Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 315): Nghiêm Xuân Hồng hiện đại hóa huyền sử

Nguyễn Vy Khanh

Ông sinh năm 1920 tại Hà Đông; luật sư, nhà tư tưởng, và chính trị ở miền Nam trước năm 1975. Thời hải ngoại, là cư sĩ Tịnh-Liên, ông đặc-biệt sáng tác bộ trường thiên tiểu-thuyết Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc gồm 4 cuốn (San Jose, CA: Ức Trai, 1988-1992; Xuân Thu tb), và các sách kinh, luận nhà Phật: Lăng Kính Đại Thừa (1982; Văn Khoa, 1989); Lăng Nghiêm Ảnh Hiện: tiểu luận về kinh Thủ Lăng Nghiêm Vương (1983; 1991); Ma Chướng Trên Đường Tu (2 tập, Xuân Thu, 1998); Tánh Không và Kinh Kim Cang (1983); Nguồn Thiền Như Huyễn (1984); Mật Tông và Kinh Đại Thừa (1986); và Ma Tâm và Ma Sự của Người Tu (2001).

Trước năm 1975, Nghiêm Xuân Hồng chủ động trong nhóm Quan Điểm (1955-), cũng là một trong những người đầu tiên giới thiệu thuyết Hiện sinh ở Việt-Nam và đã sớm cảnh cáo tính chất sa đọa người trí thức về chủ nghĩa Hiện sinh trong bài "Đứng trên lập trường trí thức tiểu tư sản, phê phán chủ nghĩa hiện sinh của J-P. Sartre" (1). Tác giả vở kịch nói Người Viễn Khách Thứ Mười (Quan Điểm, 1963; phụ chú sau tựa đề là "ba hồi hoang ngôn"), có thể làm nhức xương nhức óc khán giả / độc giả kịch, vì đồng thời mở ra những vấn nạn trầm trọng cho họ có thể vượt khả năng của họ vì thường là vấn-đề của cả dân-tộc và có khi chung chung cho con người! Bi kịch là cám dỗ kịch-nghệ muôn đời, từ bi kịch lãng mạn đến bi-kịch phi lý, triết lý. Với Nghiêm Xuân Hồng và Vũ Khắc Khoan diễn tấn bi kịch lịch sử để ngẫm chuyện thời sự, chuyện bi kịch trí thức. Nhưng tất cả là đường đưa đến huyền-kịch, khoác tấm áo hiện đại cho những nhân-vật cổ sử, nhân-vật xưa nói chuyện nay, chuyện những giao động hay vấn-đề  của hôm nay: hiện đại hóa huyền sử và cả những ám-ảnh siêu hình.

Sau biến cố tháng Tư 1975, ông định cư ở Hoa-Kỳ, cộng tác với các tạp chí thời đầu của văn học hải ngoại như Lửa Việt (9-1975 -), Đuốc Tuệ (6-1976 -), Chân Nguyên, Văn, Văn Hiến, Nhân Chứng,… Ông mất ngày 7-5-2000 tại Orange County, California, Hoa Kỳ.

Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc được viết trong nhiều năm, là một tiểu thuyết thần thoại được viết dựa theo các kinh sách của nhà Phật một cách huyền hoặc. Trong “Mấy Lời Giáo Đầu” của tập 1, ông cho biết: “Cảnh giới trong kinh mênh mông bát ngát. Ý thú của lời kinh cũng mênh mông bát ngát. Mênh mông dường như hư không, nhưng vô hình tướng hơn hư không, tương tự như dấu chim bay, khó tìm thấy dấu vết… Và tuy vô hình tướng, vẫn hiển hiện đầy đủ các sắc tướng, các cảnh giới, các chúng sinh vô lượng, vô biên như những hạt cát của vô lượng sông Hằng.

Lời kinh như hư như thực, như mộng như tỉnh, nhưng tuy như hư như thực vẫn không có mảy may hư vọng. Suy ngẫm kỹ thì thấy chân lý của kinh vẫn là chân lý của muôn thuở, và con người hoặc loài chúng sinh khác không sao thoát khỏi thiên la địa võngấy, trừ phi tuân theo lời kinh. Do đó, kinh mới được lưu truyền lâu dài ở các cõi thế gian.

Sau đây là ghi lại câu chuyện mộc mạc của mấy Đại Quái, đam mê và lạc lõng vào thế giới của kinh, thế giới của tâm thức. Nếu trong những trang sau, có câu nào sai lạc với ý kinh thì kẻ viết xin sám hối về tội vọng ngữ…” (tr. 11).

Truyện với nhân vật Thạch Sanh vốn là đệ tử của đức Quán Thế Âm có tên là Mạn Thủ Đắc Thất Đồng Tử, ngày kia say rượu lỡ tay đánh mất bộ kinh Pháp Bảo Du Hý Thần Thông Biến Hoá kinh, nên mới bị đày xuống thế gian làm anh tiều phu xấu xí. Rồi do có công xuống âm cung tạ lỗi cho công chúa Mỵ Ê nên được cho trở về dương gian nhưng phải xuống tóc đi sang Tây Trúc thỉnh kinh Du Hý Thần Thông. Gặp và thoát nạn nữ La Sát, Thạch Sanh và hai đồng hành gặp được Phi Ly – vốn tu không thành vì nữ nhân mà phải đầu thai làm chồn có cánh căm thù loài quạ. Sau bao gian nan thử thách, cả bốn cuối cùng cũng đến được Tây Trúc và gặp nhân vật Sãi Vệ Đà Giáo bị bệnh trầm kha gọi là Bát Nhã Hồ Đồ. Đến thành Tỳ Xá Ly, họ gặp một ni cô đẹp người nắm tay đứa nhỏ đầu để trái đào tên Lão Hồ Tử - cậu thật ra là một nhân vật cao thâm khôn lường đã vào nằm trước trong lồng trúc của Trảm Tứ Cú và ở đó, với một màn Biến Hoá tuyệt vời, đã dạy cho cả bọn về cái bí ẩn của pháp giới này cũng như về Chân lý tối thượng Duy Tâm Sở Hiện. Cũng tại thành này, Thạch Sanh gặp lại Bát La Hoa tưởng đã chết, nhân vật này nay nhờ tài thỉnh chuông được nhập nhóm đi về Tây Trúc. Long Cuồng Huệ đặc thiền, vào được Thiền Thức Xứ.

Họ tiếp tục cuộc hành trình và luôn phải đối đầu với nhiều Ma vương. Có lúc họ đến được thành Ba La Nại bên sông Hằng. Nhìn cảnh dân chúng sinh hoạt và tu sĩ luyện đủ cách cũng như thây ma đang lửa đốt,… Thạch Sanh nghĩ đây là nơi “Đức Phù Đồ Mâu Ni đặt dấu chân đầu tiên để thuyết nền giáo lý Trung đạo”. Thạch Sanh, tìm Đạo, tìm kiếm Chân kinh cuối cùng mới ngộ ra là đi tìm bản ngã của mình.

Bên cạnh Thạch Sanh và Công chúa Mỵ Ê, Phong Châu, vua Âu Lạc của kho tàng truyện cổ tích Việt, là các nhân vật Đại Quái, các Long Cuồng Huệ, Lão Hồ Tử, Càn Thát Bà, Phi Ly, Thiện Tài Đồng Tử, Văn Thù Bồ Tát, Long Thọ Bồ Tát, Khuất La Đô, A Tu La … lồng trong khung cảnh du hành thỉnh Chân kinh và tìm giải thoát, khiến Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc trở nên lôi cuốn, hấp dẫn cho người tìm Đạo cũng như trí thức, dân giả.

Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc là chuyện hành trình đi tìm Chân Kinh, được tiểu thuyết hoá, văn chương trở nên phương tiện cho đạo học. Hình thức và kết cấu bộ tiểu thuyết được đa dạng tình tiết viết theo thể loại chương hồi như truyền thống tiểu thuyết bạch thoại trường thiên thời nhà Minh và trở nên phổ thông ở Nam-kỳ từ đầu thế kỷ XX. Đầu mỗi Hồi luôn có hai câu thơ mở đầu – như dẫn vào hoặc tóm lược nội dung / tình tiết đáng kể của mỗi Hồi. Như Hồi 1:

Biển hương thủy, rồng thiêng thơ thẩn

Đọc câu kinh, ngơ ngẩn bàng hoàng

Hồi 31:

Thành La Nại, ni cô gặp nạn

Bát La Hoa giả nghiệp phù hoa”.

Đặc điểm nữa là tác giả xen thơ vào truyện - như các tiểu thuyết chương hồi thời trước.

Trích vài phân đoạn cuối tập:

“… Cuồng Huệ ở lại với con hươu tại chùa Lôi Âm Tự. Sống cuộc sống thong dong tự tại. Thỉnh thoảng, y bay đi khắp nơi trong rặng núi Tuyết Sơn, ngồi trên những đảnh núi cao có gió hú lồng lộng, để suy tư hoặc nhìn tuyết phủ… Tới thăm những chỗ đất-trời-giao-hợp, viếng nơi bắt nguồn của con sông Hằng Hà, thăm ao A Nâu Đạt ở đó có vị Long vương Đại Bồ Tát Đệ Thất Địa làm chủ tể khiến cho nước không đầy không vơi, và cũng từ đó phát xuất bốn con sông lớn của cõi Diêm Phù Đề… Đi kiếm thứ cây có trái nam trái nữ và biết tàng hình, kiếm các thứ cỏ thuốc kỳ lạ có cơ man trong dải Tuyết Sơn… Gặp không biết bao loại rồng rắn lúc nhúc trong đó, đi tìm cỏ thuốc…

Đôi khi, đứng trên đảnh núi cao, nhìn xuống nhân thế mịt mờ tiêu điều. Mỉm cười tự nhủ: ‘Mình đã hưng khởi Đại bi tâm, đáng lẽ phải đi vô trần gian độ loài người… Nhưng thôi, để việc độ người cho nhị sư huynh. Tạm thời, mình độ các loài phi nhân’. Và y thường hay giúp đỡ các loài súc sanh trong đó. (…).

Đôi khi, trong những lúc xả thiền, động tâm nhớ tới Thạch Sanh, Càn Thát Bà, Khuất La Đô, Mỵ Ê,… và Tịnh Đế … Y nhớ lại khoé mắt nhìn của ni cô Tịnh Đế lúc ở Đại Kính Hồ mà giật mình… Thầm nghĩ: ‘Cha… chả… mình thoát khỏi cơn mê hoặc đó… chắc là do sức hộ trì của Đại nhân Tóc loe…’. Nghĩ tới Tóc loe, y lại phải dằn tâm để làm tiêu tan tâm niệm lưu luyến…. (…).

Y cũng hay ngồi nhẩm lại lời Kinh Du Hý Thần Thông Biến Hoá mà y nhớ nằm lòng từ đầu đến cuối, không sót một chữ. Lời kinh tấm vào y… Là vì lời kinh xưa, trong bộ kinh bốn ngàn trang ấy, có nói gì khác đâu! Trước sau, chỉ giảng giải và nói rằng: Pháp giới này, với tất cả những cảnh giới, tất cả chúng sanh, tất cả vô tình… có là gì đâu, chỉ là Biến Hoá. Biến Hoá của Nghiệp Lực, của Nguyện Lực, của Thần Lực… Các thứ thân căn, các thư y báo thường chỉ là biến hoá của Nghiệp lực. Các thứ sự nghiệp, các cuộc tình duyên… chỉ là những hình bóng chập chờn của sự biến hoá Nghiệp Lực… Các người tu hành, các cảnh giới tu hành… dần dần tiếp thụ được khí phần của sự biến hoá do Thần Lực… Và mục tiêu của sự tu hành cao vời vợi. Không phải chỉ là Giải thoát cho chính mình. Giải thoát chỉ là một hoá thành, còn rất thấp. Mà cứu cánh tột vời phải là NHẬP PHÁP GIỚI… dùng thân tâm mình trải rộng khắp hư không, nhập từng cánh hoa, từng hạt bụi, từng dải tinh hà… để dẫn dắt tất cả Hữu tình cùng Vô tình đều Nhập Pháp Giới… Cứu cánh tuyệt vời là như vậy. Là vào một lỗ lông Sái cam lồ, khiến nó bừng chiếu sáng, nở rộng bao trùm các cõi… (…).

Y ở trên núi Lôi Âm chừng ba năm. Sau đó mịt mùng tăm tích. Không biết y đi đâu? Chắc là đi tới một cảnh giới có nhiều Tự Tại Thần Thông Lực, vì y thường nói rằng: Nơi nào có nhiều Thần thông lực, nơi đó chính là Quê hương của y”./.

Nghiêm Xuân Hồng từng là kịch tác gia nổi tiếng trong giới trí thức trước 1975 với những kịch bản Người Viễn Khách Thứ Mười, “Trong Khi Chờ Thượng Đế” tức Ba Hồi Cuồng Ngôn 1, cũng như những luận thuyết Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ, Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa.,…

Ở cuối vở kịch “Trong Khi Chờ Thượng Đế”, nhân vật Cuồng Nhân nói với Thương Nữ - phát ngôn phảng phất như nhân vật của Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc: “… Sách gì đâu! Tôi cũng nghĩ vậy mà chẳng biết có viết nổi không? Mà viết cũng khó lắm! (chợt như cao hứng) Tôi đôi khi mường tượng viết một cuốn sách nói về cái mông lung, cái mênh mang của kiếp sống con người, nói lên những vẻ êm đềm phù du của nó, nói lên những niềm hiu hắt không thể dứt nổi, vẽ lên đôi môi đỏ mọng của đứa trẻ thơ cắn ngập vào trái táo chát, tiếng cười của một cô gái trong đêm sâu, ánh trăng trên bến nước, tiếng hát (có lẽ của cô) vọng lên từ một đám lau sậy xào xạc, những mùi hoa đêm phảng phất khi định tâm ngửi lại không thấy gì, những buổi chiều tà, những tia nắng quái đỏ rực sau rặng núi tím sẫm ở chân trời, nói về cái hình hài phù du này, nói về những giấc mộng lúc tàn canh, nói về cái tâm thức tuyệt vời, về cái thế giới này và mường tượng đến trăm ngàn thế giới khác…”.

Thuật ngữ “mênh mang” đã ám ảnh hoặc đi theo nhà trí thức gần như cả cuộc đời, trong vở kịch đăng tạp chí Văn trước 1975 vừa kể, được ông dùng lại khi giáo đầu vào bộ truyện Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc, và khi ông nói lên mối quan tâm đến tình cảnh sống lưu vong của người Việt, trong phỏng vấn “Người Việt Trên Đất Mỹ” của tập san Văn Học Nghệ Thuật, ông cho biết “Sang đến đây, tôi thấy nỗi buồn man mác, và hố thẳm của nó muôn trùng. Có những nỗi ưu tư ám ảnh mình: chợt thấy sự sống mênh mang, bịnh tật và tuổi đời cũng mênh mang, sự chết mênh mang, sự ly hương cũng mênh mang, số mệnh cùng mọi nỗi chia ly cũng rứa…” (2).

Nghiêm Xuân Hồng còn có thơ tâm linh, tầm đạo và giảng giải kinh sách. Xin trích bài Hào Quang Bụi ghi “gửi Vũ và MT” tức Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan (NXH viết “Nhân ngày kỵ họ Vũ” mở đầu tập Đọc Kinh):

“Đêm không trăng
Bầu trời thăm thẳm với ngàn sao lấp lánh
Như những ánh mắt xa khơi, tinh quái riễu cợt
Bên tai tiếng sóng vỗ ầm ỷ
Xa xa là một thành phố có thể đóan được sự rẫy rụa cuồng nhiệt

Giữa đám xe cộ rập rìu ...
Hắn đứng bậm chân trên nền cát lạo xạo
Thẫn thờ như một kẻ không chịu đựng nổi nữa
Như nặng chĩu đôi vai cả một trái đất này

Hắn nhủ thầm: sao mình có thể lạc điệu đến thế ?!
Đất vẫn quay, sóng vẫn vỗ
Những hạt bụi li ti vẫn rộn rã hẹn hò nhau
Những chiếc lá non vẫn đầu thai để thầm thì
Nơi đầu cành
Mà nào có mệt nhọc gì đâu !
Trên kia, những ánh mắt sao
Vẫn tình tứ chào mời
Và trên những dặm trường bụi hào quang lãng đãng
Những bộ cánh thiên thần chắc vẫn lượn lờ bay lượn
Trao đổi cùng nhau những tiếng nói lặng thinh
Thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn xuống các nẻo đường nhân thế
Vẫn thấy những đàn hồ ly lóc cóc gót giầy nhung lụa
Xô nhau rình rập những nhịp đập của trái tim khát vọng

Mà nào có mệt nhọc gì đâu ?
Hắn nhìn đăm đăm vào những miền bóng tối
Của bầu trời thăm thẳm
Rồi lại nhìn một vì sao lấp lánh
Rồi lại nhìn ngọn đèn bên lề đường biển
Chợt một khoảnh khắc, chợt hắn như chợt nhận ra
Cái bí ẩn muôn thuở của vũ trụ đùa cợt này
Hắn nhếch mép cười như mếu

A! Thì ra là vậy!
Có lẽ như vậy, không thể khác được!
Thì ra những cái gì lấp lánh thì còn được coi là hiện hữu
Và cái gì tạm thôi lấp lánh
Thì mờ nhạt vào bóng tối mịt mùng
Và tất cả chỉ là những đám bụi hào quang lãng đãng
Chập chùng mờ tỏ
Trên những dặm trường huyền hoặc vô lượng này

Hắn bỗng nhận thấy trái tim già nua
Như rộn ràng muốn đập
Tương tự như một người bạn cũ đã mòn lời tâm sự
Nay mỉm một nụ cười nhận ra nhau
Vì muốn cầm tay mà chẳng nắm được !
Nắm sao được ? Mộng sao được !
Vì mọi bàn tay đều trôi dạt lung linh
Chỉ có một người, độc một người, nắm được những đám bụi hào quang

Hắn hân hoan nguyện thầm trong bụng
Ta về bứt trái tim hồng
Ngồi yên lặng đếm từng giòng hào quang

(Văn, số 37, 7-1985)

 

Chú-thích

1- “Đứng trên lập trường trí thức tiểu tư sản, phê phán chủ nghĩa hiện sinh của J-P. Sartre". Quan Điểm, số 3, 27-6-1955.

2-  Văn Học Nghệ Thuật số 3, 5-1978, tr. 6.

[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, 2025, tr. 621-627]