với Patrick Modiano; ông là một trong số các nhà văn tôi khám phá sau tháng 4-75 trong những năm dài ngột ngạt về thông tin và tư tưởng ở Việt Nam. Cũng may khả năng ngoại ngữ đã cho phép tôi ung dung ngao du trong thế giới chữ nghĩa phương Tây trong khi ngoài đời các sách dịch văn học của Sài Gòn trước đó bị tịch thu, kết án, hay lén lút chuyền tay… Trong không khí bất an như thế, những trang văn trong La Place de l’Étoile hay La Ronde de nuit lại quyến rũ hơn vì tính chất nhá nhem lịch sử, nhập nhằng nhân tính thời nước Pháp bị Đức chiếm đóng – ít nhiều tương ứng với cả miền Nam lúc bấy giờ vẫn bị quân quản giới nghiêm khi mà bọn thua trận mang trên người đủ loại hóa trang để sống chung với phe thắng cuộc.

***

Rời khỏi Việt Nam sau này, tôi tiếp tục tìm đọc sáng tác mới của Modiano cũng như các biên khảo hoặc phê bình về nghệ thuật tiểu thuyết của ông, đặc biệt vào những dịp sang Pháp thăm mẹ vào mùa hè. Cho đến hôm nay ông đã cống hiến cho nền văn học – không riêng gì nước Pháp – 28 tác phẩm trong đó có cả hai tự truyện LIVRET DE FAMILLE và PEDIGREE để dựng lại chân dung nghệ thuật cho cha mẹ ông và chính quá trình hình thành nhà văn Patrick Modiano có người cha là một doanh nhân Ý-Do Thái quảng giao với giới quí tộc thượng lưu Pháp và bà mẹ diễn viên kịch nghệ gốc Bỉ. Có thể nói toàn bộ sáng tác ấy xoay quanh nỗ lực phục chế quá khứ bằng cách hư cấu những nhân vật quay về chốn cũ tìm kiếm hình bóng một người thân thuộc như cha mẹ, người tình, hoặc chính bản thân trong dĩ vãng như kẻ mất trí điều tra tông tích mình qua các trang tiểu thuyết Rue des Boutiques obscures/Con Đường của những Cửa Tiệm âm u được giải Goncourt 1978… Mối ám ảnh đó nằm cô đọng trong câu văn René Char mà Modiano đã mượn để mở đầu quyển tự truyện LIVRET DE FAMILLE: Vivre, c’est s’obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.

Như Victor trở lại Thụy Sĩ, ký ức còn vương mùi hương của Yvonne (Villa Triste) hay bóng hình Carmen ám ảnh Jean hai mươi năm sau lúc quay về mấy con phố Paris cũ (Quartier Perdu), kẻ kể truyện luôn luôn đi tìm một phụ nữ của kỷ niệm – Louki (Dans le café de la jeunesse perdue), Jacqueline (Du plus loin que l’Oubli), … Vì nội dung các tác phẩm Modiano quay đi quay lại là sự truy tìm quá khứ và những con người đã biệt tăm, các độc giả của ông phần nào sẽ tán thành khi Peter Englund, thư ký văn phòng Nobel, xưng tụng Modiano là “Proust của chúng ta hôm nay” qua những trang tả tình quyến luyến da diết không kém quan hệ Swann-Odette hay Marcel-Albertine thuở nào. Với giới sành văn chương diễm tình Pháp, sự mê đắm gần như hoang đường với mấy bóng hồng quá vãng đó còn nhắc thêm mối ám ảnh tâm thần của Gérard de Nerval với các kiều nữ Aurélia, Sylvie, Adrienne… trong Les Filles du Feu.

Nhưng với kẻ chịu khó so sánh bút pháp với văn phong thì hai nhà văn là hai đối cực. Proust thì gặm nhấm ký ức trong từng câu dài lê thê quá kích thước ngữ pháp thông thường, Modiano lại ngắn gọn kiệm lời khi trao cho bối cảnh địa lý – thay vì ngữ cảnh – chức năng dàn dựng mọi niềm ám ảnh. Theo tôi, phong cách ngắn, khô, tránh phân tích tâm lý hay độc thoại nội tâm của Modiano gần hơn với ngòi bút Marguerite Duras hay Georges Simenon:

Ils sont devant l’hôtel, ils font les cent pas. Elle attend l’auto qui doit venir la prendre pour la mener place de la Paix. Il y a peu de monde. Mais les autos passent sans arrêt. C’est un boulevard. HIROSHIMA, MONAMOUR Marguerite Duras.

Quand il revient du métro, le boulevard … était désert, et ses pas résonnaient… il pensait à l’homme qui, à cette heure, était peut-être encore à courir les rues, anxieux, évitant les coins sombres, cherchant un peu de sécurité dans les bars et les cafés. MAIGRET ET SON MORT. Georges Simenon.

Kỹ thuật dựng truyện phỏng theo thể loại hình sự của Modiano không chỉ giống Simenon về cách hành văn mà còn tương đồng về mẹo dàn dựng khung cảnh đặc thù tại Paris, London, vùng biển Normandie hay miền đồi núi Savoie-Thụy Sĩ… Nhưng sự vật dù cụ thể đến đâu vẫn bị vây bọc bởi một màn sương hoài niệm gần như vô định của một Từ Thức thời đại như Jean Claude Raspiengas đã nhận định về Modiano, “éternel égaré dans le Paris des réminiscences/ kẻ thất lạc đời đời giữa Paris của các hồi tưởng”. (La Croix, 3-10-2014). Nhưng kẻ thất lạc này là một phù thủy rành pháp thuật văn chương, biết huơ bút chụp bắt năm tháng đã qua và khiến cho các hồn ma hiện lại. Bí quyết ấy có khi đơn giản như một màn ảo thuật.

Les dimanches, surtout en fin d’après-midi, et si vous êtes seul, ouvrent une brèche dans le temps. Il suffit de s’y glisser. L’HERBE DES NUITS.

Nếu ta đơn độc, những ngày chúa nhật nhất là lúc xế chiều mở ra một khe hở thời gian. Ta chỉ cần lách mình vào.

CHÂN PHƯƠNG

Hingham Bay, trung tuần October, 2014