Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

Bến lở (kỳ 3)

 Tiểu thuyết

Nxb Lao Động, 2008

Tác giả Đặng Văn Sinh

 

CHƯƠNG 6

Phan có một anh bạn thân là Nhàn người Nam Định. Nhàn trông vẻ ngoài khá bụi bặm, đặc biệt là đôi mắt xếch và cái cằm bạnh nhưng thực ra lại hơi nhút nhát. Nhàn thêu rất nghề, đặc biệt là các loại hoa văn trên áo gối. Vào cái hôm Phan và Sa lấy củi ở đèo Dẻ, chiều về, nhìn thấy bộ dạng Phan có vẻ khác thường, Nhàn đã hơi nghi:

- Mày yêu con Sa đấy à?

- Đâu có. Cậu chỉ đoán mò. - Phan hơi chột dạ tìm cách lảng.

- Này nghe tao nói đây - Nhàn huých khuỷu tay vào sườn Phan, nghiêm giọng. - Đừng có vải thưa che mắt thánh, nhìn vẻ mặt mày lúc nào cũng như thằng mất hồn, tao biết thừa.

- Cậu nên bỏ công trường, sắm cặp kính đen với cái tráp về quê làm nghề thầy bói kiếm ăn được đấy.

- Thôi đừng tếu nữa. - Nhàn hạ giọng. - Hình như tay Đảo cũng đang có ý đồ cưa kéo… Mày liệu có miếng võ gà nào không mà định đấu tay bo với hắn.

- Hắn yêu ai thì mặc xác hắn việc gì đến tao mà phải đấu đá.

- Đùa vậy thôi. - Nhàn nhảy về giường mình nói với sang. - Chưa chi đã chạm nọc. Nói thật, Sa không để ý đến tay kỹ  thuật đâu. Có lẽ cô ta yêu mày thật. Ở cô gái này có cái gì còn bí ẩn lắm.

- Sao mày lại nói thế?

- Yêu thôi… thì được. - Nhàn nhận xét. - Nhưng lấy làm vợ cần phải suy nghĩ cho kỹ. Nó vừa xinh đẹp, vừa sắc sảo lại nhiều tuổi hơn mày, liệu sau này…

- Nói thật với mày, chính tao cũng đang băn khoăn.

- Từ trước đến giờ mày đã yêu ai chưa?

- Hình như có một lần, lúc ấy tao đang học cấp 3.

- Đó là thứ tình cảm lãng mạn kiểu học trò giống như mưa bóng mây tính làm gì.

- Theo mày thế nào là tình yêu thực sự?

Nhàn nhíu đôi mày xếch, bóp trán nghĩ một lúc rồi buột miệng:

- Thú thật, tao cũng không biết. Có thể mỗi thằng yêu một kiểu. Cái thứ này nó lạ lắm, chẳng thằng nào giống thằng nào.

Vào màn rồi mà Phan cứ trằn trọc mãi không ngủ được. Dưới chân cầu nước chảy ràn rạt. Đêm càng khuya tiếng suối càng rền rĩ. Còn rừng già thì vẫn lao xao với vô vàn những âm thanh bí hiểm. Một ngọn gió lạc lõng từ đâu đó chạm nhẹ vào mái nhà lợp phên nứa nghe uể oải như tiếng thở dài. Phan chập chờn trong trạng thái nửa thức nửa ngủ với những hồi ức lộn xộn không đầu không cuối. Lại một lần nữa, anh ngược dòng ký ức về với tuổi học trò.

Ngày ấy sao mà vô tư thế. Cả làng Yên chỉ có ba đứa. Phan, Quý và Tuyết. Tuyết ở xóm Chùa, sáng hôm nào cũng đứng cổng nhà Quý chờ. Cô nàng yếu bóng vía, đi một mình sợ ma. Khổ nhất là mùa đông. Những hôm rét cắt da thịt, ba đứa lếch thếch trên đường 176, tay ôm cặp, tay giữ áo mưa, đầu cúi gằm sải bước như là bơi trong làn mưa bụi và gió mùa đông bắc. Đến ngã ba Găng thì nhập với cánh làng Thượng. Bọn này cũng ở xa trường, phải đi từ lúc gần năm giờ mới kịp học tiết đầu. Thỉnh thoảng bọn thằng Khoan nghĩ ra những trò nghịch tếu. Một lần vào giờ sinh vật của cô giáo Oanh. Cô Oanh người Hà Nội, con gái một hoạ sỹ khá nổi tiếng. Cô còn trẻ, chỉ độ hăm ba hăm bốn nhưng rất nghiêm khắc. Thằng Khoan hiếu động, ngồi một chỗ không bao giờ yên. Thỉnh thoảng nó lén đấm trộm đứa này hoặc búng tai đứa khác. Đã mấy lần cô Oanh bắt đứng lên nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Lựa lúc cô giáo đang vẽ mặt cắt quả tim lên bảng nó liền co hai chân lên thò vào ngăn bàn lùa chéo sang ngăn của cái Mơ. Cái Mơ tức cấu nó một cái khá đau. Bất chợt cô Oanh nhìn thấy liền gọi:

- Khoan, lên bảng nói rõ cấu tạo của tim người.

Bị chộp đúng lúc, thằng Khoan đâm hoảng, loay hoay mãi không rút được chân ra. Cô Oanh xuống tận nơi nheo mắt hỏi:

- Cậu với cô Mơ làm gì thế?

- Dạ, thưa cô… không ạ.

- Lên bảng!

Tất nhiên là thằng Khoan không trả lời được bởi nó đâu có để ý đến bài giảng. Điều nó quan tâm hơn cả là chiếc xe đạp thiếu niên Liên Xô bố nó mới mua cho, làm nó vênh mặt lên với bạn bè kia. Làng Thượng còn có Thắm học cùng lớp với Phan. Thắm có co người thật lý tưởng, mặt trái xoan, cặp mắt đen láy lúc nào cũng như cười. Có thể nói vẻ đẹp của Thắm là vẻ đẹp thuần phác mang đậm phong cách dân gian, hồn hậu và duyên dáng. Cuối năm lớp 8, Phan để ý thấy Thắm hay đi học một mình, cứ đến ngã ba lại đứng chờ để nhập bọn với nhóm của anh. Ở trong lớp, bất chợt anh còn bắt gặp Thắm nhìn mình rất lạ. Những lúc như thế, Phan thấy tâm trạng xốn xang. Rồi Phan cũng nghĩ ra đủ mẹo tìm cách tụt lại sau để một mình đi với Thắm qua phố huyện đến trường. Đi với nhau nhưng cả hai chẳng nói được gì ngoài vài câu hỏi rời rạc không đầu không cuối, tuy vậy, xa nhau một ngày là Phan cảm thấy trong lòng bâng khuâng chỉ mong cho chóng đến thứ hai. Có lẽ kỷ niệm sâu sắc nhất là đêm liên hoan lửa trại vào dịp Festival học sinh sinh viên. Dịp ấy Phan và Thắm được ở gần nhau hơn. Thắm hát bài “Biệt ly” của Doãn Mẫn. Phan đệm guitare. Giọng Thắm vừa ngọt ngào vừa xót xa, nghe xong, cả bọn ai cũng có cảm giác, thế giới này là một cuộc chia ly, những lứa đôi sum họp với nhau chẳng qua chỉ là nhất thời thôi. Tiếc rằng, sau đấy không lâu, hồi cuối năm lớp chín, Thắm bị đuối nước trong lúc đi đò sang bãi sông An Khê cắt cỏ. Thắm mất đi để lại trong lòng Phan một khoảng trống vắng không gì lấp được dù rằng đó chỉ là mối tình tuổi học trò. Với anh, đó là mối tình đầu, một mối tình tuyệt đẹp nhưng ngay cả những phút giây đẹp nhất ấy, nó đã nhuốm màu biệt ly…

Ở quán Năm Gian có một khu ruộng màu trồng dưa chuột. Tan học, vào buổi trưa vắng người, thỉnh thoảng Phan và Quý lẻn vào ruộng vặt vài quả mang về sân hợp tác chấm muối ớt chén. Muối ớt thì lúc nào Tuyết cũng có sẵn trong cặp. Một lần Quý bị chông tre đâm vào bàn chân. Cậu ta đau quá, phải bò, mang cả mũi chông ra ngoài. Từ đấy Phan cạch không dám nghĩ đến chuyện trộm dưa nữa.

Cái thời ngồi ghế nhà trường có vẻ như đã lùi vào quá khứ nhưng thực ra mới chỉ cách đây có mấy năm. Phan cảm thấy nó xa bởi hiện tại anh đang ở một vùng không gian khác, trong một cộng đồng mới mẻ mà mọi suy nghĩ, hành động hoàn toàn không giống với bản chất vô tư của tuổi học trò. Đêm quá dài, dòng suy nghĩ của Phan luôn bị ngắt quãng bởi tiếng chim tử quy gọi nhau trên cánh rừng trúc. Tiếng chim nghe rời rạc mà âm điệu xem ra có vẻ tha thiết. Cứ con trống kêu một tiếng con mái lại kêu một tiếng. Chen vào giữa những tín hiệu ái ân ấy là giọng ồm ồm của một con ễnh ương bên bờ suối. Con này chắc đang kiếm bạn tình nhưng chưa có cô nàng nào đáp lại. Nó phồng mang rên ư ử theo một ngữ điệu rất khó chịu.

Sáng ra, Phan mệt mỏi vô cùng. Anh đánh răng rửa mặt xong, xách bát xuống nhà ăn. Nhìn thấy Sa đang ngồi tước măng, Phan lại gần nói nhỏ:

- Chiều nay chị có đi hái doi không?

- Hái ở đâu? - Sa hỏi có vẻ thờ ơ.

- Đoạn suối Nà Gâm. Mấy hôm trước đi câu qua tôi thấy chung quanh bãi đá có khá nhiều doi chín.

- Xa quá. Chân Sa lại què…

- Chị nói gì mà nghiêm trọng thế? - Phan cúi xuống nhặt một miếng măng tách làm đôi đưa cho Sa một nửa rồi thì thầm: - Nếu đau tôi sẽ dắt…

- Này! - Sa cũng thì thầm, - liệu có dắt được suốt đời không? Bây giờ tôi thành phế nhân rồi, đừng lấn cấn làm gì nữa.

- Không, chị phải đi. Tôi có chuyện muốn nói.

- Nói ở đây không được à?

- Không. - Phan trả lời dứt khoát, giọng như ra lệnh. - Tôi chờ ở bãi doi đấy…

Dọc theo các triền suối Nà Gâm có những bãi cát mọc lên cả một rừng doi. Đó chỉ là những cây doi dại nhưng cái chính là nó tạo ra một vùng cảnh quan sinh động. Trưa hè vào rừng doi ai cũng cảm thấy thư thái giữa không gian lúc nào cũng thoang thoảng mùi hương man mát của những chùm quả đang chín. Chiều buông, nắng nhạt dần, gió ngàn chạy dọc thung lũng bị những tán doi xoè ra chắn đường, đành đổi hướng trườn xuống bờ suối, ve vuốt những ghềnh đá phủ đầy rêu xanh rồi lại tản ra, chập chờn trên mặt nước, làm dậy lên hàng vạn con sóng nhỏ lăn tăn.  Có lần nhìn thấy Sa vắt vẻo trên một cành cao, mớ tóc loăn xoăn, buộc túm lại bằng chiếc lạt, đôi tay búp măng hái thoăn thoắt, chốc chốc lại đưa một quả phơn phớt đỏ lên miệng ăn ngon lành, anh thấy nhói lên một cảm giác rất lạ, muốn có cây cọ ký hoạ ngay một kiểu. Sa ngồi hái doi trong một tư thế rất đẹp.

Khi Sa tập tễnh ra đến nơi thì Phan tưởng như đã hết hy vọng, không thể kiên nhẫn chờ thêm được nữa. Anh cầm tay Sa dắt cô ngồi xuống một tảng đá. Hoàng hôn mờ dần và trăng đầu tháng có lẽ đang ngập ngừng lấp ló ở đường chân trời. Khi mảnh trăng vừa nhô lên khỏi chóp núi, mỏng manh như sợi chỉ bạc, Sa hỏi:

- Phan có biết vì sao đầu tháng trăng trong mà cuối tháng trăng úa không?

- Nếu loại trừ những yếu tố vật lý ra, - Phan ngẫm nghĩ một lúc rồi nói - tôi nghĩ, nó cũng giống như trạng thái tâm lý con người.

- Nghĩa là cũng có lúc đầy lúc vơi, lúc vui lúc buồn?

- Thế đấy, khi buồn người ta hay nghĩ vẩn vơ, thậm chí còn muốn quên đi những thứ mà đáng lẽ ra không thể quên.

- Phan nói bóng gió gì thế?

- Vì sao từ khi ở bệnh viện về Sa cứ lảng tránh tôi?

- Phan là người có tài. - Giọng Sa đượm vẻ chua chát. - Sự nghiệp vẫn còn đang ở phía trước, đừng phí hoài tuổi trẻ. Còn Sa, mọi thứ đã kết thúc.

Phan nắm bàn tay búp măng kéo nhẹ về phía mình giọng hờn dỗi:

- Chị quên những gì đã nói ở dốc Đá Trắng rồi ư?

Sa lặng lẽ gật đầu:

- Lúc ấy khác, bây giờ khác. Vả lại, ở đời cũng có lúc phải quên đi những điều không đáng nhớ.

 - Chị ác lắm! - Phan thở dài. - Tôi biết làm thế nào để chị hiểu.

 - Tôi không cần người khác thương hại. - Sa thủng thẳng nói, giọng nghèn nghẹn - Thương hại chính là biểu hiện tầm thường của nhân cách.

*

Đầu năm 1967, C22 được tách ra làm đôi, một bộ phận chuyển vào Quảng Bình, phần còn lại sáp nhập với C24 mới từ Nước Hai về, tiếp tục mở đường qua đèo Mã Phục thông sang thị trấn Trà Lĩnh. Phan nằm trong số phải ra đi. Anh băn khoăn về Sa lắm nhưng không dám xin ở lại, sợ bị đánh giá “tư tưởng có vấn đề, sợ chết không dám vào tuyến lửa”. Danh sách những người ra đi đã được ông Thành đọc trước toàn đội nhưng đi vào lúc nào thì còn phải chờ. Không khí C22 trong những ngày này chẳng khác gì nhà có tang. Khắp nơi, đâu đâu cũng thấy cảnh chợ chiều. Công việc không chạy, năng suất giảm hẳn và buồn hơn cả là hàng ngày thiếu vắng tiếng cười.

Sa vẫn lặng lẽ với công việc của mình. Buổi tối cô không ra ngoài chỉ ngồi thắp đèn đọc sách hoặc ghi nhật ký. Từ ngày bị tai nạn lao động Sa đã viết hết hai cuốn sổ tay. Viết được cuốn nào cô lại xếp xuống đáy va ly, một thời gian sau, mở ra đọc lại rồi châm lửa đốt. Nhìn thấy cảnh ấy, chị Đài bảo:

- Mày điên đấy à? - Nếu viết xong mà đốt đi thì viết làm gì cho khổ hả Sa?

Sa nhếch mép cười gượng:

- Toàn những thứ lăng nhăng không đốt để chật hòm chị ạ.

Sự thật những thứ Sa ghi trong nhật ký không phải là lăng nhăng. Một lần, trước khi châm lửa, Sa đã cho Phan đọc mấy trang, trong đó có đoạn: “Số phận con người đôi khi phụ thuộc hoàn toàn vào sự may rủi. Hình như sự may rủi còn mang tính quy luật như là quy luật chi phối vạn vật trong trời đất nữa. Hôm qua mình và P đi chơi chợ nếm rượu mía và ăn bánh khảo. Thứ bánh này làm bằng bột nếp tẩm đường đóng vào khuôn có hoa văn trông rất đẹp. Lúc về định đi tìm dâu da thì bị lạc đường. Luẩn quẩn thế nào hai đứa lại hỏi thăm vào nhà một ông người Kinh. Ông sống âm thầm trong ngôi nhà cô đơn giữa rừng đại ngàn như một ẩn sĩ. Hoá ra trước đây ông là lính Trung đoàn 7 mắc bệnh phong, không cùng đồng đội hành quân về Tây Bắc được. Thật may cho người cựu chiến binh, ông được một thầy thuốc người Cao Lan chữa chạy cho hơn một năm thì khỏi. Ông không về quê, có lẽ vì mặc cảm và cũng có thể ở Thanh Hoá không còn người thân thích nên đã xây dựng cơ ngơi của mình thành một trang trại và hoàn toàn bằng lòng với cuộc sống đơn côi. Một sự bất ngờ không thể lường trước là ông đã từng là đồng đội với bố mình. Ông Song đã kể rất nhiều về bố và khẳng định rằng bố không bao giờ là kẻ đầu hàng địch. Bố ơi! Sống khôn chết thiêng, nếu quả thật bố đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thì hãy về báo cho con biết…”

Một đoạn khác đề ngày 16 tháng tám: “Chị Đài và Diệu rủ đi hái hoa chuối về làm nộm. Phía dưới thung lũng Nậm Cắn là cả một rừng chuối, quanh năm âm u, không bao giờ biết đến ánh sáng mặt trời. Cuối xuân sang hè, hoa chuối đâm bông. Thạt không ngờ, rừng chuối mà lại nhiều khỉ. Thoáng thấy người, bầy khỉ mặt choắt, lông xám nhảy rào rào trên tán lá, vừa chuyền từ cây nọ sang cây kia chúng vừa kêu “choéc! choéc!”. Chị Đài dùng dao quắm chặt gần chục nhát mới đánh đổ được một cây “khổng lồ” cao gần hai chục mét có buồng quả dài như chiếc đòn gánh đang chín. Thật là mất công toi. Quả chuối mập mạp, vàng óng trông hấp dẫn lắm mà bên trong toàn là hạt không ăn được. Thấy chị Đài cắn thử một miếng rồi nhăn mặt, cái Diệu bất ngờ bảo: “Loại chuối rừng này giống hệt tính cách ông Đảo”. Chị Đài bảo: “Lão ta trông bề ngoài ra dáng phong lưu nhưng bụng dạ hẹp hòi. Thấy hắn ta quanh quẩn ở A4 hàng tháng, tao cứ tưởng thế nào cái Sa cũng “bị”, không ngờ mày lại cho hắn một vố”. Diệu vừa xâu hoa chuối vào một sợi dây vừa nói: “Lại còn cái vụ chị Đài bắt hắn phải khao cả một tay nải ngô của mế Quy nữa chứ. Hôm ấy trông mặt hắn khó đăm đăm”. Mình bảo chị Đài: “Thế mà chủ nhật anh ta ra Cao Bằng thăm em thật. Hôm ấy hắn chải tóc bóng mượt, hình như bôi cả sáp nữa, gặp em mồm miệng dẻo như kẹo”. Chị Đài cười nhạt: “Nghe đâu chàng ta cũng đã tán cái Thuý ở A6 nhưng bị nó "đá".

Ngày đi đã đến gần. Dịp ấy cuối tháng hai âm lịch. Trời đã bớt lạnh nhưng mưa phùn giăng giăng như bụi phấn. Suốt hàng tuần liền, núi rừng chìm trong màn sương ẩm ướt. Những con chim nhạn đen chẳng biết từ đâu về cứ bay chấp chới trên mặt suối như là đang soi gương ngắm mình sau những ngày dài tránh rét ở phương nam. Rải rác trên khắp triền đồi là những bông lau phất phơ trong mưa bụi. Hoa lau trắng đục, nở bung ra xác xơ trong nỗi buồn miên man. Buổi sáng trước hôm vào Quảng Bình, Sa viết cho Phan mấy chữ: “Muốn chia tay lần cuối. Chỗ hẹn vẫn như cũ”.

Khi hai người đến suối Nà Gâm, Sa chỉ tay lên núi bảo Phan:

- Sa muốn ăn mận dại…

Phan lội qua suối, trèo lên lưng chừng dốc, hái ít quả mang xuống. Sa lấy trong túi ra một gói muối ớt. Nhìn thấy muối ớt Phan bật cười:

- Sa thật giống cô Tuyết cùng học với Phan hồi còn ở nhà, lúc nào cũng kè kè gói muối ớt ăn với dưa chuột vặt trộm ở quán Năm Gian.

- Con gái mà, - Sa vừa ăn mận vừa nhìn Phan, - đứa nào chẳng giống đứa nào.

- Ngày mai Phan đi chắc khó có dịp trở lại Cao Bằng. Chị… Sa có… nhớ những kỉ niệm của chúng mình? - Phan lặng lẽ nhìn dòng suối đang mờ dần trong ánh chiều nhợt nhạt, hỏi khẽ.

- Cho đến lúc này mà sao Phan vẫn còn khách sáo thế? - Sa nói như hờn dỗi - Chả nhẽ sống gần nhau mấy năm qua Phan không thay đổi được cách xưng hô ư?

- Sa! - Phan bất ngờ cầm bàn tay Sa giọng run run. - Nhất định sau này thế nào tôi cũng tìm được em.

- Đừng! - Sa lắc đầu, giọng chua chát. - Thời buổi chiến tranh chẳng biết đâu mà nói trước. Hơn nữa, bàn chân của Sa đã tật nguyền, em không muốn ràng buộc anh bởi một trách nhiệm…

- Sa! Anh yêu em… - Không đợi Sa nói hết, Phan kéo Sa vào lòng, ghì chặt lấy cô thì thầm trong hơi thở gấp gáp. - Hãy chờ anh…

Sa quàng tay lên cổ Phan, đôi mắt đẫm nước, giọng thổn thức:

- Không, Sa không muốn làm khổ anh bằng một lời hứa. Cuộc đời đã dạy cho Sa biết cần phải làm gì để người ra đi chân cứng đá mềm.

- Sao Sa lại nói thế? Chả lẽ em không tin anh nữa?

- Tin chứ. - Sa gục đầu vào ngực Phan, giọng ngập ngừng. - Chính vì tin nên mới bảo anh ra đây. Anh còn nhớ những lời Sa nói ở dốc Đá Trắng  không?

- Nhớ, nhưng sao lại hỏi anh thế?

- Anh ơi, ngày mai chúng ta xa nhau rồi, và biết đâu sẽ là mãi mãi… Em muốn... trước lúc biệt ly… - Sa đăm đăm nhìn vào mắt người yêu, lưỡng lự giây lát rồi đưa bàn tay búp măng bật khuy áo ngực.

- Kìa em! - Phan bỗng run lên, người nóng ran như đang lên cơn sốt. - Anh…

- Sa đã nói là… cho anh từ lâu rồi kia mà...

 

CHƯƠNG 7

Gần một tháng sau Sa nhận được bức thư đầu tiên. Phan đã vào đến Quảng Bình, viết cho Sa từ một cung đường Trường Sơn.

Quảng Bình ngày 21 tháng ba...

Sa thân yêu! Anh đang ở một cung đường trong rừng miềm Tây Quảng Bình. Giờ này mới có thời gian viết cho em vì hơn hai mươi ngày qua bọn anh liên tục phải đi trong tiếng gầm rú của máy bay phản lực và dưới tầm đạn pháo từ hạm đội 7 ngoài biển bắn vào. Đơn vị đến nơi lại bị tách ra bổ sung cho các đại đội thanh niên xung phong làm công tác đảm bảo giao thông. Riêng anh được phiên chế vào một đội khảo sát thiết kế. Nhiệm vụ của đội là tìm một tuyến đường mới để bộ đội và thanh niên xung phong thi công.

Rừng Trường Sơn đẹp lắm nhưng mùa này mưa phùn triền miên, mọi thứ đều ẩm ướt rất khổ cho chị em phụ nữ. Nơi bọn anh "hạ trại" là một ngã ba dưới tán rừng săng lẻ. Những cây săng lẻ mập mạp vươn lên cao tán, xoè rộng ra tạo thành một thứ mái che lí tưởng làm cho máy bay Mỹ từ trên trời không thể nào phát hiện được. Gần Đội khảo sát có một đơn vị thanh niên xung phong Thái Bình. Họ mới vào chưa được hai năm đã có những cô sốt rét rụng tóc trọc đầu. Sinh hoạt của chị em ở đây kham khổ hơn Cao Bằng nhiều nhưng tình cảm các cô đối với mọi người thì chân thành, cởi mở không thể gì so sánh được. Đêm Trường Sơn, gió ngàn âm u và mưa rơi trên mái lá nghe sao mà buồn. Càng buồn càng nhớ em - một mảnh đời của anh còn gửi lại đất Cao Bằng, biết bao giờ mới được gặp lại? Ở xa đâu đó, gần phía Vĩnh Linh, vọng lại tiếng ì ầm của phản lực F105 và tiếng bom nổ như sấm rền. Gần mặt trận lắm rồi, có lẽ chẳng bao lâu nữa, đơn vị bọn anh cũng sẽ vượt sông Bến Hải. Tuần trước anh gặp chị Đài ở Binh trạm 12. Chị ấy vẫn đen như trước nhưng vẫn tình cảm lắm, việc đầu tiên là hỏi về em đấy. Anh Khải và cậu Khoát đã chuyển sang quân đội. Cả hai người đều thuộc quân số của Binh trạm 15. Khi anh ngồi viết cho Sa những dòng này chắc họ đang trên đường hành quân vào miền Tây Quảng Trị. Anh vừa kiếm được một cụm phong lan, loại phong lan kiếm rất đẹp và hiếm ở rừng Trường Sơn trong dịp đi thăm dò một tuyến giao thông mới. Cây phong lan này có những cánh hoa kép, khi nở nó xoè ra khum khum và thon như bàn tay búp măng của em”.

Một tuần sau Sa lại nhận được thư Phan.

Quảng Bình ngày 28 tháng 3…

Em thân yêu! Bọn anh vừa bị một chuyến lạc rừng nếu không có mấy cô thanh niên xung phong thì chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nguyên nhân là bị một trận bom toạ độ mất sạch cả bản đồ lẫn địa bàn. Không có ai chết nhưng một anh kĩ sư bị mảnh bom chém vào tay. Cả bọn đang dò dẫm trong đêm thì gặp ông già Vân Kiều đi thăm bẫy gà rừng. Ông tình nguyện dẫn đường về Trạm 83. Trạm này mới được thành lập, chuyên vận tải lương thực thực phẩm và khí tài quân sự. Hoá ra các cô đều là người Kinh Bắc. Tuy không đồng hương mà các cô phấn khởi lắm, trong kho có thứ gì ngon đều mang ra chiêu đãi anh em. Trạm có một cô tên là Quỳnh khá xinh, mắt giống như mắt em ấy. Quỳnh mới vào Quảng Bình chưa được một năm, vừa tròn mười tám, nhìn cái gì cũng ngơ ngơ ngác ngác như chú nai con lạc vào chốn đại ngàn hoang vu. Anh chàng Phóng, trung cấp kĩ thuật giao thông phải lòng Quỳnh, cứ vài ngày lại cuốc bộ đường rừng mười hai cây số đến Trạm chỉ để nhìn thấy người đẹp. Ngày lại ngày, thời gian cứ trôi đi trong nỗi nhớ thương em da diết. Anh ân hận vì cái sáng kiến chết tiệt ấy đã làm mất đi một phần vẻ đẹp của em… Anh hiểu hoàn cảnh em và thương em hơn bao giờ hết. Những ngày rảnh việc em nên rủ Diệu vào thăm ông Trần Quang Song. Ông ấy sống cô đơn mà giàu lòng nhân ái. Số phận không may đã giữ ông ấy lại mảnh đất Hoà An. Sao con người lại khổ đến như thế em nhỉ? Nỗi khổ của ông là sự dằn vặt của tâm hồn bởi những định kiến bất công của chính con người với con người. Giờ này, đêm đã khuya lắm. Rừng già âm thầm chìm trong biển sương mù mông lung. Một con hoẵng nào đó đang lơ mơ trong giấc ngủ chập chờn bỗng giật mình tác lên bởi tiếng động bất ngờ của cành cây gãy. Lũ chim bắt cô trói cột vốn dĩ lắm điều ban ngày giờ lại giở chứng làm ầm ĩ ban đêm. Tất cả những âm thanh vừa gần vừa xa ấy cùng với tiếng gió xào xạc trên mái nhà làm cho đêm Trường Sơn có cái gì bí hiểm, cô quạnh.

Trước hôm lạc rừng mấy ngày, nhóm của anh đi tìm đường tránh vượt sông cho tuyến 7B. Tuyến này phải men theo triền dốc phía đông dãy núi Thiên Cang, bắt sang một vùng cây cối um tùm nhô lên như hòn đảo giữa bạt ngàn lau sậy. Bọn anh xác định toạ độ. Nó chỉ là một chấm nhỏ nằm giữa hàng trăm ngàn những chấm nhỏ khác trên bản đồ quân sự tỷ lệ 1/100.000 mang cái tên rất lạ: Vít Thu Lu. Xong việc, anh Biên vung dao quắm mở một đường tiến vào giữa đảo, nơi có cây táo hậu cụt ngọn đánh dấu điểm khống chế. Vừa vào đến nơi anh Biên đã nhảy vụt, mặt biến sắc như bị ma ám.

- Các cậu… đi khỏi đây thôi.

- Cái gì làm anh hoảng lên thế? - Cậu Thiết, người nhọn như con sào, hấp háy cặp mắt cận thị hỏi dồn.

- Mình nhìn thấy một cái võng mắc vào hai chạc cây. Hình như anh ta… chết rồi.

- Nào, ta phải vào xem sao. - Thiết kéo tay anh. - Đối với tớ cái gì cũng phải mục sở thị. Có thể bố Biên thần hồn nát thần tính cũng nên.

Và em biết không, đúng là dưới tán cây táo hậu có chiếc võng bạt. Trên võng là một anh bộ đội đã chết. Khẩu AK47 dựa gốc cây, còn chiếc ba lô rơi ngay bên cạnh chỗ mắc võng đã bị mối xông. Anh bộ đội chết trong tư thế co quắp, các ngón tay nắm chặt biểu hiện sự vật vã trong cơn đau dữ dội. Nhìn thoáng qua, Thiết bảo:

- Anh ta bị sốt rét ác tính chắc mới chết chỉ một hai hôm. Bây giờ cậu ra gọi anh Biên vào đây xem trong người có còn giấy tờ gì không rồi mai táng cho anh ấy. Thật tội cho bà mẹ nào có một người con trai chết thê thảm như thế này.

Tìm mãi chẳng thấy một thứ giấy tờ tuỳ thân nào của anh bộ đội, bọn anh đành hạ võng liệm cho anh ta bằng tấm tăng tìm được trong ba lô rồi đào huyệt chôn ngay dưới gốc cây. Chiều hôm ấy, về đến Trạm 83, chẳng ai ăn nổi lưng bát cơm mặc dù các cô phục vụ đã nấu nướng rất ngon và có phần ưu tiên hơn vì bọn anh là khách. Rừng Trường Sơn và cuộc sống của những người lính bản thân nó đã là sự tích thần kì nhưng không phải lúc nào cũng có "tiếng hát át tiếng bom" và nụ cười chiến thắng. Trường Sơn còn là khúc ca bi tráng của những chiến sĩ vô danh nằm lại vĩnh viễn ở mảnh đất này như anh bộ đội lạc ngũ kia phải không Sa?

Quảng Trị ngày 15 tháng...

Bây giờ thì anh đang ở miền Tây Quảng Bình. Giữa tháng sáu, một bộ phận của đội, chuyển hẳn sang binh trạm K2 và vượt sông Bến Hải ở phía thượng nguồn. Càng vào sâu càng gặp nhiều đơn vị thanh niên xung phong có thâm niên bám trụ ở chiến trường. Bọn anh lại đóng trại ở một ngã ba có cái tên rất lạ: Ngã ba Thời Gian. Ngay đầu đường rẽ, tại cây số 78 có chiếc xe kéo pháo 37 bị đổ. Khẩu pháo cao xạ hai nòng bị tách ra nằm sát bờ vực. Tối hôm ấy cậu Thiết và cậu Đổng lần mò xuống tận chỗ xe đổ lấy về mấy hòm đạn. Từ đó hễ có anh em từ ngoài Quảng Bình vào bọn anh lại bắn “pháo hoa” đón tiếp. Pháo hoa đây chính là những viên đạn 37 li được tháo đầu nổ, cho đầy thuốc phóng, để vào giữa cái “pông” xe hỏng rồi châm lửa đốt. Thuốc phóng bắt lửa cháy nổ lốp bốp bắn lên cao trông như pháo thăng thiên.

Hết thức ăn thì đi bắt cá. Cách bắt cá hiệu nghiệm nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất là nổ mìn. Ngoạn và San là hai tay nổ mìn cá cừ khôi của đội khảo sát, có những hôm đánh được hàng tạ, phải chặt cây chuối, đóng bè kéo về. Mìn ở đây không thiếu. Bọn anh chỉ cần tặng cánh công binh gói thuốc lào Tiên Lãng là họ tuồn cho hàng chục kí lô với cả hộp kíp và cuộn dây cháy chậm. Nhưng nổ mìn đánh cá dễ mất mạng lắm. Gần đây bên C12 thanh niên xung phong đã có một cậu bị chết vì cắt dây cháy chậm quá ngắn, quả mìn chưa kịp rời tay đã nổ. Sau mấy vụ tai nạn như thế, bây giờ người ta ra lệnh cấm và nghiêm trị những kẻ cố tình vi phạm. Những con đường xuyên Trường Sơn đang dần dần hình thành theo dấu chân của những chiến sĩ khảo sát và các đơn vị thanh niên xung phong. Trong hoàn cảnh chiến tranh, cái sống kề ngay bên cái chết con người thương nhau lắm. Những tính toán nhỏ nhen, vị kỉ không có chỗ tồn tại trong tâm hồn của một thế hệ thanh niên sống vì lí tưởng cao đẹp. Có thể nói, Trường Sơn chính là nơi lí tưởng thử thách bản lĩnh con người. Hồi còn ở Quảng Bình, tại ngầm Đá Xanh anh đã được chứng kiến cảnh một cô gái quê Hải Dương tiễn bạn trai vào chiến trường. Phút chia tay cô dặn người yêu trong tiếng nấc: “Anh ơi khi nào hết hạn phục vụ, em sẽ về quê Hưng Yên chăm sóc mẹ đợi anh”. Anh con trai bịn rịn không nỡ rời người con gái. Nhưng rồi đoàn quân nối nhau vượt dốc trùng trùng ra đi, anh lại hăm hở xốc ba lô bước theo. Thật không may cho hạnh phúc lứa đôi, chỉ sau đấy mấy hôm, trận bom thù đã cướp đi sinh mệnh người con gái. Cô ngã xuống như một người anh hùng, chẳng khi nào còn có dịp về quê xứ nhãn để lại trong lòng người ra đi vết thương không dễ gì hàn gắn được. Còn nữa, mới hôm qua thôi, một tiểu đội thanh niên xung phong bị bom toạ độ ở ngầm Khe Lan. Trận oanh tạc của máy bay Mỹ kéo dài chưa đầy năm phút nhưng thiệt hại thì không gì so sánh được. Bốn cô hi sinh, năm cô bị thương trong đó cô Vi bị mảnh bom chém vào sườn trái, máu ra nhiều, khó lòng qua khỏi. Vi là người Vũ Tiên Thái Bình nhưng quê gốc Nam Định nên cậu Thiết vẫn nhận là đồng hương. Cô ấy có đôi mắt bồ câu, lúc nào cũng như cười làm không ít chàng trai trong đội Khảo sát thầm mong trộm nhớ. Khi bọn anh đến trạm xá thì Vi đã yếu lắm. Cô gái trẻ đau đáu nhìn cánh con trai và thì thầm trong hơi thở hổn hển:

- Các anh ơi… em tiếc là chưa được người… con trai nào… ngỏ lời…

Anh chợt thấy sống mũi cay cay, vội đưa mắt cho Nguyễn Bằng, một kĩ sư giao thông vừa mới ra trường, khẽ bảo:

- Anh Bằng…

Bằng hiểu ý. Anh lẳng lặng cúi xuống hôn nhẹ vào môi cô gái. Vi đón nhận nụ hôn một cách nồng nàn bằng niềm khao khát cháy bỏng của tuổi hai mươi dồn nén lại rồi bình thản ra đi… Anh từ từ vuốt mắt cho cô. Đến phút ấy, mọi người chung quanh, những bạn bè còn lại trong tiểu đội, trung đội, đại đội, cả anh Bằng, cậu Thiết và anh đều oà lên khóc…

Anh viết cho em những dòng này trong lúc tâm trạng vẫn còn day dứt bởi cái chết mang màu sắc anh hùng ca của người con gái. Cuộc đời thật lạ, có khi chỉ những giây phút ngắn ngủi ấy thôi, vậy mà nó tạo nên nỗi ám ảnh đeo đẳng mãi trong tâm hồn ta. Hôn em và mong em mạnh khoẻ. Anh của em.

Hôm nhận được bức thư thứ hai của Phan, Sa thấy trong người khó chịu. Cô đi nằm sớm, thỉnh thoảng lại giở thư ra đọc. Sáng hôm sau, Sa dậy muộn. Cô nhờ Diệu xuống báo với ông Liệu là bị ốm. Lúc cả đơn vị đã ra hiện trường, Diệu thấy Sa nôn oẹ liền hỏi:

- Sa, mày sao thế? Hay là hôm qua ăn nhiều mận quá?

Sa ngẩng lên đầu tóc bơ phờ, giọng mệt mỏi:

- Không sao đâu. Tao chỉ hơi bị choáng một tí. Có thể là bị cảm.

- Thôi cứ nằm yên đấy, tao đi kiếm ít lá xông là khỏi ngay. - Cô Diệu kéo vỏ chăn đắp cho Sa. - Việc nhà bếp đã có tao thay. Ông Liệu lúc sáng say thuốc đổ xuống cạnh bếp lò cháy xém một bên tóc.

Sáng chủ nhật, Sa rủ Diệu đi tìm dâu da. Hai người qua cầu, theo đường mòn, tắt rừng vào bản Pò Lèng gần đó. Bản Pò Lèng chỉ có sáu, bảy nóc nhà sàn dựa lưng vào sườn núi gần như thẳng hàng, mặt tiền quay ra suối Nậm Pạng. Chính giữa bản có cây dâu da cổ thụ cỡ hai người ôm. Không biết cây này có từ bao giờ. Mỗi năm cứ đến cuối đông là ra hoa, cuối xuân sang hè là quả chín. Bà con dân bản không ăn loại quả này. Dâu da chín nẫu rụng đỏ ối dưới gốc. Nhìn thấy Sa ăn lấy ăn để hàng chục quả liền, Diệu sinh nghi hỏi:

- Này, hình như mày có…

Sa vừa ăn vừa gật đầu:

- Còn hình như gì nữa, có lẽ đã được… hai tháng.

- Thôi chết! - Diệu tái mặt. - Làm sao đến nông nỗi này? Lão Đảo phải không?

Sa cười nhạt:

- Làm gì mà cuống lên thế. Tay Đảo ấy à, tao tuy què thật nhưng hắn đừng hòng động vào người.

- Thế thì thằng nào? - Diệu bỗng mếu máo. - Đúng là khôn ba năm dại một giờ. Sao mà mày ngốc thế…

- Chính vì vậy tao mới phải rủ “mụ” vào đây. Bây giờ “mụ” bảo phải làm thế nào?

- Giời ạ! - Diệu lấy tay áo quệt nước mắt. - Gay rồi. Ông Thành với ông Lê Thông mà biết thì bị đuổi về quê là cái chắc. Nhưng mà là ai mới được?

- Sao mày cứ lục vấn tao mãi thế? - Sa nhấm nhẳng. - Mày không đoán ra à?

- Á à! Anh chàng Phan phải không? Chúng mày kín đáo thật… giờ chỉ còn một cách. - Diệu cắn môi suy nghĩ một lúc rồi khẽ bảo - là phải sớm cho cái thai ra.

- Không được. - Sa giãy nảy lên. - Chúng tao yêu nhau và tao muốn có đứa con… Mày nghĩ xem, cái chân tao mỗi bước đi lại phải kéo lê thế này, thử hỏi có gã đàn ông nào dám rước về làm vợ.

- Mày điên à? Xinh đẹp mà lại tài hoa như mày thiếu gì những kẻ si mê xin chết. Ngay tối hôm qua, cánh con trai nghe tin mày ốm đã kéo nhau đến thăm đấy thôi.

Sa lắc đầu:

- Họ đến thăm vì thương hại chứ đâu phải vì tình yêu. Sự thật hiển nhiên là từ khi tao bị tật nguyền, những chàng trước đây vẫn sớm trưa săn đón giờ đều nhất loạt lảng tránh. Như tay Tuấn, tay Khánh…

- Sao mày sớm bi quan mà vội làm hỏng đời mình thế? - Diệu trách bạn. - Mày đẹp lắm, đẹp đến mức tao là con gái mà cũng phải mê. Nhưng, hình như hoàn cảnh mày có cái gì đó không ổn cho nên cách ứng xử nhiều lúc làm người ta khó hiểu.

- Cảm ơn Diệu. - Sa bỗng thay đổi cách xưng hô. - Hồi còn đang học, mình đã tập tọng làm thơ, một đứa bạn gái cùng lớp xem xong rồi nó vận ngay một câu Kiều tiên đoán cho hậu vận của mình:

“Rằng hay thì thật là hay

Xem ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”

Giờ nghĩ lại đã thấy có phần ứng nghiệm. Có lẽ cái số của mình phải thế.

Trên đường về, Diệu bảo Sa:

- Chuyện mình nói với cậu là nghiêm trọng đấy, cần phải có ngay quyết định để tránh rắc rối vì cái thai sẽ mỗi ngày một lớn.

- Cậu để mình suy nghĩ đã. - Sa ngẫm nghĩ mãi rồi mới nói. - Hay là mình xin nghỉ phép?

- Cậu điên đấy à? Định vác cái bụng về quê mà không có chú rể đi theo thì hãy chuẩn bị mo cau trước, đến cổng làng đeo vào cho khỏi xấu hổ.

Đêm hôm ấy Sa trằn trọc mãi không ngủ được. Cô đang nghĩ làm thế nào thoát ra khỏi tình trạng hiện nay để vừa giữ được đứa con lại vừa bảo toàn danh dự. Xin nghỉ phép cũng là một cách nhưng rõ ràng khó thực hiện vì lúc này Phan đang ở chiến trường, không thể về cùng một lúc với cô. Xét về lí, hai người chưa hề được công nhận. Hơn nữa, trong thâm tâm, Sa không muốn Phan bị ràng buộc với mình mặc dù cô yêu anh hơn bao giờ hết. Có lẽ Diệu nói đúng khi bảo rằng trong con người Sa có cả một khối mâu thuẫn. Lúc này Sa nhớ Phan vô cùng. Đọc những dòng chữ của Phan, Sa càng tự hào mình đã chọn đúng người trao gửi tâm hồn. Tự hào bao nhiêu cô càng thương anh bấy nhiêu. Bất giác cô thở dài, những giọt nước mắt mặn chát lăn trên gò má.

Mấy hôm sau Sa rủ Diệu vào bản Poọc mua bồ kết gội đầu. Diệu lựa lời hỏi Sa:

- Điều mình nói với cậu đã nghĩ kĩ chưa? Tốt nhất nên giải quyết ngay đi, hay là còn vương vấn gì?

- Tâm trí mình bây giờ rối như tơ vò chẳng biết làm thế nào Diệu ạ.

- Thôi được, mình sẽ đưa cậu ra bệnh viện thị xã. Ngoài ấy xa…

- Nhưng không có giấy tờ làm sao người ta chịu?

- Thế mới gay. - Diệu chép miệng lo lắng.

- Mình biết có một ông lang đã từng chữa khỏi được bệnh phong… Nhưng thôi, chuyện ấy để mình nghĩ thêm. Bây giờ ta vào nhà bác Song. Bác ấy có cây bồ kết năm nay sai quả lắm.

Hai người vào đến sân thấy ông Song và một cụ già đang vặt quả dành dành cho vào chiếc túi thổ cẩm thêu có tua đỏ. Ông cụ có lẽ phải đến bảy tám mươi nhưng trông có vẻ vẫn còn nhanh nhẹn. Nhìn thấy Sa tập tễnh bước vào, ông Song nói với cụ già bằng tiếng Kinh:

- Đây là cháu Sa, nó bị tai nạn lao động phải đi bệnh viện bó chân mà con đã nói với cụ.

Ông cụ gạt đống lá dành dành xuống đất, nhấc chiếc túi thổ cẩm đặt ra đầu chõng, nhìn Sa một thoáng rồi bảo:

- Lại đây cho ta xem cái chân.

Sa lại gần. Ông cụ nắn bàn chân, bấm vào chỗ mắt cá làm cô đau nhói.

- Thôi được rồi. Ông cụ nhìn ông Song nói bằng thứ tiếng Kinh lơ lớ. - Cái chân của nó ta có thể chữa được nhưng phải lên bản Then vì hàng ngày còn phải châm kim và dán cao. Mà này, ta xem mạch chân thấy nó đã có một thằng người con ở trong bụng.

Cô Diệu đưa mắt nhìn Sa, lắc đầu. Sa im lặng còn ông Song tỏ ý nghi ngờ đưa mắt cho hai người.

- Dạ, bác Song ạ… - Diệu ngập ngừng nói - Hôm nay cháu đưa Sa lên đây cũng là vì chuyện ấy. Hoàn cảnh của nó bây giờ không thuận lợi để có con. Hay là bác nói với cụ lang đây… Chúng cháu nghe nói người dân tộc có loại lá…

- Thế là cùng một lúc ta phải chữa cả hai bệnh à? - Ông cụ già lắc đầu - Chỉ chữa được bệnh què thôi, còn cái bệnh kia cứ để cho đứa bé ra, bỏ nó đi là Trời phạt…

Ông Song bảo:

- Bác sẽ ra ngay đơn vị xin cho cháu đi chữa chân mấy tháng. Còn chuyện đứa bé thì ta phải tính cho kĩ. Dù sao đó cũng là một con người, không nên làm chuyện thất đức. Bác hỏi thật, có phải cái cậu thỉnh thoảng vào đây với cháu không?

Sa gật đầu. Ông cụ lại hỏi:

- Bây giờ nó ở đâu? Hay là cậu ta chạy làng rồi?

- Dạ không. Anh ấy vào Quảng Bình rồi ạ.

- Vậy thì được. Có lẽ việc này phải để bác tính thêm. - Ông Song vừa nói vừa chỉ vào cụ già. - Cụ Thênh đây chính là người đã chữa cho bác khỏi bệnh phong từ hơn chục năm trước. Nhà cụ ở tận bản Then. Nếu Sa đồng ý chữa chân sẽ phải lên trên ấy.

Ngày hôm sau, ông Song lấy danh nghĩa bạn chiến đấu với bố Sa ra C22 xin cho cô nghỉ dài hạn chữa chân. Ông Thành từ lâu đã tức cánh lang băm bệnh viện chẳng biết vì làm ẩu hay tay nghề kém, mà một vết thương không đến nỗi nặng lắm của Sa, sau khi bó bột lại thành tàn tật, làm hỏng cả một đời con người ta, nay nghe ông Song kể về cụ già Thênh chữa được cả những chứng nan y thì đồng ý ngay. Ông còn hứa sẽ đề nghị với lãnh đạo công trường cho Sa hưởng 70% lương theo chế độ nghỉ ốm hiện hành. Hôm Sa mang chăn màn, quần áo đến nhà ông Song, ông bảo:

- Bác coi cháu như con gái nên khuyên con một điều: cứ yên tâm ở bản Then chữa chân và đợi ngày sinh nở. Bác sống cô đơn, không người thân thích, nếu sau này cháu gặp khó khăn, bác sẽ nuôi đứa bé…

Nghe đến đấy Sa quệt nước mắt nhìn ông Song khẽ gật đầu:

- Vâng, con xin nghe bác.

*

Vợ chồng ông già Thênh ở trong ngôi nhà sàn ngay đầu bản. Từ bản Then nhìn xuống, nhà cửa, nương rẫy của người Tày giống như những ô cờ trên bàn cờ. Một con suối vắt qua thung lũng Chuối ngoằn ngoèo bắt ánh mặt trời buổi sớm, chảy loang loáng. Xa xa dưới chân dãy Phù Đinh là rừng dẻ đang độ nở hoa. Hoa dẻ kết thành từng mảng xôm xốp như những tấm thảm khổng lồ trải lên sườn núi thứ màu trắng nhập nhoà như khói. Bản Then là bản của người Cao Lan. Ông cụ Thênh là người Cao Lan nhưng cụ bà lại là người Dáy. Mọi người kể lại rằng, từ lâu lắm, thời còn trai trẻ cụ Thênh lúc ấy đã làm thuốc. Thuốc của cụ toàn lá cây, quả cây và rễ cây. Năm hai mươi hai tuổi, anh Thênh vào rừng Khuôn Pông lấy thuốc. Đây là khu rừng cấm, ít ai dám vào vì người ta đồn có ma. Đi mãi, đi mãi, đến gần nguồn suối Măng, anh Thênh thấy thấp thoáng giữa đám cây cối um tùm một cái lều. Điều làm anh ngạc nhiên hơn cả là trong lều có người con gái chừng mười bảy mười tám, bị trói vào cột. Cô gái có lẽ bị trói đã vài ngày nên tóc tai bơ phờ, người rã rời trông như một xác chết. Khi Thênh cởi dây, chưa kịp đỡ thì cô ta ngã vật ra, ngất xỉu.

Sau này, khi đã làm cho cô tỉnh lại, Thênh mới biết rõ ngọn ngành của câu chuyện thương tâm. Cô tên là Léng ở một bản người Dáy mãi trên đỉnh núi, cách đây những hai ngày đường. Cuối năm trước, rừng động, hổ, chó sói kéo về cả ban ngày bắt lợn, gà, trâu dê. Một con hổ vằn còn đón lõng vồ mấy người đi làm nương về. Đầu năm, dân bản bị những bệnh quái ác. Trẻ con tự nhiên nóng hầm hập, da vàng như nghệ, được mấy ngày là chết. Ông thầy mo bảo: “Vùng này có một con ma mới từ bên kia núi về. Nó nhập vào người con gái đẹp nhất bản, ăn thịt hết trẻ con rồi mới đến lượt người lớn”. Dân bản hãi quá, nhờ ông thầy cúng tìm và diệt bằng được con ma dữ. Thầy cúng bắt trưởng bản làm thịt bảy con lợn sữa, mười một con gà trống choai và một con dê đực mang ra cây gạo đầu bản lập đàn cúng. Lão mở sách cúng đọc đến nửa ngày rồi lấy mảnh giấy vẽ bùa. Vẽ xong, lão tung đồng tiền gieo quẻ, xong bất ngờ tuyên bố:

- Cái ma đã nhập vào con Léng. Dân bản phải mang nó vào rừng cấm trói lại mới mới cứu được lũ trẻ con.

Léng bị bọn chức việc lôi đi mặc cho bà mẹ khóc lóc van xin. Từ trước đến nay, những cô gái bản bị yêu tinh nhập vào như Léng phải vào rừng cấm chẳng có ai trở về. Cô bị trói vào chiếc cột lớn chôn sâu giữa gian lều đã sang ngày thứ ba, vừa đói vừa khát, không gặp Thênh thì chắc chắn là chết.

Cứu được cô Léng, Thênh chưa dám mang về bản, sợ trưởng bản phạt vạ. Nghĩ mãi, cuối cùng anh dắt Léng đến một khu rừng ngay dưới chân bản Then, làm tạm cho cô chiếc lều rồi về nói với bố mẹ. Người Cao Lan không khắt khe lắm trong việc con trai con gái lấy người khác tộc, vì thế, ông bố Thênh đến nhà trưởng bản trình bày đầu đuôi câu chuyện. Ông trưởng bản bảo:

- Thằng Thênh phải làm thịt một con trâu mời bà con trong bản rồi mới được cưới vợ. Cưới xong cứ ở dưới núi, khi nào có đứa con đầu tiên mới được lên bản ta.

Được lời trưởng bản, Thênh mừng lắm. Anh xuống chân núi dựng ngôi nhà cạnh cái lều cũ. Hàng ngày hai vợ chồng đi làm nương. Thỉnh thoảng có người tìm anh đi hái thuốc chữa bệnh cho bà con. Cuối năm ấy, Léng sinh đứa con trai đầu lòng. Ông bố mừng lắm, thịt một con lợn với bốn gà trống thiến làm lễ cúng ma rồi cùng với trưởng bản xuống núi đón vợ chồng Thênh. Nhưng mà cái số ông Thênh xem ra vất vả về đường con cái. Bà Léng chỉ sinh nở có một lần. Những lần sau đều không nuôi được. Anh con trai tên là Lênh, năm mười bảy tuổi lấy vợ người bản Cốc. Hai vợ chồng mới được một đứa con gái thì chết vì bị trúng đạn mortiere của Pháp hôm hai người đi rừng hái thuốc. Thế là ông bà lại phải lọm cọm nuôi đứa cháu mồ côi. Năm ấy cái Lanh chưa đầy một tuổi. Lúc Sa lên bản Then thì nó đang đi học bên bản Thắm.

Buổi chiều, Lanh về, nhìn thấy Sa nó thích lắm. Lanh nói tiếng Kinh khá rõ. Cô bé làm phiên dịch cho Sa và bà Léng. Sa ở bản Then được ba hôm, ông già Thênh bảo:

- Nhà ta hiếm người, cho mày với con Lanh kết làm chị em. Cháu Lanh phải coi con Sa như chị ruột, không được làm nó khóc. Chân chị Sa bị què, chồng đi đánh thằng Mỹ ở miền Nam, tao thương nên mới nhận chữa cho nó.

Từ đó, cứ hai ngày một lần, già Thênh lại lấy mấy cái kim hơ lửa châm vào các huyệt ở bàn chân Sa, sau đó dán cao và bắt cô phải uống thứ thuốc chiết từ rễ cây đắng như mật cá. Lần đầu, uống được một ngụm Sa đã suýt phải oẹ ra. Cụ già nhìn Sa cười rung rung chòm râu bạc trắng như cước:

- Cái thằng người trong bụng nó bắt cháu chóng mặt đấy chứ thuốc của ta không đến nỗi đắng lắm. Phải chịu khó uống mới nhanh khỏi.

Mấy hôm sau Sa đòi đi làm nương với cái Lanh. Già Thênh xua tay bảo:

- Hàng ngày cần phải đi lại để luyện bàn chân nhưng không được ra quá bản Then. Chừng một vài tháng nếu cách chữa trị có chuyển biến ta sẽ cho lên nương.

Ban đêm cái Lanh nằm cùng đệm với Sa. Nó ôm lấy cô thì thầm:

- Chị ở nhà chăm sóc bà mế với lại thái rau nấu cám lợn giúp em lúc em đi học thế là vất vả lắm rồi.

- Nhưng ông đã già yếu, chỉ một việc lấy thuốc chữa bệnh đã quá sức, lại phải phát nương trồng bắp nữa thì chịu sao nổi. Chị muốn em coi chị như một người trong gia đình.

Lanh luồn tay đặt vào chỗ bụng đã lùm lùm của Sa cười khẽ:

- Ôi! Chị sắp có em bé rồi. Mong sao nó là con trai để sau này lớn lên đi phát nương… À, chị biết không, mấy năm nay, bà con trong bản đều cử người phát nương cho nhà ta. Họ quý ông lắm vì ông đã chữa khỏi bệnh cho nhiều người trong vùng.

CHƯƠNG 8

Ở công trường cầu đường thời ấy, quan hệ yêu đương hầu như bị cấm ngặt. Nam nữ có tình ý với nhau nếu để lộ ra ngoài sẽ bị chi đoàn kiểm điểm và có thể bị xử lý kỉ luật. Ông Thành xê trưởng tuyên bố chắc như đanh đóng cột:

- Chị nào ngứa ngáy không chịu được cho về nhà lấy chồng, nếu lăng nhăng mà ễnh bụng ra thì đuổi thẳng và thông báo về địa phương bằng văn bản.

Hàng tuần, trong cuộc họp toàn đơn vị vào chiều thứ sáu, bao giờ ông cũng dành nhiều thời gian hơn cả để nói về đề tài này. Bàn về danh tiết của người phụ nữ, ông ứng khẩu chế mấy câu Kiều làm các cô liếc nhau rồi bưng miệng cười:

Chữ trinh giá đáng ngàn vàng

Bốn anh chồng cũ với chàng là năm

Còn như yêu vụng dấu thầm

Họp chợ trên bụng hàng trăm có thừa…

Theo ông, nhiệm vụ trước mắt của thanh niên không phải là yêu đương mà là hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao cho. Lấy vợ lấy chồng chưa bao giờ muộn cả, còn khối lượng đất đá ngoài đường, nếu không cố gắng phấn đấu sẽ bị tụt năng suất, ảnh hưởng đến phong trào thi đua.

Sau vụ cô Diệp chửa hoang với một anh chàng ở đội cầu, ông Thành luôn nhìn cánh thanh niên bằng đôi mắt cảnh giác. Ông ra lệnh cho chi đoàn lập đội thanh niên cờ đỏ, ban đêm phải cử người kiểm tra các dãy nhà nữ, quá mười giờ anh nào còn léng phéng ở đấy là bắt trói lại. Đội trưởng cờ đỏ là cô Chư, người Sơn Tây. Cô này lùn tịt, mắt một mí, bé loắt choắt, có tính hay thóc mách. Chỉ thoáng thấy một đôi nam nữ nào đứng nói chuyện với nhau là cô ta khẳng định có quan hệ tình ái, lập tức báo cáo với bí thư Đoàn và Xê trưởng.

Hôm ấy là thứ bảy. Có hai thanh niên ăn mặc như kiểu dân bụi lảng vảng ở đầu cầu. Họ la cà đến dãy nhà nam mời hút thuốc làm quen. Thì ra hai người là công nhân kích kéo mới chuyển từ Nguyên Bình về đây. Buổi tối họ rủ mấy thanh niên sang thăm các cô bên dãy nhà nữ. Hai chàng thợ cầu nói chuyện rất có duyên làm chị em mê tít. Câu chuyện đang hào hứng thì ngoài lán, cô Chư cùng mấy người trong đội Cờ đỏ đẩy cửa bước vào giọng khá gay gắt:

- Đề nghị các đồng chí thanh niên cho xem giấy tờ.

Hai thợ cầu đưa mắt nhìn nhau. Một anh nói giọng bông đùa:

- Giấy tờ thì có thôi nhưng bây giờ chưa đến giờ giới nghiêm đồng chí Cờ đỏ ạ.

- Các anh là người lạ, tự tiện vào nhà phụ nữ lúc này là không được. Yêu cầu cho xem giấy tờ!

- Chị thông cảm, chúng tôi là công nhân đội Cầu thật mà.

- Tôi nhắc lại, các anh phải xuất trình giấy tờ, nếu không cờ đỏ bắt buộc phải giữ lại đến mai đơn vị giải quyết. Trông kiểu ăn mặc thế này rõ ra là dân cà lơ thất thểu.

- Chị không được xúc phạm đến danh dự chúng tôi.

- A! Lý sự gớm nhỉ. - Cô Chư đưa mắt cho Đảo lúc bấy giờ cũng đã kịp thời có mặt để hỗ trợ cho đội Cờ đỏ. - Vậy rủ nhau lang thang tán gái thì có danh dự không?

- Ai bảo chúng tôi tán gái?

- Này, hai anh kia. - Đảo trừng mắt quát bằng cái giọng bèn bẹt dính kẹo mạch nha. - Yêu cầu lên văn phòng Đoàn để chúng tôi kiểm tra.

- Nếu chúng tôi không lên thì sao? - Một trong hai thợ cầu bảo. - Bây giờ mới có tám giờ mười lăm, chưa đến “giờ cấm” ông hiểu chưa?

- Các đồng chí Cờ đỏ đâu! - Đảo hô to. - Bắt hai tên này lại!

Ba thanh niên mang băng đỏ cầm cuộn thừng từ phía bên kia lội suối lao sang. Hai thợ cầu đứng dậy, bước ra cửa chìa tay bảo:

- Nào, có giỏi thì trói đi.

- Lại thách nhau nữa cơ đấy. - Đảo cười gằn, quay lại phía sau hạ lệnh. - Các cậu trói lại đưa về Ban chỉ huy, tội vạ đâu tôi chịu.

Anh cờ đỏ vừa quàng dây vào tay một trong hai thợ cầu thì anh ta dùng cánh khuỷu hất mạnh một cái làm cho cả người và thừng bay vèo xuống suối. Thấy vậy, Đảo vội chộp cổ tay anh thứ hai. Anh này chẳng thèm nhúc nhích. Đợi đến lúc sợi dây thừng luồn qua cổ kéo xuống cánh tay anh ta mới bóp nhẹ vào bả vai Đảo. Bị điểm huyệt bất ngờ, Đảo choáng váng, ngồi thụp xuống, ôm vai nhăn nhó. Cô Chư thấy tình thế nguy cấp, tức điên người gào to:

- Các đồng chí công nhân C22 đâu ra cả đây nện cho hai thằng lưu manh này một trận.

- Không nên gào to như thế, sẽ rách cổ họng đấy. - Người thợ cầu đã hất anh cờ đỏ xuống suối lại gần đội trưởng nhẹ nhàng bảo: - Cô là phụ nữ tôi không nỡ ra tay nhưng phải biết điều đôi chút. Nào, giờ thì đưa chúng tôi đến gặp Xê trưởng.

Chừng mười lăm phút sau, hai thợ kích kéo ở phòng ông Thành bước ra. Những công nhân hiếu kì đang chen nhau đứng chờ trên cầu Nậm Pạng. Nhìn thấy họ, một trong hai người vẫy tay cười:

- Xin lỗi các bạn nhé!

Khi họ đi rồi, cô Chư với Đảo lên Ban chỉ huy chất vấn ông Thành. Ông nghiêm giọng bảo:

- Hai người ấy là cán bộ phòng Cảnh sát điều tra của Ty Công an. Họ ăn mặc như thế để đi điều tra một vụ trọng án nào đó mà chính tôi cũng không được biết. Nhân đây cũng nhắc các đồng chí, từ nay không được tuỳ tiện bắt trói người. Bài học hôm nay anh Đảo và cô Chư nên rút kinh nghiệm.

Nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Một lần Đảo bóc trộm thư của Sa. Rất may đó chỉ là bức thư ngắn thông báo về việc Phan chuyển vào sâu hơn. Phan hẹn khi nào đến nơi mới ổn định sẽ gửi thư cho cô. Từ lâu Diệu đã nghi Đảo nhưng chưa có dịp bắt tận tay day tận trán. Hôm ấy, cô Quyên A3 có việc ra Công trường bộ. Khi về, Quyên đi cùng với anh Thắng bưu tá. Lúc anh Thắng mang công văn và tập thư báo đến, ông Thành vẫn ở hiện trường, trong phòng chỉ thấy cán bộ kĩ thuật Đảo đang cắm cúi ghi chép gì đó. Khoảng mười phút sau, Diệu, Hải Anh và Quyên nháy nhau lượn qua cửa Ban chỉ huy. Nhìn thấy các cô, Đảo vui vẻ gọi:

- Hình như Hải Anh có thư.

Ba người không bỏ lỡ thời cơ, vào ngay văn phòng kiểm tra. Thư của Hải Anh thì có thật nhưng lá thư của Sa đã biến mất. Cô Diệu chẳng nể nang gì hỏi ngay:

- Thế còn bức thư của cái Sa đâu, anh Đảo?

Mặt Đảo chợt biến sắc nhưng anh ta trấn tĩnh được ngay:

- Cô Sa hôm nay không có thư.

- Này, - Diệu trừng mắt. - Chiều nay Công trường gửi xuống tất cả hai mươi bảy lá thư. Anh Thắng đã ghi trong sổ giao nhận.

- Cô là cái thá gì mà dám chất vấn tôi hả? - Đảo gắt. - Nếu ai không nhận được thư cũng đi kiện tôi thì còn ra thể thống gì nữa. Tôi nhắc lại là, từ lúc cậu Thắng đến đây, tôi chưa hề nhìn thấy bức thư nào của cô Sa.

- Có đấy anh Đảo. - Cô Quyên cười nhạt nhìn như xoáy vào tim đen ông cán bộ kĩ thuật. - Bức thư ấy, phong bì gấp bằng giấy học trò từ chiến trường gửi ra, đóng sáu con dấu và ở góc trái có một vệt mực tím giống như bông hoa cà.

Hải Anh vốn thẳng tính, không chịu được những lời nói dối trắng trợn của Đảo liền lại gần anh ta cất giọng đe doạ:

- Tốt nhất anh nên đưa bức thư ra vì từ lúc anh Thắng đi đến giờ chưa có ai đến đây, anh mà chối quanh nhất định chúng tôi phải khám.

- Các cô… đừng có hỗn láo…

- Chúng tôi sẽ khám cả tập tài liệu này lẫn người anh. - Hải Anh dẩu môi trông rất đanh đá. - Anh có biết tội bóc trộm thư của người khác bị xử như thế nào không?

- Tôi cấm các cô xúc phạm danh dự… - Đảo quẳng bút, đứng dậy định bước ra ngoài. - Tôi sẽ báo cáo với ông Thành về tội đe doạ cán bộ đang thi hành nhiệm vụ.

- Tốt thôi. - Cô Diệu nhanh chân chạy ra đứng chắn cửa. - Nhưng trước khi pháp luật xử chúng tôi, ông hãy đưa trả bức thư đã.

- Cô Diệu, tôi đề nghị không được vu khống.

- Nào, nhanh tay lên chúng mày.

Diệu vừa nói thì Hải Anh và Quyên đã xúm lại giữ cứng hai tay ông cán bộ kĩ thuật. Chẳng khó khăn gì cô cũng lấy được bức thư của Sa mà Đảo giấu trong túi ngực sau lần áo len cổ lọ. Thư đã bị bóc xem. Chắc là không đủ thời gian nên Đảo chưa kịp huỷ.

Việc bóc trộm thư của Sa được cô Diệu, uỷ viên chấp hành, phân đoàn trưởng phân đoàn 4 đưa ra trong cuộc họp chi đoàn thường kì ngay chiều hôm ấy. Trước nhân chứng và vật chứng rõ ràng, anh ta không thể chối cãi. Hầu hết nữ đoàn viên đều cho rằng Đảo không còn đủ tư cách đứng trong hàng ngũ Đoàn thanh niên, đề nghị Ban chấp hành khai trừ. Sự việc xảy ra nhanh quá làm ngay cả ông Thành cũng bị bất ngờ. Ngày hôm sau, ông mời Ban chấp hành đến trao đổi và đề nghị hạ mức kỉ luật xuống cảnh cáo. Lê Thông xem ra có vẻ xuôi nhưng cô Quyên kiên quyết bảo vệ quan điểm đến cùng:

- Nếu bác Thành nói thế thì Ban chấp hành chưa nên khai trừ đồng chí Đảo ngay mà trước hết nên đưa sự việc ra Toà án huyện để người ta xử lí đã.

Thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng, biết rằng không thể nào gỡ được cho Đảo trước hành vi sai phạm hiển nhiên ông Thành đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt:

- Thôi được, tuỳ các đồng chí. Nhưng việc này ta nên làm gọn trong nội bộ, đừng đưa ra pháp luật làm gì.

Sáng chủ nhật, Diệu vào nhà ông Trần Quang Song đưa thư và tiền trợ cấp hàng tháng cho Sa. Lúc ấy Sa đang ở bản Then. Cô định lên ngay bản Then, ông Song bảo:

- Leo lên trên ấy mất già nửa ngày, tối cháu về không kịp đâu. Từ nay gửi cho Sa cái gì cháu cứ để đây, thỉnh thoảng bác mang lên giúp.

- Cái chân của Sa thế nào hả bác?

- Bác cũng chưa biết liệu có khỏi được không. Ông cụ Thênh là thầy lang giỏi nhất vùng này nhưng trường hợp như của Sa bác chưa thấy bao giờ. - Ông Song có vẻ lo lắng. - Ta lo cho đứa bé trong bụng nó. Dù sao đó cũng là một con người. Các cháu chưa từng trải nên cạn nghĩ…

 - Bác nói phải. Chuyện định nhờ người cắt thuốc phá thai là do cháu bảo nó. Nhưng bác ơi, ngay từ đầu nó đã quyết giữ để nuôi con. Hoàn cảnh của Sa lúc này thật khổ. Cháu thương nó quá.

 - Có chuyện này bác chưa rõ. Cách đây mấy hôm có một người đàn ông khoảng hăm bảy hăm tám nói là cán bộ công trường vào đây hỏi bác về Sa. Anh ta bảo lãnh đạo rất quan tâm nên mới cho đi chữa chân, cuối cùng lại hỏi khi nào thì đẻ. Bác sinh nghi vì thấy thái độ của anh ta không đàng hoàng mới bảo: “Tháng trước cô ấy điều trị ở đây nhưng không khỏi, giờ thì lên bản Mán chữa thuốc nam rồi. Các anh là cán bộ công trường để chân một đứa con gái bị thọt như thế mà lại nói là quan tâm à? Đứa nào bảo với anh cái Sa có chửa, anh chỉ cho tôi để tôi ra C22 báo cho ông Thành biết”. Có lẽ thấy cách cư xử của bác không được tử tế cho lắm nên ông khách không mời ấy bẽ mặt, hậm hực quay về.

 - Anh ta là Đảo, cán bộ kĩ thuật, chuyên rình mò chuyện của người khác. - Diệu thủng thẳng nói. - Vừa rồi anh ta bóc trộm thư của Sa bị chúng cháu bắt quả tang phải khai trừ khỏi Đoàn. Trước đây tay này có đặt vấn đề với Sa, nó không đồng ý nên bây giờ hắn thù.

 - Ra vậy… Làm thằng đàn ông ở trên đời sao mà hèn thế.

Thấm thoắt Sa lên bản Then đã năm tháng. Bàn chân của cô sắp khỏi hẳn nhưng cái bụng thì ngày càng to ra. Cụ già Thênh mừng lắm, cứ mỗi lần hút xong một điếu thuốc lại gật gật đầu, miệng cười móm mém:

- Tốt, tốt lắm. Đứa bé sẽ là cháu ta. Sau này ta sẽ dạy cho nó nghề thuốc gia truyền…

Cuối cùng thì Diệu cũng lên được bản Then cùng với ông Song. Nhìn thấy Sa đi đứng đã bình thường, Diệu ôm lấy bạn khóc nấc lên vì sung sướng:

- Tao mừng quá. Giá mà lúc này Phan ở đây thì hay biết mấy.

- Có thư của anh ấy không? Đưa tao đọc đã, sốt ruột lắm…

- Hai tháng nay mày không có thư. - Diệu lắc đầu. - Chẳng hiểu dạo này “hắn” bận gì mà lười thế không biết.

- Có thể là Phan vào sâu mãi B2 nên đường thư bị chậm. - Sa tự an ủi mình. - Lần trước cái thư mà tay Đảo bóc trộm ấy chẳng nói là gì.

- Nhưng mà lâu quá, mấy tháng rồi, tao cứ thấy lo lo…

- Này, phải động viên tao chứ. - Sa kéo bạn ngồi xuống cây gỗ trám dưới gầm sàn bảo - Mày lại bi quan hơn người trong cuộc.

- Cái con này!

Khoảng nửa tháng sau ngày Diệu lên thăm Sa ở bản Then thì C22 chuyển đến chân đèo Mã Phục. Từ đèo Mã Phục về khu vực đập thuỷ điện Suối Củn Hoà An khá xa, phải một hai tháng Diệu mới đến nhà ông Song đưa tiền trợ cấp cho Sa được.

Mã Phục là một thắng cảnh của Cao Bằng với hai tầng đường mà đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống có thể bao quát được cả một vùng núi non sông suối đẹp như tranh vẽ. Thích nhất là ngày phiên chợ. Chợ Trà Lĩnh họp tháng vài phiên vào chỗ nhất định nhưng con trai con gái Tày thích họp chợ dọc đường. Họ đi chợ chủ yếu không phải mua bán mà là để hát lượn. Dọc đường, cứ cách một đoạn lại có những nhóm thanh niên nam nữ đối đáp với nhau bằng những làn điệu Then ngọt ngào, gợi cảm. Có những cô gái trẻ măng, mặt tươi như hoa, lần đầu đi chợ xa, còn đem theo cả cây đàn tính vừa gảy vừa hát.

Từ xa xưa, dân các bản xung quanh đèo Mã Phục đã lưu truyền một câu chuyện cổ giống như huyền thoại. Thời ấy, Khuổi Teo có con gái trưởng bản Nông Văn Ích, tuổi vừa đôi tám đẹp như trăng mười bốn. Theo lệ, con trai con gái trưởng bản là phải kết đôi với con quan Lang trong vùng mới môn đăng hộ đối. Nhưng trò đời trai gái yêu nhau nhiều khi trái với sự sắp xếp của bố mẹ. Bản Khuổi Teo chẳng thiếu gì nhà giàu có cả một đàn ngựa, vậy mà nàng Én lại yêu chàng trai nghèo chuyên nghề kiếm củi là Bế Hài Phạ. Tuy nhà nghèo nhưng Hài Phạ có cái tài làm dân bản khâm phục là thổi sáo.

Ngày đầu năm cũng là ngày hội của cả vùng, chàng Phạ đến nhà trưởng bản xin được làm rể. Thấy chàng mất cả cha mẹ, lại chẳng có người mai mối, trưởng bản ghét lắm, bảo:

- Thế con Én có ưng mày không?

- Dạ thưa… có.

Trưởng bản hắng giọng bảo:

- Hôm nay không tính, ngày mai là một, đến ngày thứ ba mày ra bãi cỏ dưới chân đèo thi bắn nỏ và đánh kiếm với các trai bản, đứa nào giành giải nhất, tao gả con Én cho. Mày có dám không?

Hài Phạ xem ra không vui nhưng cũng gật đầu:

- Thế cũng được.

Nghe tin, nàng Én vội ra bìa rừng tìm Phạ. Nàng trách người yêu:

- Từ xưa đến nay anh chỉ biết thổi sáo chứ có biết đánh võ đâu. Anh mà nhận lời là mất em đấy. Em bàn thế này. Hay là ta trốn đi đến một nơi thật xa, phát rẫy làm nương, dựng nhà ở tạm, khi nào bố mẹ nguôi giận, chúng ta sẽ về xin tha tội.

- Không được. - Chàng Phạ lắc đầu bảo. - Người quân tử không nói hai lời. Hơn nữa đây là một cuộc tỷ thí để giành được tình yêu của người con gái nên các trai bản đều bình đẳng.

- Nhưng anh có biết múa kiếm, bắn nỏ đâu?

- Em nhầm. Từ trước đến nay em chỉ biết anh thổi sáo giỏi bởi em có bao giờ vào trong rừng xem anh chặt củi, làm bẫy đánh nhau với thú dữ đâu.

- Thật không? - Nàng Én nhoẻn miệng cười nhưng vẫn còn bán tín bán nghi.

- Em có biết, lúc mười sáu tuổi khi mẹ đã mất, anh đi khỏi bản ba năm mới về không?

- Em biết, nhưng lúc về anh bảo là đi học thổi sáo với người Phù Lá cơ mà.

- Không đâu. Thổi sáo chỉ là cái cớ thôi. - Phạ hạ thấp giọng thì thầm - Hồi ấy, đi chặt củi trong rừng bản Kheo anh gặp một ông già người Quảng Đông bên Tàu. Nhìn thấy tướng mạo anh, ông ấy cho theo làm học trò. Ông ấy vừa bán thuốc cao ở Nguyên Bình vừa mãi võ làm kế sinh nhai. Mấy năm theo thầy lang thang khắp nơi anh được ông ấy truyền cho một số bí quyết của phép múa đao và bắn nỏ. Ngoài ra ông còn dạy thổi sáo nữa. Hết ba năm, anh thấy nhớ bản vô cùng mới xin thầy về thăm. Ông thầy bảo:

- Tay đao và tay nỏ của con đã khá, có thể tự mình sống được không cần phải đi theo thầy nữa. Trước khi về thầy chỉ dặn một điều, võ nghệ cần phải thường xuyên luyện tập nhưng không được khoe khoang với thiên hạ. Nhìn nhân trung con thầy ngại rằng, nếu không giữ sẽ yểu mệnh. Con nên luôn thổi sáo để giữ lòng thanh thản.

Vậy là anh về. Ban ngày lấy củi bán. Ban đêm luyện võ và thổi sáo. Cho đến ngày hội năm ngoái, có lẽ do Trời run rủi nên mới gặp em…

Nàng Én trong bụng vui lắm, ngày đêm khấn Trời cho Hài Phạ thắng tất cả các đối thủ trong vùng. Bản Khuổi Teo có nhà Lang Tịch giàu nhất tổng Nam Lĩnh. Ông Lang Tịch có cậu con trai út là Lang Khún mê nàng Én từ lúc nàng mới mười ba tuổi. Lang Khún giỏi cưỡi ngựa, múa kiếm, bắn nỏ. Hội thi tài mấy năm qua, năm nào chàng cũng đoạt giải nhất. Năm ấy nàng Én vừa tròn mười sáu, đủ tuổi để các chàng trai thắng cuộc hỏi làm vợ. Ngày ba mươi tháng chạp, Lang Khún đã mang mấy hộp bánh khảo bọc giấy đỏ và hai phong pháo sang nhà Én mừng tết. Ông Ích ưng lắm, trong bụng đã muốn nhận lời nhưng thấy Lang Tịch chưa đến nên còn phân vân. Trong bụng ông thầm nghĩ, được thằng Khún làm rể thì con Én sướng bằng các tiểu thư con quan châu Nguyên Bình.

Ngày mười lăm tháng giêng hội thi tài bắt đầu. Ba mươi tám chàng trai chia thành từng cặp đấu với nhau, sau đó cứ người thắng của cặp này lại đọ sức với người thắng của cặp kia. Hết ngày thứ nhất, các vị bô lão trong Hội đồng trọng tài chọn ra được bốn cặp cho ngày hôm sau. Trưa ngày thứ hai số lượng đấu thủ chỉ còn bốn và đến buổi chiều trước khi kết thúc chỉ còn hai, đó là Lang Khún và Hài Phạ. Lang Khún thì cả tổng Nam Lĩnh không ai không biết, nhưng Hài Phạ thì làm cho dân Khuổi Teo quá sững sờ. Một anh chàng chuyên bán củi kiếm gạo, sống lang thang như con cầy trong rừng, thế mà bỗng nhiên thượng đài, đánh bại hết đối thủ này đến đối thủ khác.

Cuộc đọ sức giữa hai đấu sĩ diễn ra không lâu. Lang Khún phi ngựa từ xa, đến đúng cự li, ghìm cương, giương nỏ gần như không ngắm, bắn ngay, mười phát trúng tám. Tuy nhiên Hài Phạ lại có cách bắn lạ đời. Chàng phi ngựa ngược chiều với đích, quá cự li chừng năm chục sải, đột ngột quay lại bật lẫy nỏ mà mười phát đều trúng cả mười. Đến đoạn đấu kiếm, Hài Phạ ba lần thay đổi thế đứng, sử dụng độc chiêu, làm cả ba lần kiếm của Lang Khún đều tuột khỏi tay văng xuống đất. Chàng đã thắng áp đảo và ung dung lên lễ đài nhận phần thưởng. Ngay lập tức, chàng phi ngựa mang phần thưởng đến nhà trưởng bản Nông Văn Ích, quỳ xuống nói:

- Thưa bố, hôm nay con đem lễ vật đến xin làm rể gia đình ta…

Ông Ích trong bụng không thích tí nào vì Hài Phạ nghèo rớt mồng tơi chỉ có mỗi con ngựa với cây dao quắm phát rừng, nhưng đã trót hứa không thể nuốt lời. Ông bảo:

- Được rồi, nhưng phải chờ ta xem ngày tốt đã rồi mới tính chuyện cưới xin được.

Hai hôm sau vào lúc nhập nhoạng tối, Hài Phạ phi ngựa vào rừng lấy cây sáo của mình. Xuống đến chân đèo, chàng thả cho ngựa ăn cỏ rồi ngồi xuống tảng đá, lấy sáo ra thổi. Tiếng sáo réo rắt khắp núi làm nàng Én bồn chồn không yên. Nàng đang cất rượu, chuẩn bị cho ngày cưới nhưng nén lòng không được, liền xuống chân cầu thang nhảy lên con ngựa trắng phóng ra chân đèo. Tiếng sáo véo von chợt như nấc lên rồi tắt lịm… Khi nàng Én đến nơi thì trước mắt hiện ra một cảnh tượng kinh hoàng. Hài Phạ nằm úp mặt xuống tảng đá, giữa gáy cắm một mũi tên có đuôi làm bằng lông chim nhạn. Nàng sững người, chỉ chút nữa thì ngất. Phải đến già một khắc nàng Én mới đủ can đảm để rút mũi tên ở gáy người yêu. Đó là mũi tên tẩm thuốc độc dài ba tấc. Bấy giờ nàng mới hô hoán lên nhưng chung quanh chẳng có ai. Ngẫm nghĩ một lúc nàng quyết định nhảy lên con ngựa trắng phi như bay về bản.

Đêm hôm ấy, bản Khuổi Teo làm lễ chôn cất Hài Phạ ngay cái nơi chàng đã ngã xuống. Con ngựa của chàng lúc ấy bỏ vào rừng nhưng mấy hôm sau nó đến bên mộ Hài Phạ. Khoảng một tuần, con ngựa không ăn không uống rồi chết. Khi chết nó vẫn trong tư thế quỳ trước mộ chủ như một kẻ đầy tớ trung thành.

Mấy hôm sau, Lang Tịch mang lễ vật đến nhà trưởng bản xin cho con là Lang Khún làm rể. Ông Ích đưa cho Lang Tịch chén rượu chát rồi bảo:

- Ông hỏi con Én nếu nó bằng lòng thì tôi gả.

Nhưng ngày hôm sau cả bản không thấy nàng Én đâu. Sau này, có người bảo, nàng cưỡi ngựa vào rừng rồi chết trong chiếc lều của Hài Phạ. Có người lại bảo, nàng cầm cây sáo của Hài Phạ để lại, rẽ cây vạch lối đến hồ Thang Hen. Nước hồ Thang Hen trong vắt có thể nhìn thấy cả những viên sỏi trắng lóng lánh dưới đáy. Nàng ngồi bên bờ hồ lấy sáo ra thổi làn điệu Sli hay nhất. Nàng cứ ngồi như thế thổi mãi, thổi mãi cho đến một ngày kia hoá đá… Đến bây giờ, du khách thăm hồ Thang Hen nhìn về phía bắc sẽ thấy khối thạch nhũ nhô lên ngay cạnh bờ nước giống pho tượng người đàn bà thổi sáo, đó chính là nàng Én đấy.

 Câu chuyện tình bi thảm Diệu và Quyên nghe được do một ông già mù người Tày kể. Ông mù nhưng giã gạo rất giỏi. Thóc ông giã là loại nếp thơm, hạt đều tăm tắp. Mỗi mẻ ông đổ vào cối chừng vài ba đấu. Sau đó, hai tay hai chày, cái nọ lên, cái kia xuống, ông giã nhịp nhàng, nhẫn nại cho đến lúc những hạt gạo trắng ngần, thơm phức hiện ra mà gần như không hạt nào bắn ra ngoài. Hôm ấy, ông già vừa kể vừa giã gạo, thỉnh thoảng mới ngừng chày hút thuốc lào.

 - Bác ơi! Có phải thằng Lang Khún rình bắn lén chàng Phạ ở đèo Mã Phục không? - Cô Quyên quá xúc động, lấy khăn chấm nước mắt rồi hỏi ông già.

 - Cái đó ta không biết, nhưng theo các cụ kể lại, ngay tối hôm lão Lang Tịch sang nhà trưởng bản Nông Văn Ích hỏi nàng Én cho con trai thì thằng Khún bị mọc một cái bướu to sau gáy, ba ngày sau cái bướu vỡ ra, hắn chết. Nó chết vào đúng hôm nàng Én bỏ nhà ra đi.

 - Đúng là Trời có mắt. - Cô Diệu nhận xét.

 - Chưa hết đâu. - Ông già hạ chày nhón thử mấy hạt gạo để lên lòng bàn tay rồi kể tiếp. - Thằng Khún chết được mấy hôm bỗng nhiên đàn ngựa hàng chục con của nhà Lang Tịch bị chứng bệnh lạ. Chúng phá gióng chuồng chạy ra khỏi bản, vừa chạy vừa hí như phát điên. Lão Lang tiếc của đuổi theo nhưng chúng dông tuốt vào rừng cấm. Lão leo núi theo đàn ngựa đến ngày thứ năm thì kiệt sức ngã xuống một vạt đồi và không bao giờ trở về nữa. Những đêm trăng, lữ khách qua đèo đều có cảm giác rờn rợn bởi cảnh cô tịch của một vùng lau lách đìu hiu. Ánh trăng nhạt thếch giải lên những bụi sim mua cằn cỗi. Những tảng mây hình thù kì dị bị gió đánh tướp ra như bông xơ bạc phếch mệt mỏi trôi trên vòm trời tai tái. Chỉ những bông cúc dại mọc lưa thưa bên vách núi là vàng rực như đang tự đốt mình cháy lên. Hằng năm, cứ vào dịp hội đầu xuân, đêm đêm dân các bản quanh vùng thỉnh thoảng nghe thấy tiếng sáo văng vẳng từ lưng đèo vọng về…

Một lần đến thăm Sa, Diệu kể lại cho bạn nghe câu chuyện tình của Hài Phạ và nàng Én. Nghe xong Sa bảo:

- Chuyện cảm động lắm, nên ghi lại sau này biết đâu chẳng có dịp dùng đến. Mình biết cậu có khả năng viết.

Diệu lắc đầu:

- Cái ấy thì phải dành cho ông Đảo. Thỉnh thoảng ông ta có bài in trên báo Giao thông vận tải.

- Văn của tay Đảo là thứ văn báo tường chuyên viết về người tốt việc tốt chỉ hợp với gu của các vị lãnh đạo. Muốn viết được những câu chuyện như cậu vừa kể, người cầm bút phải thực có tâm hồn và một chút tài năng.

- Không, mình không viết mà chỉ ghi nhật kí.

- Nhật kí nếu ghi bằng cảm xúc chân thành của mình cũng là một hình thức của văn chương. - Sa động viên bạn. - Không hiểu sao câu chuyện cậu kể cứ ám ảnh mình mãi…

Dịp này chân Sa đã khỏi. Hằng ngày Sa đi đứng gần như bình thường. Người ngoài nhìn vào không ai biết chỉ mấy tháng trước đây cô đã từng bị thọt. Hôm làm lễ cúng ma tạ ơn các đấng linh thiêng đã trả lại cho Sa bàn chân lành, già Thênh thịt hai con gà trống. Lúc đốt bùa gọi vía, ông cụ bảo cái Lanh:

- Mày đỡ cho chị nó quỳ xuống một tí để cái ma lành nhận mặt.

Cúng xong cụ bảo cả hai chị em:

- Tao đã khấn cho cả cái bụng con Sa. Sắp tới khi nào nó đẻ, con Lanh phải nhận làm mẹ đỡ đầu.

- Thế thì cháu thích lắm. - Lanh cười híp mắt nhìn ông nội.

- Tao nói thế để sau này con Sa xuống núi, con Lanh phải làm mẹ thay nó mấy mùa trăng.

Nửa tháng sau ngày cúng ma khỏi chân thì Sa chuyển dạ. Bà cụ Léng và Lanh đỡ đẻ. Sa sinh con gái. Đứa bé vừa lọt lòng mẹ đã khóc như xé vải. Ngồi trên sàn nhà, cụ Thênh vừa hút thuốc vừa cười:

- Con bé khoẻ lắm, sau này leo núi, làm nương giỏi chẳng kém gì người Cao Lan ta.