Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

Nhớ lại sau 40 năm ra tù (kỳ 4)

 Hoàng Hưng

VÌ SAO CÓ CHUYÊN ÁN VỀ KINH BẮC?

Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động, (không biết vì lý do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép. Trong tình cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đình Hưng, với sự “đỡ đầu” (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.

Riêng tôi, như đã nhiều lần tự bạch, tôi viết Về Kinh Bắc hoàn toàn nhờ chìm đắm vào những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi luôn nghĩ rằng: với bất cứ anh thi sĩ nào, cái thời kỳ từ 5 đến 15 tuổi là thời kỳ quyết định hơi thơ, cốt cách thơ của cả đời anh ta. Từ năm 4 tuổi đến 14 tuổi (lúc đỗ certificat), tôi sống ở một phố nhỏ trên đường quốc lộ 1, cách thị xã Bắc Giang 6 km. Mười năm ấy ăn vào mình nhiều nhất. Chỗ tôi ở là một con phố đìu hiu, lèo tèo vài hàng quán, ông thân sinh tôi mở hàng thuốc bắc ở đó, còn mẹ tôi thì có gánh hàng xén. Cái phố ấy vẫn có phong vị nông thôn với rặng tre, cây đa, con đường đất nhỏ, lại có tí văn minh với cảnh ô tô, tàu hoả, tôi hay ra ga xem khách lên khách xuống, tàu đến tàu đi. Những đêm trăng cô hàng xóm thích hát xướng tập họp bọn trẻ trong phố ra giữa đường hoặc cái bãi rộng sau ga hát trống quân, cò lả…

Có lẽ vì thế mà toàn bộ tập Về Kinh Bắc chìm trong cái buồn, cái buồn của sự hoài vọng quê hương, bài nào cũng buồn, câu nào cũng buồn. Hồi trong Hoả Lò bị buộc phải viết kiểm điểm về tập thơ này, tôi cũng dễ dàng thừa nhận là tập thơ buồn quá. Nguyên cái buồn ấy hình như đã là chống lại đường lối văn nghệ của Đảng rồi, vì Đảng yêu cầu văn nghệ phải khấn khởi tươi vui. Nhưng ngoài cái đó ra, tôi còn phải nhắm mắt tự nhận tội với những từ nặng nề nhất như phản động, chống Đảng. Có điều tôi cũng viết rất khéo sao cho nếu bản kiểm điểm sau này được công bố thì bạn bè và công chúng cũng thấy đó là sự nhận tội không tự nguyện, nhận mà là không nhận. Thí dụ như tôi dẫn chứng câu thơ “Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa” là rủa Đảng, bài thơ “Lá Diêu bông” và một số bài khác là mang tính chất tư sản, than thở số phận con người, qua đó thấy cuộc sống thất vọng quá, buồn quá, những ước nguyện đẹp nhất đều không thực hiện được”.

(Tâm sự của Hoàng Cầm, do Hoàng Hưng ghi, đăng trên báo mạng talawas.org của Phạm Thị Hoài ở Đức năm 2007).

Về Kinh Bắc đã được lưu truyền “bí mật” lai rai suốt từ những năm 1960, nhất là sau 1975 khi đất nước thống nhất. An ninh Hà Nội biết, có đôi lần gọi tác giả lên “cảnh cáo” nhưng chỉ coi đó là thứ thơ “ngoài luồng” không được lưu hành chính thống, chưa đến mức là “phản động, chống Đảng”. Bản thân tôi, khi bị bắt và xét hỏi, đã hỏi ngược an ninh: “Vì sao suốt 20 năm, tập thơ này đã lưu truyền đến hàng trăm người mà không sao, giờ đến tôi thì lại bị bắt?”, họ không trả lời được.

Tôi đâu biết, vì nó đã trở thành… “chuyên án”!!!

Chuyên án Về Kinh Bắc chắc đã được khởi động từ quãng giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, TS Kinh tế, GS Đại học Laval, Quebec, Canada, cũng là nhà văn Việt Nam hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang làm việc/thăm chơi ở Hà Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ Về Kinh Bắc để đem về Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền Việt Nam coi là “Việt kiều yêu nước”, đã đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền miền Nam từ khi còn là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước thống nhất, anh đã nhiều lần về nước làm việc theo lời mời của các Viện chuyên môn. Mặt khác, anh lại quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm, đặc biệt với nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.

Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản chép tay Về Kinh Bắc chẳng có gì cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của cấp thẩm quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lý Quốc Sư mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm ngâm say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ “ngoài luồng”, và không ít “đặc tình” (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của công an), “cá chìm” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), thì có gì liên quan đến ông Hoàng “thơ chui” này mà giữ kín được! Nhưng muốn hiểu vì sao có vụ án “Về Kinh Bắc”, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài trong bản thảo Về Kinh Bắc bắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong đó ba bài “Cây tam cúc”, “Lá diêu bông”, “Quả vườn ổi”(thường được gọi là bộ ba cây-lá-quả) được mến mộ nhất – phần quan trọng vì chúng được xì xầm diễn giải như lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng), đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị” đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng… Theo Hoàng Cầm kể, thì năm 1973, công an Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng, nhưng sau 1975, với không khí hào hứng của những ngày “miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”, Về Kinh Bắc lại có thêm độc giả ở miền Nam; và đến 1979, sự giao lưu với nước ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đã có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên “bộ ba cây-lá-quả” vẫn đứng đầu bảng. Hoàng Cầm có kể đích danh một “nữ bác sĩ” xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin ông gửi cho một số bài thơ; sau này bà cho biết bà là đệ tử của thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai (bà tên thật là Cao Thị Ngọc Phượng, Cử nhân Sinh học, đệ tử ruột của thầy Nhất Hạnh từ những năm 1960 ở Sài Gòn, sau này là Sư cô Chân Không). Thầy Nhất Hạnh yêu thơ Hoàng Cầm từ thời kháng chiến chống Pháp và Nhân văn - Giai phẩm, nên thông qua bà để liên lạc với nhà thơ. Bà thường xuyên gửi quà (chủ yếu là thuốc Tây để Hoàng Cầm dùng và bán lấy tiền sinh sống) và thư từ với ông. Bà lấy tên “Cần Thơ” có nghĩa là… cần có thơ! Chính Nam Dao là người đem một đĩa ghi âm Hoàng Cầm đọc thơ gửi sang Pháp cho bà. Trong khi xét hỏi bản thân tôi, một sĩ quan công an cho biết: Về Kinh Bắc bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng chính là vì mấy bài thơ “Cây-Lá-Quả” được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm thì công an có đọc cho ông nghe bài viết ấy trên báo Quê Mẹ. (Gần đây tôi mới được biết tờ báo này là của nhà thơ và người hoạt động xã hội Thi Vũ Võ Văn Ái).

Có lẽ khi Nam Dao đem bản Về Kinh Bắc mà Hoàng Cầm chép tặng anh vào Sài Gòn thì chưa có quyết định mở “chuyên án”. Nhưng sau đó ít lâu, anh nhận được thư của Hoàng Cầm và nhạc sĩ Hồng Đăng vào Sài Gòn chơi cũng kịp nhắc anh cẩn thận. Vậy là anh không dám mang theo, mà gửi nó cho nhà ngữ học Cao Xuân Hạo cất giữ, nên khi ra sân bay bay về Canada, an ninh khám xét hành lý không thấy! Tuy nhiên, trong “tang vật” bắt được trong túi xách của tôi có một lá thư của Hoàng Cầm nhờ đem vào Sài Gòn gửi cho anh, thư dán kín nên tôi không biết nội dung! Vì thế, Nam Dao bị cấm về nước trong suốt 6 năm sau đó. Mãi đến năm 2002, lần đầu tiên hai người “đồng phạm” bất đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau ở Hà Nội khi anh nhờ tôi đưa đến chơi nhà nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.

Năm 2015, khi tôi công bố bài viết “Vụ án Về Kinh Bắc – một sự kiện hậu Nhân Văn” trên website talawas.org của nhà văn Phạm Thị Hoài ở Berlin (Đức), Nam Dao có gửi mấy lời “cước chú”:

“… từ vụ án Về Kinh Bắc tôi phải đợi 6 năm, đến 1988, mới được về Việt Nam trong một phái đoàn GS Đại học Canada được Bộ Ngoại giao tiếp đón. Đến năm 1990, mặc dầu có giấy mời của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quản lý Trung ương, về đến Nội Bài thì tôi được lịch sự mời ra… với lý do gì đến nay tôi cũng chưa biết, nhưng đoán là sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì phải cấp tốc xây hàng rào bảo vệ Hà Nội. Xin Visa vài lần sau đó mà không được, tôi biết thân mình, nhưng khi Trịnh Công Sơn viết thư nói: “… mình hết thời gian rồi”, tôi có gặp bà Đại sứ Việt Nam thuở đó, xin và được phép về năm 1998… Cái oái oăm là có những nghịch lý khó chấp nhận: khi Sơn đến Quebec thăm tôi năm 1992, anh biết tôi ấm ức, bảo: “… cứ coi họ là những đứa bé nghịch ngợm lấy chân di một đàn kiến…”. Ngẫm nghĩ, anh an ủi cả anh lẫn tôi, tiếp: “… nhưng rồi đứa bé ấy cũng phải lớn lên chứ”. Lớn lên thế nào không biết, nhưng lớn đủ để chính thức nói một lời xin lỗi những con kiến càng cỡ Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… thì chưa!”.

Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một chuyên án Về Kinh Bắc đã được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bõ ghét.

Theo Hoàng Cầm thì khả năng 2 là chính, ông nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, vì căm ghét Hoàng Cầm đã dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập Việt Bắc năm 1956), chưa kể đã “dám nổi tiếng” hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm, để làm việc này, Tố Hữu đã sử dụng một số “công an riêng” của mình (viên trưởng phòng điều tra xét hỏi của Sở Công an Hà Nội Nguyễn Doãn Nhạ là người Huế, có lẽ là người như thế).

Tháng 2 năm 2022, dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hoàng Cầm với sự kiện ra mắt sách Hoàng Cầm Về Kinh Bắc ở Viện Pháp (Institut de France) Hà Nội do tôi chủ trì, nhà báo Nguyễn Thành Phong kể trên FB: Hồi đó anh làm việc ở NXB Công an, ông Khổng Minh Dụ trưởng phòng Văn hoá Văn nghệ của Cục An ninh Tư tưởng Văn hoá (A25) có đến NXB khoe là mới “phá” được vụ trọng án Hoàng Cầm, Hoàng Hưng âm mưu chuyển văn hoá phẩm phản động Về Kinh Bắc ra nước ngoài! Anh Phong có ý cho rằng vụ này chẳng qua là do ông họ Khổng bơm lên để “lập công”!

Cũng trong dịp này, trong buổi cùng tôi trò chuyện với đài BBC thì cựu đại tá Thái Kế Toại, nguyên trưởng phòng Văn nghệ Cục An ninh Tư tưởng Văn hoá (A25) sau thời ông họ Khổng, lại cho rằng vụ Về Kinh Bắc nằm trong chủ trương chung của ngành ngăn chặn mọi việc chuyển các tác phẩm bất lợi cho chế độ ra công bố ở nước ngoài. “Trở lại bối cảnh xã hội Việt Nam đầu những năm 80, Phạm Duy làm Ngục Ca phổ nhạc một chục bài thơ viết trong tù của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đang bị giam giữ. Ngục Ca và Cầm Ca của Phạm Duy càng làm cho không khí văn nghệ hải ngoại và phong trào kháng chiến hải ngoại phức tạp thêm. Từ các căn cứ, chiến khu ở Thái Lan những toán quân biệt kích của Hoàng Cơ Minh, của Võ Đại Tôn tìm cách xâm nhập vào Tây Nam Bộ, vào Tây Nguyên. Miền Trung thì có Phong trào Phun rô. Nhiều toán phản động gây bạo loạn. Làn sóng người vượt biển tỵ nạn. Các đài phát thanh tâm lý chiến, sách báo, băng nhạc, băng video hải ngoại chống Việt Nam. Bối cảnh chung đó ít nhiều là lý do cho việc ngăn chặn ý định đưa một tập bản thảo như Về Kinh Bắc ra nước ngoài”.

Xin đưa lại cả 3 khả năng về nguyên do Về Kinh Bắc thành “chuyên án” để bạn đọc tự xét đoán.

Thế là trong lúc cái lưới của “chuyên án Về Kinh Bắc” đang giăng ra xung quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, thì tôi ở Sài Gòn ra, vô tình chui vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để công an cất vó!

Tôi bị bắt chiều 17/8/1982 thì sáng 20/8/1982 công an đến bắt Hoàng Cầm tại nhà.

*

Mời tham khảo bài thơ được xem là “phản động” tiêu biểu trong tập Về Kinh Bắc, cũng là bài nổi tiếng nhất của đời thơ Hoàng Cầm (sau bài Bên kia sông Đuống viết trong kháng chiến chống Pháp) chính vì nó gắn với vụ án Về Kinh Bắc! Đã có ba ca khúc liên quan đến bài thơ này, 2 bản phổ nhạc cả bài thơ là của Phạm Duy, Hữu Xuân, một bản là ca khúc nổi tiếng Sao em nỡ vội lấy chồng của Trần Tiến đã lấy cảm hứng và dựa theo một câu thơ trong đó "... Ru em thời thiếu nữ kiêu sa, em đố ai tìm được lá diêu bông, em xin lấy làm chồng”.

LÁ DIÊU BÔNG

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

Chị thẩn thơ đi tìm

Đồng chiều

Cuống rạ

Chị bảo

Đứa nào tìm được lá Diêu bông

Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy lá

Chị chau mày

Đâu phải lá Diêu bông

Mùa đông sau Em tìm thấy lá

Chị lắc đầu

trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị

Em tìm thấy lá

Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con

Em tìm thấy lá

Xoè tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu bông hời...

... ới Diêu bông...!

Trong những ấn phẩm đã xuất bản sau “Đổi mới”, Hoàng Cầm tâm sự rằng bài thơ viết về mối tình “chị-em” đơn phương vô vọng của tác giả lúc 12 tuổi với cô gái cùng làng tên là Vinh 20 tuổi. Nghe nói, năm 1988 Hoàng Cầm vào Sài Gòn lần đầu tiên sau khi ra tù, bà Vinh có đến dự đêm Thơ Hoàng Cầm ở Nhà Văn hoá Quận 1 nhưng không ai biết (?). Tác giả cũng khẳng định “Diêu bông” là thứ lá huyền thoại mà mình sáng tạo ra.

Sau “Đổi mới”, khi giới thiệu chùm thơ này trên báo Lao Động năm 1991, tôi đã viết:

“… Đến hôm nay, thoát khỏi mọi vướng víu thời cuộc, bộ ba cây-lá-quả vẫn cứ ngây ngây men erotic của những ẩn ức ấu thơ sực mùi ổ rơm tóc ấm trộn với một liều lượng đắng cay của tuổi trẻ thất vọng đượm một nỗi u ẩn thế sự, vẫn nguyên sức cám dỗ của thứ rượu lâu năm nhấp môi thì ngọt, nuốt vào thì đắng, uống rồi thì chuếnh choáng ngậm ngùi”.

Và về ý nghĩa của cái “lá diêu bông”: “Theo tôi, cái tên đã hình thành một cách vô thức từ những liên tưởng do hai âm “diêu” và “bông” gợi lên. “Diêu” gợi nghĩa “phiêu diêu”, “bông” gợi nghĩa “bông lông” hoặc “nhẹ như bông”. Lá Diêu Bông là một cái lá bay phiêu diêu, vô định” (báo Phụ nữ TPHCM, năm 2001).

Đến hôm nay, chắc không ai hình dung nổi một bài thơ như thế “phản động” ở chỗ nào? Thế mà 43 năm trước đây, nó đã khiến hai nhà thơ một già một trẻ đi tù!!!

Nhưng hồi ấy, có một luồng suy diễn (không biết xuất phát đầu tiên từ an ninh văn hoá Việt Nam hay từ hải ngoại truyền về), cho rằng bài thơ ngụ ý: người nghệ sĩ/người dân (em) yêu Đảng (chị); chị vẽ ra một tương lai đẹp đẽ nhưng không có thật (“lá diêu bông” = chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản) để “em” đi tìm; nhưng “em” tìm mãi không thấy, trong khi đó “chị” bỏ đi lấy chồng (Đảng toạ hưởng lạc thú một mình) từ lúc nào! Để cho “em” cứ suốt đời bơ vơ gọi “Diêu bông hời, ới diêu bông!”.

Theo sư cô Chân Không ở Làng Mai bên Pháp, chính là người mang danh “Cần Thơ” đã được Hoàng Cầm gửi thư và thơ cho, thì Phạm Duy với lời bình chùm ca khúc “Cầm ca” đã góp phần khiến cho Hoàng Cầm mang vạ!

“Nhưng nhìn kỹ lại tình hình lúc đó, tôi thấy vào khoảng tháng 3 năm 1982 nhạc sĩ Phạm Duy đã cho ra đời hai băng cassettes: 1. Ngục ca, phổ biến 10 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện do Phạm Duy phổ nhạc, những bài như: Từ vượn lên người, Từ người xuống vượn, Cái lầm to thế kỷ… 2, (Hoàng) Cầm ca, trong đó có bốn bài thơ của Hoàng Cầm là Lá Diêu Bông, Qua vườn ổi, Cỗ bài tam cúc, Đôi cá đòng đong. Trong băng nhạc này, trước khi Thái Hiền hát, Phạm Duy đã nói tới các bài thơ này như những lời buộc tội chế độ Cộng sản của thi sĩ. Theo Phạm Duy, thi sĩ Hoàng Cầm đã ví Cộng sản như một người chị, một người đàn bà rất xấu mà muốn cho mình có một bộ mặt xinh đẹp nên đã dỗ dành bao nhiêu người em đi tìm cho mình những chiếc lá tô son điểm phấn cho chế độ và hứa hẹn sẽ thưởng khi tìm ra lá Diêu Bông, và dù cho có em nào đã tìm ra lá, cô chị vẫn xoè tay phủ mặt không nhìn. Phạm Duy lại viết trong tác phẩm Ngàn lời ca rằng Lá Diêu Bông là một loại lá đặc biệt ở làng Đình Bảng Bắc Ninh, phụ nữ Việt Nam thời xưa đã vắt nước lá này để bôi lên mặt cho da thịt thêm hồng hào tươi đẹp. Theo Phạm Duy, nhà thơ Hoàng Cầm đã cho rằng không ai có thể làm cho chế độ Cộng sản Việt Nam này tốt đẹp được. Trong khi đó, lời chú giải về Lá Diêu Bông của chính Hoàng Cầm viết cho tôi là: “Còn lá Diêu Bông không thể ai tìm thấy tên trong bất cứ một sách vở tài liệu nào về khoa học tự nhiên. Tự người đọc, nếu yêu thơ sẽ hình dung ra cái lá ấy. Một cái lá anh đặt tên để làm symbole (biểu tượng) thế thôi. Symbole của những mối tình cao đẹp, của những lý tưởng trong sáng, của những gì là Thật, là Lành, là Đẹp vốn có trong mỗi con người. Nhưng rồi cuộc sống lắm khi tàn nhẫn vì xâu xé vật lộn, vì ngu si tham lam nên lắm khi cái lá ấy ở ngay trong mình mà mình không thấy, và đến khi nhận ra thì cuộc đời đã tàn!”

(Hồi ký Cần Thơ về Kinh Bắc)

Tôi đã tìm đọc kỹ Hồi ký của Phạm Duy, phần nói về Hoàng Cầm ca, tuy có vài ý như trên, nhưng chốt lại, ông nhận định:

“Thế là sau khi quá mệt mỏi với loại ngục ca, tị nạn ca hay tủi nhục ca vì phải lên gân trước thời cuộc, những bài thơ ẩn dụ của Hoàng Cầm mà tôi soạn thành Hoàng Cầm Ca vào đầu thập niên 80 này làm cho tâm hồn tôi lắng xuống. Sau khi thấy dường như đã mất quê hương, tôi bỗng nhiên gặp lại quê hương qua những câu chuyện mà tôi cho là rất kỳ diệu, ảo huyền, lung linh và đầy thi vị…

… Đó là chuyện lá diêu bông, vườn ổi, cỗ bài tam cúc, chuyện tâm tình của những con bê vàng, con chim cu, con chào mào, con phù du, con chim vành khuyên… Quê hương mờ nhạt hay rực rỡ, êm đềm hay chua sót của tôi hiện ra, quả rằng còn quá nhiều cái đẹp, chứ không phải chỉ có ác mộng, ngục tù, hận thù và tuyệt vọng!

Những bài thơ trong tập Đường về Kinh Bắc của Hoàng Cầm được phổ nhạc thành Hoàng Cầm ca vẫn còn buồn rười rượi vì nó phản ảnh một miền của đất nước Việt Nam vào những năm 60-70 nhưng nó chứa đựng quá nhiều hương vị quê hương nên nó là liều thuốc an thần cho bản thân tôi sau khi tôi bị đắm chìm vào không khí chết chóc gây nên bởi thơ Nguyễn Chí Thiện (ngục ca) hay nhạc Hà Thúc Sinh (tủi nhục ca). Tôi cũng nghĩ rằng: là một người luôn luôn có phản ứng trước nghịch cảnh, tôi không nên tự đầy đọa tôi hay khuyến khích người nghe đi vào ngõ bí là sự thù hận, oán ghét, chửi rủa. Chắc chắn Đường về Kinh Bắc (nghĩa là đường về quê cũ) giúp tôi có một lối thoát”.

Hoàng Hưng gặp Nam Dao ở Canada 2019

 

Hoàng Cầm và Phạm Duy

Lá Diêu Bông: thơ Hoàng Cầm, nhạc Phạm Duy, ca sĩ Ỷ Lan