Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

“Câu chuyện vô hình” – Sự trỗi dậy của Con Người cá nhân

Hà Thủy Nguyên – nhà văn, biên kịch

http://sachkhaitam.com/files/product/1505/4160e101-5c4b-4cfc-80b5-15f7c1240819.jpgToàn bộ bài viết này không có mục đích phê bình hay lý luận. Tôi chỉ mong muốn kể lại “Câu chuyện vô hình” bằng góc nhìn của tôi. Trong vòng hai năm nay, đây là quyển sách có ý nghĩa lớn nhất với tôi. Tôi tìm được trong đó một sự lôi kéo mạnh mẽ từ Hamvas Béla, giành giật tôi khỏi vực xoáy của đám đông, bằng ngôn ngữ biểu trưng, bằng các nguyên mẫu cổ xưa, bằng một giọng văn mãnh liệt của Titan và trái tim của Thượng Đế.

Khi lần đầu gặp chị Nguyễn Hồng Nhung, dịch giả của tác phẩm này, và được biết về quyển sách, lòng kiêu ngạo khiến tôi cười thầm trong lòng: “Có gì mới mẻ đâu.” Nhưng khi bắt đầu đọc, mọi biểu tượng có trong tâm trí tôi đều tương ứng với sách, và chúng trỗi dậy mỗi khi Hamvas Béla nhắc đến. Sức mạnh của tri thức cổ xưa không nằm ở việc tạo ra điều mới mẻ với những cảm giác mới mẻ, mà nằm ở khả năng đánh thức. Đó có thể là lời gọi của Thượng Đế gửi đến tôi, đến tất cả những người nào đọc và thấu hiểu, thông qua ngôn từ của Hamvas Béla. Đó là sứ mệnh của ông: “bằng sức mạnh của ngôn từ tôi cần mở rộng sự siêu phàm”.

Hamvas Béla (1897-1968) là nhà văn, nhà triết học tâm linh lớn nhất của Hungary thế kỷ 20. Hamvas Béla cùng Kerény Káoroly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần tiếp nối truyền thống Hy Lạp cổ và thu hút được nhiều tên tuổi lớn của Hungary lúc bấy giờ. Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936), nhóm Đảo tan rã. Trong thế chiến thứ II, ông hoàn thành tập tiểu luận “Câu chuyện vô hình” (1943) khi còn đang ở ngoài chiến trận. Sau chiến tranh, Hungary sát nhập vào Liên bang Xô Viết, ông cùng Szabó Lajos và Tábor Béla thành lập nhóm tri thức cấp tiến được gọi là “Những buổi trao đổi thứ năm hằng tuần” nhằm tìm hiểu toàn bộ các vấn đề tinh thần thời đại. Mặc dù lại tiếp tục thu hút được nhiều tên tuổi lớn, nhưng đến năm 1948, tác phẩm “Cách mạng trong nghệ thuật” của ông viết chung với vợ đã bị đình chỉ vì lý do chính trị. Từ đó, ông bị tước tất cả quyền biên tập, viết và xuất bản, trở thành đối tượng theo dõi của chính quyền

Đây là bài viết kỷ niệm 117 năm ngày sinh của Hamvas Béla (23/3/1897 – 23/3/2014)

———

“Câu chuyện vô hình”, với tôi, là tập tiểu luận vĩ đại về sự trỗi dậy của Con người cá nhân. Ở trong tập tiểu luận này, chúng ta không thấy sự trỗi dậy của những cái Tôi dị biệt với những nổi loạn kỳ quái. Đây là sự nổi dậy của những tên khổng lồ đầy quyền lực khỏi cơn lũ đám đông đang tiêu diệt nhân loại. Hơn cả thế, cũng trong tác phẩm này, Hamvas Béla luận bàn về con đường của một linh hồn cần làm để quay về với vị trí thống trị của mình.

Chuyển dịch Kỷ nguyên Song Ngư sang Kỷ nguyên Bảo Bình

Mở đầu tập tiểu luận, Hamvas Béla viết về “Kỷ nguyên Bảo Bình”. Đây là một khái niệm chiêm tinh học. Nhiều nhà chiêm tinh học cho rằng Kỷ nguyên Bảo Bình bắt đầu từ quãng những năm 1960, đó là khi điểm xuân phân (ở Bắc Bán cầu) nằm ở chòm sao Bảo Bình. Quá trình điểm xuân phân nằm ở mỗi chòm sao được gọi là “aion”, có nghĩa là tháng vũ trụ và kéo dài từ 2000 đến 2500 năm, tức là khi điểm xuân phân đi hết 12 chòm sao Hoàng đạo, Trái Đất đã trải qua 26.000 năm. Trước Kỷ nguyên Bảo Bình, chúng ta đã ở trong Kỷ nguyên Song Ngư – kỷ nguyên của niềm tin tập thể.

Nếu bạn lấy thời điểm hiện nay trừ đi hơn 2000 năm trước, bạn sẽ thấy những sự kiện vĩ đại tôn vinh thần tượng của đám đông. Điển hình là sự xuất hiện của chúa Jesus. Jesus Christ là một vị thánh độc đạo, nhưng con đường của ngài đã lôi kéo một đám đông vô thức chạy theo mà không được phép hoài nghi bất cứ điều gì. Con đường ấy đã trở thành con đường của tín đồ. Một trường hợp tương tự diễn ra trước đó 500 năm ở Ấn Độ là sự ra đời của Phật giáo. Trong những tôn giáo ấy, các phẩm chất của con người cá nhân bị tiêu diệt, thay vào đó là các giá trị chung được ấn định của giáo đoàn và niềm tin mù quáng được hình thành. Rồi sau đó là Hồi giáo tiếp tục chiếm lĩnh vùng Trung Cận Đông và bắt đầu xây dựng tôn giáo của đám đông cuồng tín. Nhưng ở thời kỳ đầu này, các đức hạnh cao đẹp của Thượng Đế ẩn tàng trong con người vẫn giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt “bầy con chiên” và giữ con chiên trong cái khung của đạo đức. Và theo thời gian, điểm xuân phân dần dịch chuyển về phía bên kia của chòm Song Ngư, đám đông không còn chịu sự trói buộc của đức hạnh nữa mà bắt đầu nổi loạn. Sự lên ngôi của chủ nghĩa duy vật, của các phong trào đấu tranh trong suốt thế kỷ 19 và 20 là những gì có thể mường tượng về đám đông ở giai đoạn cuối của thế kỷ 20. Hamvas Béla đã bình luận về giai đoạn cuối này như sau: “Vô thức lên trên và ý thức xuống dưới. Tri thức không ở trên mà là bản năng, không phải ánh sáng mà là địa ngục, không phải thứ phát triển mà là thứ thấp kém, không phải trật tự và sự tử tế mà là sự hỗn loạn và dục vọng. Không phải thứ tư duy có ý thức mà là một thứ cặn bã và thần tượng”.

Giải thích cho hiện tượng “mông muội hóa” này, Hamvas Béla cho rằng ở cuối mỗi thời kỳ, con người cá nhân bị tan vào biển đám đông vô thức, và đó là biểu hiện của sự mông muội. Ông có một sự phân biệt rõ ràng giữa người cổ đại và người nguyên thủy. Người nguyên thủy là những dạng sống trong sự dã man và tối tăm, người cổ đại không nhất thiết là người nguyên thủy. Người nguyên thủy với Hamvas Béla, là những cặn bã của quá trình mông muội hóa, những cá nhân tan chìm trong cơn hồng thủy vô thức, còn rơi rớt lại đến ngày nay. Vậy quá trình mông muội hóa là như thế nào? Hamvas Béla sử dụng hình tượng của quá trình này là não thì ở dưới bụng còn dạ dày thì leo lên trên đầu. Đó là những gì ta đang thấy ở các tôn giáo và xã hội thế kỷ 20. Ở các tôn giáo, ý tưởng về một cõi cực lạc sung túc đang lấn át mọi giá trị thiêng liêng. Ở xã hội, giá trị vật chất của cơm ăn áo mặc đang vùi dập tinh thần. Ở trong phim ảnh của Holywood, ta có thể thấy nỗi lo sợ ám ảnh trong câu chuyện về bệnh dịch Zombie (tử thi), được mô tả như đám đông bị rút cạn linh hồn, bị thu hút bởi tiếng động và ăn thịt sống. Đó là sự điển hình hóa cho lời tiên đoán về đám đông mông muội cuối kỷ nguyên Song Ngư.

“Thiên thần, nếu sống trên trời là thần linh, nhưng nếu rơi xuống đất, biến thành quỷ. Thiên thần không tỏa ánh sáng nữa, và lửa của thiên thần biến thành núi lửa. Vô thức ở dưới, nổi lên trên sẽ biến thành ma quỷ, giống như ý thức rơi xuống dưới”. Khi Hamvas Béla viết câu này, tôi cho rằng ông muốn ám chỉ đến Satan. Satan vốn là thiên thần Lucifer, cái tên “Lucifer” có nghĩa là “thiên thần ánh sáng”. Sự nổi dậy của Lucifer khi ở Thiên Đường là một ý tưởng bất tuân của cá nhân muốn thoát khỏi sự áp đặt của toàn thế, là đại diện cho ý tưởng về ý chí tự do của chính con người. Lucifer bị đuổi khỏi Thiên Đường, trí tuệ bị ném vào địa ngục, bộ não bị đẩy xuống vị trí của dạ dày. Và trong suốt kỷ nguyên Song Ngư, Satan với trí tuệ đen tối từ địa ngục, chống lại Thượng Đế: “Bộ óc nổi loạn độc ác không khác gì cái ruột suy nghĩ. Cũng ma quái y như một cái cây rễ hướng lên trên và cành cắm xuống đất. Thiên thần bị tròng ách vào cổ cần phải biến thành quỷ sứ…”. Chúng ta, với nhạc Rock, ma túy, sự cuồng loạn, các hành vi biến thái và bạo lực… đang tôn thờ Satan, tôn thờ ánh sáng bị chìm trong bóng tối, tôn thờ sự nổi dậy của vô thức, của các lý tưởng về bình đẳng. Và đó là những gì chúng ta gọi là giải phóng của thế kỷ 19,20. Tất cả chúng ta “tan vào thành một linh hồn duy nhất trong đám đông”. Đây là những mô tả của Hamvas Béla về dám đông và vô thức tập thể: “Trong trạng thái tập thể, con người tin vào một cái gì đấy, mà bản thân nó không tin,chỉ tin một cách chung chung. Con người không là một thực thể cá nhân, nó đồn hóa nó với một cái gì đấy bằng quan điểm, bằng cảm xúc, bằng hành động, có thể đồng hóa với một vật gì đấy, hoặc có thể đồng hóa với người khác”. Nếu ai đã từng tìm hiểu về chiêm tinh sẽ nhận ra những đặc tính tiêu cực của Song Ngư ở trong đoạn mô tả này. Đó là Con người tập thể trong suốt hơn 2000 năm qua, con người của những niềm tin mù quáng (nếu có khác nhau, chỉ là các đối tượng của niềm tin).

Nguyên nhân khiến con người cứ dần tan vào đám đông đó là trạng thái “tâm lý Vi mô”. Tâm lý Vĩ mô được Hamvas Béla định nghĩa như một dạng “linh hồn hoàn toàn, mà sự nỗ lực,bản chất, mục đích, và bản năng của nó để ngày càng hoàn toàn hơn”. Còn tâm lý Vi mô là “linh hồn đứt đoạn, bản năng của nó khiến nó ngày càng bé nhỏ, thiếu hụt và trống rỗng dần. Sự hoàn hảo tinh thần của con người đó là “một linh hồn, trong đó có tất cả mọi cái cần cho nó, sự hoàn hảo, không thiếu hụt, về mọi mặt đầy đủ và hoàn chỉnh, nơi những giác quan, tri thức, tinh thần, trí tưởng tượng trực giác và tất cả những cái khác họp nhau hài hòa, tất nhiên đấy chỉ có thể là Thượng Đế”. Dù cho không thể hoàn hảo như Thượng đế, nhưng tâm lý vĩ mô ở con người dẫn dắt con người đến với Thượng Đế, và chỉ trên con đường ấy, linh hồn của chúng ta không bị xé vụn vào các đối tượng nhỏ hơn như đời sống vật chất và tôn thờ những thứ quái đản. Tâm lý Vi mô được tạo ra bởi con người không còn mong ước hoàn hảo nữa, mà hướng tinh thần mình tới những đối tượng thấp kém. Ở đây, Hamvas Béla đặc biệt nhấn mạnh đến thuyết Vật linh và tôn thờ vật tổ. Vật tổ có thể là huy hiệu, ký hiệu chung, huy chương… Thuyết vật linh có nghĩa là “con người mông muội gán linh hồn cho đồ vật, hiện tượng hay công cụ..”. Những đồ vật ấy không có linh hồn, mà chỉ là những mẩu linh hồn nhỏ bé rơi vào đồ vật, sự kiện. Và cả hai hiện tượng này đều khiến “ý thức cá nhân rơi vào sự mờ mịt, tính tập thể nổi trội lên và bao hàm”, khiến “sự vô thức hoàn toàn thay thế bản thân cái linh hồn bé nhỏ chìm trong tăm tối, và nhầm lẫn bản thân mình với các sự vật khác”.

Nếu ở đầu kỷ nguyên Song Ngư, con người chỉ bị rơi vào niềm tin tập thể thì vào những giai đoạn cuối, con người đi vào thời kỳ cặn bã bằng tôn thờ chủ nghĩa duy vật. Hamvas Béla không lập luận dựa trên khoa học thực nghiệm, nền tảng của ông là truyền thống cổ xưa của phương Tây lẫn phương Đông. Ông nhắc lại những nhận định về bản chất của vật chất do Franz Baader đưa ra, và những nhận định này lại trùng với truyền thống cổ xưa. “Vật chất xuất hiện từ hậu quả của những tàn tích đổ vỡ phân tán hỗn loạn của vũ trụ bởi những tai họa lớn trên thế giới. Ông nói, trong vũ trụ có một thiên thể duy nhất là Sirius Beta, một ngôi sao đã nguội và tắt, không ánh sáng, không nhiệt độ, một cơ thể bất động, từ đấy các nguyên tử tràn ra, chồng chất lên nhau yên nghỉ trong hỗn loạn, như trên một gò đống vĩ đại. Đấy là Sirius Beta, vật chất đầu tiên”. Và vật chất hoàn toàn khác với thiên nhiên. Thiên nhiên “là một phần khả năng tâm linh của tinh thần vũ trụ”, “tinh thần sáng tạo ra thế giới tập trung lại ở các tụ điểm như các thiên thể, Mặt Trời, các hành tinh và tất cả sự sáng tạo này trong từng phần và toàn bộ”. Một cách diễn giải thể hiện sự tương tác giữa vật chất và thiên nhiên rất thú vị, đó là: “vật chất là phân của thiên nhiên”. Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất cấu thành nên vạn vật, con người, thiên nhiên… không gì khác hơn là tổ hợp vật chất. Và thế là bắt đầu của dục vọng, của phá hủy, của sự quỳ gối trước giá trị vật chất. Chủ nghĩa duy vật và đám đông tôn thờ nó, cùng với những lập luận chua cay của Hamvas Béla, lại một lần nữa khiến tôi nghĩ đến bệnh dịch Zombie của điện ảnh Holywood, một đám đông cặn bã trong tột cùng mông muội.

Tranh Luis Royo

Những người theo chủ nghĩa duy tâm luôn đề cao ý tưởng. Plato cho rằng thế giới được kiến tạo bởi các ý tưởng, nhưng khi phản chiếu lên vật chất, thì thế giới không thể hoàn hảo như ý tưởng. Quyền lực của vật chất được gọi là “evestrum”. “Ý tưởng là một hình ảnh nâng lên còn evestrum thì lôi xuống và mạt sát. Ý tưởng thì thanh tẩy và sáng láng, còn evestrum tăm tối và bẩn thỉu. Người nào sống hướng về thế giới của các ý tưởng, người đó thanh lịch, tấn tới, ngày càng hài hòa, hiểu biết, sâu sắc và thông thái hơn. Ý tưởng là chất dinh dưỡng quan trọng nhất cho tâm lý Vĩ mô.” Và đó là chuyển dịch lớn trong những năm tháng này. Con người bắt đầu chuyển từ evestrum lên thế giới ý tưởng. Đó là ý nghĩa của chòm sao Bảo Bình. Chòm Bảo Bình là đại diện cho ý tưởng, khai sáng và tính cá nhân. Kỷ nguyên Bảo Bình, là kỷ nguyên của Con người cá nhân, trỗi dậy từ biển vô thức.

Sự trỗi dậy của Con người cá nhân

Hamvas Béla viết về những Con người cá nhân như một giống người mới, giống người thứ 6, “đơn độc, họ nổi lên như những thực thể khác thường, phi lý, những người không chỉ không thể hòa nhập với môi trường và thế giới của họ, mà những điều đó còn không có chút xúc tác nào cơ bản với họ”. Đây là một bí ẩn mang tính lịch sử, chưa ai có thể giải thích, và đám đông lại càng không thể hiểu. Với đám đông, giống người thứ 6 là một dạng dị biệt cần bị tiêu diệt, hay như Albert Camus sau này đã tự gọi bằng một thuật ngữ “người lạ”. (Không rõ Albert Camus thời ấy có đọc Hamvas Béla không, hay đúng như Hamvas Béla đã cảm nhận rằng “ý tưởng này nằm trong bầu khí quyển bí hiểm của Thượng Đế”). Đám đông luôn đánh hơi thấy những người thuộc giống loài này và tìm mọi cách tra tấn, hành hạ, tiêu diệt. Những người đầu tiên của giống loài này đã bị tống vào trại tâm thần, chìm đắm trong nghiện ngập, thậm chí là tự tử. Đám đông, evestrum càng xuống thấp, càng ép giống loài này đến tuyệt diệt. Nhưng họ không tuyệt diệt, bằng cách nào đó, họ đã nghe thấy nhau và biết rằng mình không đơn độc, và bắt đầu hình thành những cộng đồng. Cuộc giao tranh không còn bằng vũ khí nữa mà bằng những lựa chọn: hoặc gia nhập đám đông vô thức, hoặc trỗi dậy và vươn tới thế giới ý tưởng, vươn tới sự Vĩ mô của Thượng Đế, lựa chọn giữa bản năng thú vật và bản năng linh hồn. Đó là cuộc chiến trong giai đoạn chuyển giao, với những người đi đầu như Nieztches, Kierkegaad,.. rất nhiều những “người lạ” khác giống như Hamvas Béla.

Không ai có thể nói trước được các đặc tính của giống loài thứ 6, chỉ có thể biết rằng đó là những “Con người Cổ đại” đã vượt qua cơn đại hồng thủy của đám đông và vươn lên. Con người Cổ đại này là thực thể bất diệt đến từ Thượng Đế, là “thể thống nhất thiên nhiên – tinh thần – linh hồn, và những ý tưởng được chọn lựa, những đặc trưng phản chiếu từ các sức mạnh siêu nhiên điều khiển sự tồn tại của nó”. Ta chỉ có thể mường tự về giống người thứ 6 như thực thể vĩnh hằng này và hơn thế nữa.

Con người Cổ đại là bản chất sâu kín nhất của con người, và ở giống loài thứ 6, con người này được hé lộ. Trong chương “Wordsworth hay triết học xanh”, “Poseidon” và “Bản giao hưởng số VII của Beethoven và không gian siêu hình âm nhạc” là những chương đẹp nhất mô tả thực thể vĩnh hằng này. Hamvas Béla gọi thực thể vĩnh hằng, linh hồn đầu tiên, bằng cái tên: “Titan” – “chỉ MỘT. Sâu vô tận, đơn giản vô tận, câm lặng, tối sẫm, vô cùng bình thản và cô đơn tuyệt đối” và “thiên nhiên là thế giới cao nhất, thứ nó có thể được”. Thiên nhiên không nằm bên ngoài Titan, mà nằm ngay bên trong, hòa làm một, không phân chia giới tính, là phần vô hình. Và Hamvas Béla nói: “Thật ra trong cái vô hình, tất cả đều gắn bó với nhau”.

LINH HỒN ĐẦU TIÊN, Con người Cổ đại, thực thể vĩnh hằng, là “ngọn lửa đầu tiên, ngọn lửa màu xanh”. Hamvas Béla cho rằng, màu của Titan là màu xanh non, màu của sự sống trên mặt đất, màu không giới tính và cái màu có thể ăn mòn mọi thứ. Ông dẫn ra mối liên hệ của màu xanh non với Venus. Venus cổ đại không phải vị thần của nhan sắc, đó là vị thần của sinh sôi nảy nở sống trong rừng sâu. “Tử thư Tây Tạng” cũng khẳng định màu xanh non là “màu của bản năng quyền lực”, “nguyên vẹn, không thể phá vỡ nổi và đậm đặc, không hể dạy dỗ và không thể thuần phục”. Nhưng tại sao Hamvas Béla lại gọi dạng tồn tại vĩ đại này là Titan. Trong Thần thoại Hy Lạp, Titan là những vị thần cổ xưa nhất, khổng lồ, mạnh mẽ, bất tử, phi nhân tính, và bị các vị thần Olympia nhốt dưới đáy địa ngục Tarta. Với Hamvas Béla, đây là một ẩn dụ, ông cho rằng: “Tất cả chúng ta đều mang trong mình một gã khổng lồ bị xích, một titan rơi xuống và bị giam cầm trong vô thức. Bởi tất cả chúng ta đều giữ gìn trong bản thân mình bản năng quyền lực sơ khai không thể khuất phục”. Cũng giống như các vị Titan cổ xưa, những con người phát lộ LINH HỒN ĐẦU TIÊN đều “tuyệt vời và cao cả, cùng lúc cũng là thứ vô lương tâm. Vừa giống các vị thần vừa là quái vật. Hoàn toàn chỉ có sự cao cả, cái đẹp, sức mạnh và sự tàn ác”.

Khác với các linh hồn sau đó, LINH HỒN ĐẦU TIÊN không truy cầu trí tuệ hay tình yêu. Chỉ khi tương tác với thế giới bên ngoài, con người mới cần đến trí tuệ để nhận biết và tình yêu để hòa hợp. Vơi sự đơn độc tuyệt đối và tính duy nhất của mình, bản chất của Titan chỉ gắn với niềm hạnh phúc. Con người luôn tìm mọi cách để hạnh phúc nhưng đều không thể. Tiền bạc, địa vị, ái tình thậm chí là tàn sát cả thế giới, chúng ta chỉ có nụ cười đắc chí mà không có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có được ở trạng thái của của LINH HỒN ĐẦU TIÊN, bản ngã nguyên thủy, không có giới hạn, độc nhất nhưng vẫn liên kết vô hình với vạn vật, bởi Titan ở trong Thiên nhiên và đồng thời cũng chứa đựng Thiên nhiên.

Bản năng quyền lực của Titan được thể hiện qua Poseidon – vị thần trị vì thành phố Atlantis, theo như tài liệu của Plato để lại. Không giống thần thoại Hy Lạp, cổ xưa hơn, Poseidon tồn tại như một vị thần rừng với cái tên Nere. Hamvas Béla cho rằng Poseidon đã thống trị thế giới trước Zeus, bởi dấu vết cổ xưa nhất: cây đinh ba. Cây đinh ba là biểu tượng của quyền lực có thể điều khiển được vạn vật, với ba mũi nhọn chĩa lên, tượng trưng cho Sáng Tạo – Duy Trì – Hủy Diệt. Hơn thế nữa, cây đinh ba giống như chiếc dương vật dựng đứng. Từ xa xưa, trước cả thời đạo Phật, có một văn bản phương Đông có tên là “Nền tảng của sự thật cao cả”, đã bắt đầu bằng những câu:

“Để tính cách cao cả của mi

chiến thắng

những kiêu căng ngạo mạn của các loài thực thể hoang dã

hãy đặt lên vai mi bộ lông thú dữ

và nắm lấy cây đinh ba

biểu tượng của mục đích cao cả”

Hamvas Béla đã nhắc đến rất nhiều trong tập tiểu luận những tượng trưng có từ chiêm tinh học. Sao Neptune, hành tinh mang đặc tính của Poseidon, được đánh dấu bằng cây đinh ba, và nó đại diện cho các ảo tưởng và cũng là lý tưởng. Poseidon là vị thần điên rồ, như những rừng cây mọc lên không giới hạn, như biển cả ào thét và sâu thẳm. Mặc dù Poseidon được mô tả như một kẻ dã man, hoang sơ, đẫm máu, nhưng Hamvas Béla lại thốt lên rằng: “Có hay không một kẻ đáng thương hại hơn, kẻ không biết kính trọng sự khùng điên, trò chơi, nỗi tức tối, cũng như tiếng cười giòn giã của một Poseidon lông lá xồm xoàm? Có kẻ nào đáng tội nghiệp hơn Trái đất, kẻ không biết đùa nghịch với nước, không biết lang thang vơ vẩn hàng nửa ngày trời trong rừng sâu, và hơi thở không tắc nghẹn lại giữa lồng ngực khi nghe tiếng xào xạc mơn man của vòm cây lá? Kẻ chưa bao giờ bắt gặp những lọn tóc nâu tím trong bóng râm của rừng cây và trên những phiến đá cạnh biển?” Một kẻ điên rồ đáng ngưỡng mộ như vậy lại sở hữu công cụ điều khiển thế gian. Chiếc đinh ba của Poseidon làm dậy sóng biển, tượng trưng cho sự kích động dòng máu trong con người, kích động phần bị đè nén trong bóng tối vô thức. Chiếc đinh ba khơi dậy những ảo giác (mà thực ra có thể không đơn thuần là ảo giác), đó là những nguyên mẫu cổ: thần tiên, ma quỷ, nhân mã, tiên biển…v…v… tất cả những phần của thiên nhiên ẩn giấu trong con người. “Poseidon tiêu diệt tất cả những gì mà trong đó con người tưởng mình đã cân bằng, làm suy sụp toàn bộ những gì trong đó con người tưởng mình đã đạt đến đích” và “Kẻ nào rất tự tin vào bản thân, kẻ đó sẽ bị Poseidon dúi xuống biển”. Trong đời sống cổ xưa của biển cả và rừng núi, cái đẹp không cần biết đến, Poseidon không có nhu cầu cái đẹp, chỉ có một sự kích động điên rồ lên thế giới. Cây đinh ba của Poseidon đã quấy động cái trật tự của cuộc sống con người đô thị, khiến con người nhớ rằng có một Titan trong mình, và vấn đề chỉ là Titan ấy có trỗi dậy hay không?

Trong chương “Tu viện đá Meteóra”, ông có nhắc đến những kẻ đơn độc trong tu viện cheo leo, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, nguyện cầu, chay tịnh, thực hiện mọi dạng phép thuật, chẳng qua cũng chỉ để sống sót. Những kẻ đơn độc này tránh xa đám đông, tránh xa sự xâm lấn của thiên nhiên, tránh xa cái chết. Họ sống mấy trăm năm, và Hamvas Béla ví họ như những thằng lùn xấu xí, nhảy múa vòng quanh chính mình. Cũng là sự cô độc, nhưng sự cô độc hèn nhát này khác hoàn toàn với cô độc của Titan. Thậm chí Titan không quan tâm đến sống và chết, Titan chỉ có sự mở rộng không giới hạn. Để nhận ra phẩm chất của Titan, chỉ có thể mường tượng về niềm hạnh phúc lớn lao khi Wordsworth cô độc đắm chìm giữa thiên nhiên, về quyền lực mạnh mẽ của Milarepa và sự điên rồ, vỡ òa trong âm nhạc Beethoven.

Khi LINH HỒN ĐẦU TIÊN – Titan bắt đầu trỗi dậy từ địa ngục Tarta, trỗi dậy khỏi đám đông và vươn lên không ngừng bằng sức mạnh vĩ đại, con người bắt đầu gia nhập vào giống người thứ 6 và bước đi trên hành trình phi nhân loại, bằng tâm lý vĩ mô với bản năng tìm kiếm Thượng Đế. Qúa trình đi trên con đường ấy, con người đang thực hiện phép thuật, hay một ngôn ngữ khác “thuật giả kim tinh thần” (cách gọi của Osho).

http://bookhunterclub.com/wp-content/uploads/2014/03/58661_468660599835788_1787514140_n.jpg

Yoga – phép thuật – LINH HỒN CUỐI CÙNG

“Mọi thành phần của thế gian đều có thể trở thành tôn giáo, điều cơ bản là hãy trở thành một tôn giáo đúng nghĩa: trong sạch, cao quý, sáng láng, thực chất và Thượng Đế”. Giống như mọi bậc chứng ngộ của cả phương Tây và phương Đông, Hamvas Béla nhận ra rằng phép thuật vĩ đại có ở mọi hành động mang tính sáng tạo và chuyển hóa. Thông qua phép thuật và yoga, chúng ta đang đi trên con đường tôn giáo của chính mình. Nhưng đừng hiểu phép thuật và yoga theo nghĩa thông thường.

Trước hết, ta phải hiểu về tâm linh, bởi Hamvas Béla không đơn thuần chỉ là nhà duy tâm, ông là một nhà triết học tâm linh. Hamvas Béla định nghĩa: “Còn có một cái gì nhìn ra được của cái khác, sâu sắc hơn, bản chất hơn, bí ẩn hơn, một trải nghiệm, một cảm nhận, một sự thể hiện ra ngoài. Tâm linh từ một mặt khác nhận ra, trải qua và thấu hiểu được cái không nhìn thấy. Mặt không nhìn thấy, mặt vô hình này người ta gọi là tri thức. Bởi tri thức nằm bên trong, dấu kín trong sự vật, ẩn sâu trong hiện tượng. Con mắt tâm linh nhìn thấy tri thức của hiện thực, nhìn thấy ý nghĩa của hiện tượng, nhìn thấy, đằng sau vật chất là tinh thần, đằng sau thể xác là linh hồn. Nhưng cái nhìn tâm linh có thể nhận ra từ cái khác nữa. Bởi tâm linh không chỉ là nhận ra mà còn là tri thức… Con mắt có khả năng tâm linh nhìn thấy một lúc toàn thể thế giới, thống nhất và trong MỘT, ở nơi tất cả là MỘT. Như vậy nếu ai hỏi tâm linh( misztika) là gì, cần phải trả lời: là khả năng nhìn thấy, trải qua và hiểu được vào sâu thẳm, ẩn dấu đằng sau sự đa dạng vô tận của thế giới, đấy là cái DUY NHẤT MỘT của số nhiều.” Đây là định nghĩa đúng đắn nhất về tâm linh. Tâm linh không phải là cái mơ hồ ẩn giấu được mã hóa bằng các ảo giác. Đó chỉ là những mảnh vụn của tâm linh. Nói ngắn gọn, ta có thể hiểu, tâm linh là tri thức về vũ trụ toàn thể.

Phép thuật chỉ có thể được thực hiện khi có sự hiểu biết của tâm linh, nhưng phép thuật không chỉ là tri thức, phép thuật là hành động tác động lên sự vật. Và bởi thế, mọi sự vật bị biến đổi, đều là dấu vết của phép thuật. Leonard di Vinci khi tạo ra những cỗ máy từ vật chất, ông đang thực hiện phép thuật theo dạng của mình. Thượng Đế thực hiện phép thuật qua việc sáng tạo và thiết lập vũ trụ theo một trật tự ẩn vừa hài hòa vừa hỗn độn.

Có một phần của Titan cũng rất thú vị, đó là Sirene. Sirene, trong truyền thuyết là những nàng tiên biển, sử dụng giọng hát của mình để mê hoặc thủy thủ. Sirene là một dạng nữ tính của Titan. Quyền lực của Titan nằm ở sức mạnh, quyền lực của Sirene nằm ở sự quyến rũ. Titan và Sirene có thể được coi như 2 nguyên mẫu cổ, đại diện cho đàn ông và đàn bà. “Sự quyến rũ là sức mạnh của đàn bà, cũng như sức mạnh là sự quyến rũ của đàn ông”. Nhưng tất cả sự bản nguyên này đều khiến con người vượt quá giới hạn, vì dù là Sirene hay Titan, thì các thực thể này không biết đến sự dừng lại. Câu chuyện của Lucifer là câu chuyện của Titan muốn vượt qua giới hạn của mình. Milarepa đã vượt qua giới hạn bằng sự trả thù, Beethoven khi chạm tới giới hạn phải trả giá bằng hành động điên rồ: chọc thủng đôi tai của mình.

Trong chiêm tinh học, có một hành tinh chỉ sự giới hạn, đó là sao Thổ – Saturn. Saturn có biểu tượng như cái ách. Điều này giống với cách hiểu của Hamvas Béla về yoga. Yoga là con đường khổ tu, là sự cầm cương bản năng mãnh liệt của Titan. Khi Beethoven chọc thủng màng nhĩ của mình, đắm chìm trong thế giới âm thanh nội tại, ông đang thực hiện yoga của chính mình. Nhưng phẩm chất của Yoga thể hiện rõ nhất qua con đường khổ tu của Milarepa.

Milarepa là một bậc thầy phép thuật hắc ám, bản chất Titan đầy ứ trong ông và thôi thúc ông tàn sát. Nhưng khi bước vào con đường tu hành đích thực, bậc thầy Marpa – Đấng chuyển hóa vĩ đại, đã bắt ông hết ngày này sang ngày khác, xây nhà rồi lại gỡ từng phiến đá bê về vị trí cũ của nó. Milarepa sau đó vào hang núi sâu sống một mình giữa băng giá và chỉ có ăn tầm gai để sống. Milarepa không giống những tên lùn trên núi cao trốn chạy cái chết, bằng sự khổ hạnh, ông đối mặt với cái chết. Trong những ngày tháng đó, bản chất Titan của ông trỗi dậy với quyền lực và sức mạnh, ông có thể hoàn toàn tạo ra lửa trong cơ thể để sưởi ấm. Nhưng như thế là sử dụng phép thuật hắc ám, phép thuật vụ lợi. Bởi thế, ông đã không sử dụng phép thuật, ông chấp nhận chịu đựng trong sự khổ hạnh, chấp nhận cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Và trong yoga khổ hạnh, ông đã được giải thoát, thinh nhẹ và bay lượn. Ngay cả khi biết mình sẽ bị đầu độc, ông vẫn chấp nhận mình bị đầu độc. Yoga vĩ đại là yoga khổ hạnh, nhưng có thể chuyển hóa được tinh thần.

Sự khổ hạnh chỉ là cái vẻ bề ngoài, bản chất đích thực của Yoga, nói như Hamvas Béla, là “sự phá sản”. Kẻ cuồng tín sẽ tức điên khi ông so sánh yoga với tục Hannibal – những kẻ ăn thịt người, giữa việc bị đóng đinh trên cây thập giá với nghi lễ đẫm máu của thổ dân da đỏ. Tục Hannibal hay nghi lễ dùng roi quất lên nhau cho tứa máu, tất cả đều tượng trưng cho sự hành hạ, hủy hoại thể xác. Đức Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá cũng vậy, ông chấp nhận điều này không trốn chạy, mặc kệ cả lời dụ dỗ của quỷ dữ. Đó là sự chấp nhận cái chết hoàn toàn. Yoga là một sự tự hành hạ bên trong, những đòn roi và móng vuốt của quỷ dữ cào cấu chỉ ở sâu thẳm bên trong, và sự bình thản cũng diễn ra bên trong. Một trong các bài tập ở tu viện Tây Tạng, đó là vị Đại Lạt Ma đọc những câu thần chú triệu hồi quỷ dữ, bao trùm lên tâm trí của đệ tử. Và cuộc chiến bên trong bắt đầu, nơi con người nhận ra “sự phá sản” chính là tha thứ lớn nhất của Thượng Đế, của đấng GIỚI HẠN: “Sự phá sản là việc bước qua giới hạn, là sự chết đi có ý thức. Con người lãnh cái chết vào bản thân bằng sự tỉnh táo toàn diện của ý thức. Không ngất lịm, không suy sụp, không trốn chạy, không thu mình lại và không gào thét. Ý thức hoàn toàn tỉnh táo, như một tấm gương, không hề run rẩy khi con người bước qua. Đấy là sự phá sản.”

Cũng trong chương “Milarepa”, Hamvas Béla khẳng định phép thuật tối cao nhất: Tình yêu thương. Tình yêu thương là sự vô bờ bến, nó không đối nghịch với phẩm chất Titan, nó là dạng tiến hóa cao nhất, khi con người đạt đến giới hạn và tan biến, nghĩa chết hoàn toàn, hiến dâng toàn bộ cho Thượng Đế, cho tồn tại. Trong cái chết này, chúng ta đạt đến LINH HỒN CUỐI CÙNG – Linh hồn Thượng Đế. Đó là ý nghĩa khi Đức Phật nhập vào Niết Bàn – cõi vĩnh hằng, khi Jesus nói rằng “Ta cũng hoàn hảo như cha ta ở trên trời”. Họ đều trải qua cái chết thiêng liêng. Tình yêu thương là cái chết thiêng liêng, nơi cái Tôi hoàn toàn biến mất, Titan hòa lẫn vào toàn thể. Đừng nhầm cái Toàn thể vĩ đại này với những mảnh vụn rời rạc, cặn bã, rác rưởi của đám đông. Đám đông không phải toàn thể, mà chỉ là một phần. Và bằng tình yêu thương, con người mới có thể vượt lên trên đám đông mà không thù hằn hay tàn sát, chịu đựng mọi đòn roi của số phận để có thể nói “Có” với Toàn thể.

Thượng Đế đau khổ và Con đường thiêng liêng

“Chúng ta không mang lại quyền lực tốt đẹp lành mạnh cho các hành tinh khác như sao Một, mang sự xung đột như sao Hỏa, sự thống nhất như sao Vệ Nữ. Cái chúng ta mang cho các hành tinh: Thượng Đế đau khổ. Đấy là ý nghĩa tượng trưng của chúng ta. Từ đằng xa họ gọi tên chúng ta như thế, và tên của chúng ta có lẽ chỉ những kẻ nhập định có quyền xướn lên, để sự thần bí nói về những bí ẩn của một đời sống, thứ đời sống chúng ta trải nghiệm”

Sự đau khổ, dường như là món quà của Thượng Đế dành cho con người chúng ta. Trải nghiệm đau khổ này, chính là việc trải nghiệm đòn roi của đám phù thủy trong nghi lễ của người da đỏ, là chịu đựng sự cắn xé của những kẻ Hannibal, là trải qua những móng vuốt của quỷ dữ ở sâu thẳm bên trong, “như Heraclite nói rằng Vũ trụ bảo vệ chúng ta bằng roi vọt”. Trong sự hành hạ ấy, chúng ta thức tỉnh, chúng ta nhìn thấy được ngay cả Địa Ngục cũng thiêng liêng, và chúng ta đang bước trên con đường của Thượng Đế, đang khai sinh ra LINH HỒN CUỐI CÙNG.

“Đời là bể khổ”, Đức Phật đã nói vậy, nhưng “Quay đầu là bờ”, không có ý nghĩa như một sự đầu hàng, “quay đầu” là sự quay lại bên trong, quay lại với điều thiêng liêng và cao cả, thay vì đồng nhất mình trong bể khổ và chết chìm trong đó. Ở cõi thế gian, các chính trị gia, các nhà sáng chế, các học giả… tất cả quay cuồng trong bể khổ, tìm mọi cách để chống lại điều này, và tự cho mình là bậc cứu thế vĩ đại. Phần Titan ngớ ngẩn trong họ muốn dắt con người vượt qua giới hạn và trốn chạy đau khổ. Trong tất cả những con người của thế gian hiện nay, với Hamvas Béla, chỉ có thi sĩ còn đảm nhiệm vai trò thiêng liêng này: nhắc nhở con người về sự cao cả. (Thi sĩ thiêng liêng không giới hạn ở người làm thơ, nói rộng hơn, đó là nghệ thuật câu từ)

Hamvas Béla nói về sự thoái lui của các nhân vật vĩ đại. Họ thoái lui, bởi đám đông lên ngôi. Đám đông không còn đi theo sự dẫn dắt của thần tượng, đám đông bắt đầu trèo lên cao hơn. Đám đông tự cho rằng những mảnh vụn cặn bã có thể học để trở thành tu sĩ, trở thành lãnh tụ, trở thành vua chúa, thậm chí học để trở thành thi sĩ thiêng liêng. Tất cả những điều thiêng liêng, không thể học một cách hữu hình bằng các kỹ năng. Những người vĩ đại đều thoái lui, các ngôi đền đều bị đốt cháy bởi trí não vô thần của đám đông (dường như đám đông không chỉ có chung một linh hồn, mà còn có chung một bộ não), chỉ còn Thi sĩ là ở lại và rêu rao với nhân loại về sự thiêng liêng, về điều vĩnh hằng một cách đầy cảm hứng. Bởi là kẻ cuối cùng còn sót lại, nên thi sĩ gánh lên mình tất cả trách nhiệm của những nhân vật đã thoái lui: “Từ giây phút trong cái vòng tròn thiêng liêng ấy chỉ còn duy nhất THI SĨ sót lại, bắt buộc đảm nhận quyền lực của vua chúa, đảm nhận phẩm chất của giới quý tộc, thói quen nghi lễ của linh mục, bản năng chiến đấu của người quân nhân, tri thức về sự thật của quan tòa, nỗi say mê ngây ngất của nghệ sĩ, của nhà bác học – từ giây phút ấy nhà thơ vượt hẳn tầm vóc của nhà thơ”. Trước đó, người ta quan niệm thơ ca chỉ là sự diễn đạt hay thể hiện một điều gì đó, rồi kết luận “nhà thơ là kẻ từng trải và là kẻ đi chắt lọc”, hay “thi ca là một nhân tố văn hóa, giống như luật, tôn giáo, nghệ thuật và tư duy”, và “thơ ca là một thăng hoa thụ động của sự diễn đạt, kết quả phẩm chất tâm lý, sự trải nghiệm, sự chắt lọc, của nhân tốt tạo ra văn hóa”. Nhưng đúng như Hamvas Béla nhận định về những kẻ lý luận dốt nát về thơ ca, của “đám đông cố hiểu nhà thơ” và sự ghen tị cố kéo nhà thơ xuống ngang tầm với mình, thậm chí coi những nhà thơ chẳng bận tâm đến việc kiếm sống là những kẻ điên rồ ngớ ngẩn.

Từ cuối thế kỷ 19, ở Châu Âu, giới học giả đã có những nhóm người tách khỏi đám đông, và họ bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của thơ ca. Nhóm Stefan George cho rằng nhiệm vụ của nhà thơ là “Phục vụ và thống trị”, phục vụ Thượng Đế và thống trị cái đẹp, tất cả là để bảo vệ “Vương quốc vĩnh cửu” – trung tâm sự sống của con người. Trước đó, Goethe, Schiller, Holderlin đều đã nắm giữ vị trí này với các cương vị khác nhau. Đến Baudelaire, nhà thơ không chỉ gánh vác từng ấy trách nhiệm, mà còn có một trách nhiệm nữa, mà còn là sự “giữ gìn hình ảnh tượng trưng xứng đáng với con người, hình ảnh này đang bị bỏ rơi và biến mất”. Nhưng quan hệ của nhà thơ và đám đông dân chúng thật chẳng dễ dàng gì. Một sự xung đột mang tính quy luật, evestrum sẽ tìm mọi cách để lôi tuột những con người thiêng liêng rơi xuống đáy cùng với nó. Đám đông luôn tiêu diệt nhà thơ bằng mọi cách: sỉ nhục, bôi nhọ, giam hãm… Và nhà thơ bắt buộc phải bảo vệ mình bằng sự bí ẩn tới mức không thể hiểu được. Buồn cuời ở chỗ là, sự ẩn mình của nhà thơ, cái áo giáp của hiệp sĩ linh thiêng lại trở thành con đường cách tân hình thức của những kẻ học đòi. Vấn đề ở chỗ, mọi sự tấn công của đám đông lại chính là đòn roi của thế giới khổ đau, lĩnh nhận chúng và hiến tế mình cho điều thiêng liêng, thơ ca qua đó mà tuôn chảy, LINH HỒN CUỐI CÙNG cũng qua đó mà hiển lộ. Và đây là nhiệm vụ của nhà thơ linh thiêng: “Phục vụ quyền lực chưa đủ, cần phải nắm giữ lấy những quyền lực đó. Chưa đủ chỉ sống từng trải trong thế giới, cần phải tạo ra thế giới nữa. Sự sống thiêng liêng dành cho con nười không chỉ mở mà luôn cần phải mở tiếp. Và cái tôi phải trả giá cho nó không ít, chính là bản thân tôi: tôi cần phải hiến dâng. Nhưng chỉ hiến dâng tôi không đủ, sự hi sinh cũng vẫn ít: bằng sức mạnh của ngôn từ tôi cần mở rộng sự siêu phàm.”

Nhóm George đã nhận ra rằng, “số phận của nhà thơ chính là nhóm”, đó là sự tạo dựng cộng đồng. Hiểu theo một nghĩa rộng hơn, những người thuộc giống loài thứ 6 phải cố kết thành một cộng đồng. Ở những thế kỷ trước, khi các cá nhân này xuất hiện đơn lẻ, họ đã bị tiêu diệt. Nguyên tắc căn bản của Cộng đồng này, chính là Tình bạn. Hamvas Béla đã dành hẳn một chương để nói về điều này.

Trong chiêm tinh học, có hẳn một khu vực của Tình bạn, nhà số 11, sánh ngang với Tình yêu, Sự nghiệp, Sở hữu, Sự hiến dâng, Sự chuyển hóa… Nhà số 11 được quản trị bởi chòm sao Bảo Bình, chòm sao của ý tưởng và sự khai sáng. Trong thần thoại Hi Lạp, một nữ thần ít được nhắc đến, nữ thần Phillia, nữ thần tình bạn, chịu trách nhiệm về sự cố kết cộng đồng. Đừng nhầm lẫn tình bạn với một sự tụ tập, cũng không phải tình yêu, không phải thiết chế, không phải đồng môn, không phải đồng bọn, cũng không phải đồng bào. Trong nhiều thế kỷ, tình bạn bị lãng quên, thậm chí bị cho rằng là sản phẩm của nhân tạo. Nhưng nếu nhìn lại những truyền thống cổ xưa của đàn ông (theo như Hamvas Béla dẫn), đó là tổ chức các chiến binh, các hiệp sĩ thánh chiến, các hội ái hữu… Tình bạn có trong đó và là cột trụ gìn giữ mọi cộng đồng ấy.

Ta có thể mô tả thế nào về tình bạn, Hamvas Béla đã đưa ra định nghĩa: “Có một quan hệ khó hiểu giữa tình bạn và các vì tinh tú. Tại sao ngôi sao lại là một người bạn? Tại sao người bạn lại là một ngôi sao? Bởi vì sao rất xa mà vẫn cứ lấp lánh sáng trong ta. Bời vì bạn là của ta mà vẫn không thể với tới? Bời vì không gian ta gặp gỡ nhau không thuộc về con người, mà thuộc về vũ trụ? Bởi bạn không đòi hỏi từ ta cũng như ta không đòi hỏi từ bạn bất cứ cái gì? Chỉ duy nhất một điều bạn hãy cứ là bạn, như ta hãy cứ là ta, và điều này đối với cả hai ta đều quá đầy đủ”. Còn gì đẹp đẽ hơn thế! Một cộng đồng trong đó chúng ta vẫn là chính mình và an toàn để thể hiện tất cả, từ LINH HỒN ĐẦU TIÊN hoang dã cho đến LINH HỒN CUỐI CÙNG thiêng liêng.

http://bookhunterclub.com/wp-content/uploads/2014/03/320114_274672312642844_1194920830_n.jpg

Điều này hoàn toàn trái ngược với Tình yêu nam nữ. Ngay sau chương Tình bạn, Hamvas Béla luận về tình yêu thông qua những bức thư còn sót lại từ thời Trung Cổ của Heloise và Abélard. Nếu ở trong Cộng đồng với tình bạn, bản chất vẫn bị giữ, thì trong mối quan hệ tình yêu nam nữ, hai linh hồn không đối xứng như người ta lầm tưởng, hai linh hồn hòa làm một.

Hamvas Béla phải thú nhận sự khó hiểu của đàn bà. Ông không chấp nhận cách định nghĩa về đàn bà trước đó. Đàn bà không chỉ là Eva (người vợ), Lilith (nữ quỷ đẫm máu) hay Sophia (trinh nữ). Một nguyên mẫu cổ xưa hơn thế: Sirene. Hãy mường tượng những mô tả về loài tiên biển: quyến rũ nhưng độc ác, đẹp đẽ nhưng đưa đàn ông tới cõi chết. “Chính vì vậy, đàn bà có thể trở nên hết sức tinh tế cũng như hết sức thô tục, có thể trở nên hết sức cao quý những cũng có thể hết sức trụy lạc”. Hành động cởi áo và tắm của đàn bà trước đêm tân hôn, không chỉ đơn thuần là gợi dục, đó là một nghi lễ mang tính tôn giáo, khi đàn bà cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài, để khơi dậy Sirene ở bên trong mình. Bằng việc để Titan và Sirene hòa làm một, tình dục được chuyển hóa thành tình yêu. Tình yêu, Hamvas Béla nhận thức rằng, đó là sự hòa lẫn của LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ với LINH HỒN THƯỢNG ĐẾ.

Tôi chợt nhớ đến câu thần chú Namasté trong các nghi thức Tantra. Tantra là thông qua giao phối tình dục, đôi nam nữ đánh thức phần Thượng Đế bên trong mình và hòa làm một. Namasté có nghĩa là:

“Linh hồn của ta tôn vinh linh hồn của người

Ta tôn vinh khoảng không bên trong người, nơi toàn bộ vũ trụ trú ngự trong đó

Ta tôn vinh tình yêu, ánh sáng, sự thật, sự bình an ở bên trong người bởi vì điều đó cũng ở bên trong ta

Bằng việc chia sẻ điều này, chúng ta hợp nhất, chúng ta giống nhau, chúng ta là một”

Bởi thế, hôn nhân đến từ tình yêu đích thực, giống như Heloise và Abélard, chính là con đường đến với Thượng Đế, cũng giống như yoga, thơ ca, âm nhạc. Nhưng điều này có lẽ quá hiếm hoi. Vì nàng Sophia có thể đã bay lên Thiên Đường, và Adam chỉ nhận được cái phần xác thịt, đó chính là Eva. Và bởi thế, đời vẫn là đau khổ, giống như tất cả các tôn giáo, các triết gia, nhà thơ đã nhắc đi nhắc lại.

Chương cuối “Ngày lễ và Cộng đồng” có lẽ là lời lý giải hoàn hảo cho toàn bộ những gì mà Hamvas Béla đang làm trong tập tiểu luận này, và cả những tác phẩm khác của ông. Trong đó, ông kể về 4 nhà thông thái lên Thiên Đường: một người đã chết ngay trước cổng Thiên Đường, một người hóa điên, một người “tự khóa trái ấn tượng này cho bản thân”, chỉ có người thứ tư là rời bỏ Thiên Đường và quay trở về với cộng đồng của mình. (Cộng đồng ở đây có nghĩa rộng hơn so với Cộng đồng nhóm được nhắc ở trên). Trải nghiệm Thiên Đường là trải nghiệm hạnh phúc, đứng trước hạnh phúc có nhiều người không thể chịu nổi. Hạnh phúc là đặc ân chỉ của Titan, những người nào sống đúng với phẩm chất Titan của mình thì mới thẩm thấu được hạnh phúc. Nhưng Titan là kẻ ích kỷ, người thứ ba tự trốn trong hạnh phúc của chính mình và mãi ở dạng LINH HỒN ĐẦU TIÊN. Chỉ có người thứ tư, hiểu rằng cần phải hiến dâng, và người đó ra đi, để mang ánh sáng Thiên đường đến với cộng đồng của ông ta. Nhưng vấn đề ở chỗ, đôi khi áp đặt hạnh phúc của mình lên Cộng đồng lại chính là một dạng bạo lực kiểu Titan. Hiến dâng cho Cộng đồng thật không đơn giản, không giống như tất cả các lãnh tụ tôn giáo, các chính trị gia và triết gia rao giảng lý tưởng về hạnh phúc… Làm thế nào để đánh thức một Cộng đồng đang bị vô thức chiếm lĩnh mà không cần đến sự lừa mị hay cưỡng chế. Chỉ có là Tình yêu thương, nhưng điều đó không cố để có được. Tình yêu thương chỉ có trong LINH HỒN CUỐI CÙNG và chỉ LINH HỒN CUỐI CÙNG mới có tình yêu thương đích thực.

Điểm đặc biệt ở phần này nằm ở định nghĩa về “Cộng đồng” của Hamvas Béla. Ông không cho rằng một cộng đồng người đáng được gọi là “Cộng đồng”: “Cộng đồng duy nhất – độc nhất chỉ tồn tại trong một sự sống mà sự hiến dâng mở ra dành cho con người: cao hơn sự sống người. Sự sống chung của tất cả mỗi con người không nằm trong vật chất, trong tinh thần, trong tôn giáo hay đạo đức, mà nằm trong Thượng Đế. Nếu con người gặp nhau trong vật chất, trong đạo đức, trong chủng loài, trong tinh thần thì ngôn ngữ, vật chất, nhà nước, tinh thần sẽ tan rã, cộng đồng sẽ chất dứt. Sự tan hòa sau rốt chỉ có thể trong sự sống của Thượng Đế. Đấy mới là một cộng đồng chân chính. Duy nhất. Đấy là: cộng đồng”. Với cách hiểu này, ta có thể thấy rằng bất cứ sinh linh nào sống với nhau trong tính toàn thể của Thượng Đế, nơi đó cộng đồng được tạo dựng. Bởi thế, khi giống người thứ 6 xuất hiện, Cộng đồng đích thực bắt đầu được tạo dựng. Ở đó, tính Thượng Đế được thể hiện qua mọi hành động của ngày thường nhật, và ngày lễ là ngày của hiến dâng. “Ngày lễ là cộng đồng của tất cả con người trong sự sống Thượng Đế nơi con người chỉ có thể đạt tới bằng hiến dâng cái tôi của nó.” Điều này tương đồng với kinh Veda, khi các bậc chứng ngộ cổ xưa viết: “Cả vũ trụ này là một cuộc hiến tế lớn”.

Đi đâu để tìm Cộng đồng này? Trong khi những gì chúng ta nhìn thấy trên thế giới này chỉ là những cộng đồng giả vờ, là sự tập hợp của những cái Tôi bạo lực (Bạo lực có thể đến bằng nhiều cách, không chỉ có chém giết). Đó là ý nghĩa của Khải huyền. Cộng đồng đích thực chỉ có từ những LINH HỒN CUỐI CÙNG ở THỜI GIAN CUỐI CÙNG. Và có lẽ, chúng ta chẳng cần thiết phải sợ hãi ngày tận thế đến vậy.

Tác giả gửi Văn Việt.

Tập tiểu luận “Câu chuyện vô hình” nằm trong cuốn sách “Câu chuyện vô hình & Đảo”của Hamvas Béla (Dịch giả: Nguyễn Hồng Nhung), do Nhà xuất bản Tri Thức phát hành vào năm 2012.

Các bạn có thể đọc online tại:  amvc.free.fr