Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

Cấu trúc “đám mây” trong thơ đương đại

Mai Văn Phấn

“Từng hạt mầm phun hơi ấm lòng đất ướt

từ hơi thở làm bầu trời đổi khác

từ khoảng không được quyền kiến tạo đám mây”

M. V. P.

Trên bầu trời không có hai đám mây nào giống hệt nhau: có đám tụ dày như núi, có đám xám chì trước cơn dông, có đám mỏng manh tan ngay trong nắng. Chúng đổi thay từng khoảnh khắc, không báo trước, không theo một hình thù cố định. Hình ảnh ấy gợi đến cấu trúc thơ đương đại – cấu trúc ‘đám mây’, nơi bài thơ vận hành như biểu hiện khí tượng: hình ảnh, ngôn từ, khoảng trống và cả sự im lặng tương tác như hạt hơi nước, tự do kết nối, phân tán rồi tái hợp, khước từ mọi trật tự cứng nhắc.

Từ góc nhìn thi pháp, “đám mây” vừa là ẩn dụ thị giác vừa là mô hình cấu trúc văn bản, phá vỡ mạch diễn tiến đơn tuyến, thay bằng một cơ chế phi trung tâm, nơi hình ảnh, ngôn ngữ và ý tưởng dịch chuyển, biến hóa theo cảm xúc. Những khoảng trắng, những liên tưởng bất ngờ hay ký ức mơ hồ trở thành đầu mối trong mạng lưới mở, nơi độc giả cũng là người kiến tạo, và ý nghĩa cuối cùng hình thành từ tương tác giữa văn bản với trải nghiệm tiếp nhận.

Trong tiến trình phát triển, thơ hiện đại ở cả Việt Nam và phương Tây có xu hướng mở, cấu trúc phân tán, giải phóng ý tưởng, hình ảnh và nhịp điệu khỏi trật tự thời gian hay bố cục khép kín. Nếu thơ truyền thống có thể ví như cái cây với thân, cành, lá sắp xếp theo trật tự rõ ràng, thì thơ hiện đại lại vận hành như đám mây – không gian linh hoạt, nơi các yếu tố va chạm, tách rời rồi tái hợp theo cảm xúc sáng tác và trải nghiệm đọc, mở ra nhiều hướng tiếp cận, phản chiếu nhịp sống đa tầng, biến động không ngừng của con người hiện đại.

Từ thế kỷ XX, ở phương Tây đã hình thành những lý thuyết văn bản mở và cấu trúc đa hướng. Triết gia người Pháp Roland Barthes (1915-1980), với cuốn sách “S/Z”[1],  mô tả văn bản như mạng lưới đa mã, nơi ý nghĩa không cố định mà được người đọc kiến tạo qua lộ trình tiếp nhận. Tư tưởng này có thể liên hệ trực tiếp với cấu trúc “đám mây” trong thơ hiện đại, nơi hình ảnh, từ ngữ và khoảng trống va chạm, tách rời rồi tái hợp theo nhịp cảm xúc. Tương tự như “Sarrasine” – truyện ngắn của Balzac kể về bi kịch tình yêu bị lừa dối của họa sĩ Ernest-Jean Sarrasine và thảm kịch của Zambinella – chứa đựng nhiều lớp nghĩa tiềm ẩn đòi hỏi người đọc khai mở, bài thơ theo cấu trúc “đám mây” mời gọi sự tham gia chủ động của người tiếp nhận, biến mỗi lần đọc thành trải nghiệm riêng. Dưới ánh sáng lý thuyết của “S/Z”, có thể thấy rằng ý nghĩa trong thơ hiện đại không mang tính bất biến, mà luôn được hình thành trong tương tác linh hoạt giữa tác giả, văn bản và người đọc.

Từ góc nhìn cấu trúc, nhà nghiên cứu ký hiệu học Umberto Eco (1932–2016) với cuốn sách “Tác phẩm mở” (L'œuvre ouverte[2]) đã tập hợp một nhóm các học giả uy tín để khám phá sâu hơn tác động của việc tiếp nhận siêu văn bản (hypertextual reading) đối với lý thuyết văn học đương đại. Landow vận dụng các lý thuyết gia như Jacques Derrida (Pháp, 1930–2004), Roland Barthes (Pháp, 1915–1980), Gilles Deleuze (Pháp, 1925–1995), Paul de Man (Bỉ, 1919–1983) và Michel Foucault (Pháp, 1926–1984), cùng nhiều học giả khác. Ông đặc biệt lập luận rằng siêu văn bản mang tính gợi mở, như lý thuyết hậu cấu trúc đề cao; cho phép con người phát triển tri thức theo các lộ trình đa hướng và không tuần tự – điều mà các văn bản truyền thống không thể thực hiện.

Về phương diện mỹ học, cuốn sách “Không khí và mộng”[3] (“Air and Dreams”, nguyên văn tiếng Pháp: “L’Air et les songes”) của nhà triết học Pháp Gaston Bachelard khai thác không khí, mây và độ nhẹ như chất liệu biểu tượng cho trạng thái mơ hồ, chuyển dịch và khó xác định. Tác giả xem trí tưởng tượng không phải là tạo ra hình ảnh, mà là biến đổi và giải phóng hình ảnh, mở ra cái mới. Ông nhấn mạnh tính cơ động là bản chất của hình ảnh tưởng tượng, và coi không khí là yếu tố tiêu biểu cho tự do và thăng hoa. Thơ ca, thông qua lời mời gọi người đọc bước vào hành trình tưởng tượng, dẫn từ thực tại đến vùng đất của hư ảo và vô tận. Mỗi yếu tố tự nhiên mang động năng riêng; không khí, bản chất chỉ hiện hữu trong chuyển động, tượng trưng cho khát vọng vươn lên và mở rộng tâm hồn.

Nhìn tổng thể từ năm 1986, tức sau Đổi mới, thơ Việt Nam bước vào giai đoạn vận động mạnh mẽ, mở cửa tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng và thi pháp tiên tiến từ bên ngoài. Các nhà thơ tiếp nhận các thi pháp từ thơ Đông – Tây và những trào lưu như hiện đại, hậu hiện đại, tân hình thức…, chủ động chuyển hóa chúng vào bối cảnh văn hóa – xã hội Việt Nam, hòa nhập và tái cấu trúc để phản ánh trải nghiệm, nhạy cảm và nhu cầu thẩm mỹ. Nhờ vậy, họ tạo ra những cấu trúc và mỹ cảm mới, mang dấu ấn truyền thống, mở rộng phạm vi biểu đạt của thơ hiện đại. Nếu trước 1986 thơ phần lớn dựa trên trật tự thời gian và mạch tự sự, thì sau đó nhiều tác giả mạnh dạn phá bỏ trật tự ấy, giải phóng câu chữ và hình ảnh, mở ra không gian thơ tự do, đa hướng, linh hoạt hơn.

Trong xu hướng ấy, cấu trúc “đám mây” dần trở thành mô hình tư duy thơ được nhiều tác giả thử nghiệm. Nó xuất hiện trong thơ của một số nhà thơ cách tân thời kỳ đầu Đổi mới với tinh thần phá bỏ trật tự tuyến tính, sử dụng các khoảng trắng/ trống, sự đứt gãy cú pháp, và trường liên tưởng mở. Bài thơ không nhất thiết phải dẫn dắt người đọc theo lộ trình duy nhất, mà vận hành như một khối mây: biến đổi, va chạm, phân tán rồi tái hợp, mang nhiều sắc độ và cảm xúc.

“Niềm xuân thúc giục

Niềm xuân mách bảo

Niềm xuân vươn dậy cõi mênh mông tĩnh lặng

Bóng lớn cây dã hương cổ thụ vươn cao giữa trời đất trong rạng rỡ ngày mới

Thổn thức làn ánh sáng tỏa lan hơi thở xuân về”

(Dương Kiều Minh – “Giao thừa”)

Cảm xúc và hình ảnh trong khổ thơ trên lan tỏa tự do, liên tiếp mà không theo một trật tự cố định. Từ nhịp xuân trỗi dậy đến bóng cây, ánh sáng và hơi thở, mọi yếu tố như va chạm, phân tán rồi tái hợp trong không gian mở, tạo nên trường liên tưởng khác lạ, đa sắc thái và rung cảm. Tứ thơ vận hành như đám mây biến đổi, trôi dạt giữa tĩnh lặng và rạng rỡ, nối tiếp và mở ra vô hạn khả năng diễn giải.

Các nhà thơ Việt Nam đương đại đã vận dụng tinh hoa thi pháp bên ngoài theo nhiều hướng. Từ hậu cấu trúc, họ tiếp nhận tư tưởng về “văn bản mở” của Umberto Eco và khái niệm “người đọc kiến tạo” của Roland Barthes để giải phóng ý nghĩa, biến bài thơ thành không gian đa hướng, nơi người đọc tham gia tích cực vào việc kiến tạo trải nghiệm. Và, từ ám tượng của thơ tượng trưng và siêu thực, các tác giả khai thác sức mạnh của liên tưởng bất ngờ, tạo ra những “cú nhảy” hình ảnh tương tự chuyển động của các khối mây – bất định nhưng giàu sức gợi cảm, mở rộng phạm vi biểu đạt và khả năng cảm thụ.

Trong bối cảnh này, các nguyên lý mở và phi tuyến được vận dụng để kiến tạo không gian thơ mới lạ, nơi hình ảnh, âm thanh và ánh sáng giao kết bất ngờ, làm nổi bật tính bất định và sức gợi cảm mạnh mẽ.

“Một bầu trời phẳng lì

Không mây không gì cả

Tường chói tiếng nói chói

Chói tấm biển chỉ đường ra ga

Gương chiếu hậu quắc lên quái gở”

(Nguyễn Bình Phương – “Miêu tả những ngày nắng”)

Các thi ảnh không trôi đi nhẹ nhàng, mà được nén chặt, chói lóa và tác động trực diện vào thị giác người đọc. Bầu trời trống trải, tiếng nói và ánh sáng tỏa trên các vật thể như bức tường, biển chỉ đường hay gương chiếu hậu tạo thành mạng lưới liên tưởng dày đặc. Nhà thơ kiến tạo một mô thức tư duy mở, nơi ý nghĩa không cố định, và cảm xúc được gợi ra từ tương tác giữa các hình ảnh đối lập cùng sắc độ thị giác đa dạng.

Nhìn tổng thể, các nhà thơ đương đại Việt đã kiến tạo cấu trúc “đám mây” như một hình thức vừa mang tinh thần hội nhập, vừa neo vào căn tính thẩm mỹ bản địa. “Đám mây” trong thơ Việt là sự sáng tạo, nơi hình ảnh dân gian, ký ức lịch sử, trải nghiệm cá nhân và nhịp sống đô thị cùng chuyển dịch trong khí quyển thơ. Từ đó, bài thơ trở thành vùng trời mở, luôn biến đổi theo góc nhìn của mỗi độc giả, và không bao giờ lặp lại y nguyên.

Chính trong không gian linh hoạt ấy, nhiều nhà thơ đương đại đã tìm cách hòa quyện chất liệu truyền thống với kỹ thuật biểu đạt mới, tạo nên những “đám mây” mang hình hài riêng.

Bù nhìn làm cứ như chơi

Lão nông cuốc mấy chân trời còn đau

Tiểu sành đã hóa đất nâu

Hồn ông cha vẫn đội đầu nắng mưa”

(Nguyễn Thị Thùy Linh – “Làng”)

Nguyễn Thị Thùy Linh đã vận dụng thể lục bát truyền thống trong một cấu trúc hiện đại. Nhịp điệu 6-8 vẫn hiện diện, nhưng hình ảnh và cú pháp được kéo giãn, phá vỡ trật tự thông thường: các thi ảnh xuất hiện rời rạc trong liên tưởng mở, không dẫn dắt người đọc theo một mạch kể cố định. Thể lục bát trở thành khung đỡ cho “khối mây” hình ảnh – nơi ý nghĩa và cảm xúc được hình thành qua sự chồng lấp, va chạm và mở rộng, vừa giữ được âm hưởng truyền thống vừa khai thác tính phân mảnh và đa phương chiều của thơ hiện đại.

 

Cấu trúc “đám mây” trong thơ đương đại có một số đặc điểm dễ nhận thấy. Trước hết là dòng chảy hình ảnh không theo logic thông thường, nơi ý tưởng, ký ức, cảm giác và hình ảnh thiên nhiên hòa quyện theo cảm xúc thay vì theo một trật tự cố định. Tiếp đến là sự phân mảnh ý tưởng, tạo nên những “khối mây” riêng biệt nhưng vẫn vang hưởng với nhau khi người đọc cảm nhận. Một đặc điểm khác là khoảng trắng và sự im lặng, được dùng để gợi mở, khơi dậy liên tưởng và cảm xúc riêng ở mỗi người. Cấu trúc này luôn mở, cho phép mỗi độc giả trở thành người đồng sáng tạo, góp phần làm nên trải nghiệm trọn vẹn của bài thơ.

Mỗi tác giả tạo cho thơ mình một cấu trúc “đám mây” theo cách riêng. Nhà thơ Pháp Hoan thường gom hình ảnh thành khối cô đặc, tạo nên những “điểm rơi” cảm xúc bất ngờ, khiến mỗi lần đọc lại đều có thể khám phá thêm sự kết nối mới giữa các tầng ý tưởng.

“gió thốc và sương giá ngoài khơi

ta bơi đi cùng tiếng dội

sóng nhấn chìm tiếng nói

tôi quay đầu nhìn lại

những gì còn lại là hư vô

riêng từng con sóng trắng theo gió buốt tràn mãi vào bờ”

(Pháp Hoan – “Tiếng gọi”)

Các hình ảnh không tuân theo trật tự mà dồn đặc, chồng lớp, tạo nên những đợt sóng cảm xúc. Người đọc được mời tự kết nối các tầng ý tưởng, cảm nhận sự biến đổi không ngừng của âm thanh, chuyển động và cảm giác trong mạch thơ vừa phân tán vừa hội tụ, mở ra nhiều liên tưởng và sắc độ cảm xúc.

Nhà thơ Trần Ngọc Mỹ vận dụng đa giọng điệu, phân tầng ý tưởng để tạo cảm giác đa chiều và chuyển động liên tục.

“Bây giờ mây nhẹ nhàng lang thang

miên man với bao điều hy vọng

kìa muôn tiếng chim trong

khoan hòa rót lòng dịu dàng tìm lối

hối tôi đuổi theo bóng nắng vườn sớm

tan chảy giữa ban mai

tự vẽ cho mình giấc mộng xuân dài”

 (Trần Ngọc Mỹ – “Thêm một nốt lặng”)

Hình ảnh và cảm xúc nối tiếp nhau trong khổ thơ trên tựa những đám mây lơ lửng, không bị ràng buộc bởi một trật tự duy nhất. Từng chi tiết – mây, chim, ban mai, bóng nắng – vừa tách biệt vừa cộng hưởng, tạo nên trường liên tưởng đa chiều, nơi thực tại và mộng tưởng hòa nhịp, lan tỏa. Mạch thơ vận hành như một cuộc dạo chơi của tâm hồn, khi giấc mộng, hy vọng và ánh sáng hòa quyện, biến đổi không ngừng.

Cấu trúc “đám mây” trong thơ đương đại đã tạo ra trải nghiệm đọc chủ động và cá nhân hóa. Người đọc không đi theo dòng suy tưởng hay mạch cảm xúc cố định, mà tự di chuyển qua các ý niệm, khám phá các liên kết và ý nghĩa tiềm ẩn. Quá trình này kiến tạo một miền khí quyển mở và biến hóa, nơi mỗi trải nghiệm đọc trở nên độc lập và phản ánh sự tương tác linh hoạt giữa văn bản và nhận thức cá nhân; đồng thời, hình ảnh, nhịp điệu và khoảng trống kết hợp tạo thành một hệ thống liên tưởng, biến mỗi lần đọc thành hành trình khác biệt, phản ánh nhịp sống đa tầng và biến động không ngừng của con người hiện đại.

 

Cấu trúc “đám mây” trong thơ đương đại mang đến nhiều ưu điểm nổi bật. Nó mở rộng biên độ biểu đạt, cho phép nhà thơ thể hiện các trạng thái phân mảnh, đa tầng và biến đổi của đời sống hiện đại. Nhờ tính mở và phi tuyến, bài thơ trở thành không gian trải nghiệm cá nhân, nơi độc giả cùng đồng kiến tạo, góp phần làm giàu ý nghĩa. Sự linh hoạt của cấu trúc tạo ra hiệu ứng thị giác và cảm xúc mới lạ, tương tự quang cảnh bầu trời thay đổi từng khoảnh khắc, mang lại sức sống và sức hấp dẫn đặc trưng cho thơ hiện đại.

Tuy vậy, cấu trúc này cũng có những giới hạn. Với người quen đọc thơ truyền thống có bố cục mạch lạc, cách viết phi tuyến và phân mảnh dễ tạo cảm giác mơ hồ, khó nắm bắt. Nếu dùng quá nhiều hình ảnh rời rạc hoặc liên tưởng đột ngột, người đọc sẽ phải dừng lại để tìm mối liên kết, làm gián đoạn trải nghiệm. Lạm dụng phân mảnh và khoảng trống có thể khiến bài thơ giống như tập hợp ngẫu nhiên các câu chữ, thiếu một “khí quyển” chung. Khi không có hình ảnh trung tâm hoặc cảm xúc chủ đạo, tác phẩm dễ bị trôi dạt và khó đọng lại trong trí nhớ. Thách thức lớn nhất là giữ cho hình ảnh và nhịp điệu linh hoạt mà vẫn đảm bảo sự thống nhất; nếu không, bài thơ có thể chỉ hấp dẫn ở từng phần nhưng thiếu kết nối tổng thể.

Cấu trúc thơ đương đại phản ánh nhịp sống phân mảnh, thông tin đa chiều và nhận thức đa tầng của con người hiện đại; tiếp nhận các lý thuyết văn học quốc tế về tính mở, phi tuyến và siêu văn bản. Nhà thơ kết hợp hình ảnh, thủ pháp và nhịp điệu để tạo trải nghiệm đọc linh hoạt, sâu sắc, đồng thời tổ chức văn bản phù hợp với nhịp sống và tâm thức đương đại. Cấu trúc “đám mây” là thủ pháp sáng tạo, cũng là phép ẩn dụ cho trải nghiệm đọc linh hoạt, giúp thơ hiện đại phản ánh biến động đời sống và mở ra không gian thẩm mỹ mới, nơi ý nghĩa và hình thức luôn chuyển động, đan xen và đồng hành cùng trí tưởng tượng của mỗi độc giả. Đây chính là sức sống đặc trưng, thử thách, giàu tiềm năng của thơ Việt Nam đương đại.

[1] Cuốn sách "S/Z", do NXB Seuil (Éditions du Seuil, Pháp) ấn hành vào năm 1970.

Theo nhà nghiên cứu, phê bình văn học Thụy Khuê: “Cái tựa S/Z của Roland Barthes biểu trưng tính bí mật của toàn thể tác phẩm qua hai nhân vật chính: S là chữ đầu tên Sarrasine, người họa sĩ đam mê, và Z là chữ đầu tên Zambinella, ca sĩ bị thiến có giọng tuyệt vời. Hai người đàn ông này, liên hệ tới sự đồng tính của Barthes, đều mang tên đàn bà, tuy đứng ở hai phía nhưng họ cùng một nòi: tài hoa bạc mệnh.” (Thụy Khuê: Phê bình văn học thế kỷ XX. Chương 13 – Phê bình ký hiệu học Roland Barthes)

[2] Cuốn sách “L'œuvre ouverte” do NXB Valentino Bompiani, Milan, Italya ấn hành năm 1962.

[3] Cuốn sách trong bản gốc tiếng Pháp có tên “L’Air et les songes: Essai sur l’imagination du mouvement”, do NXB José Corti, Paris ấn hành đầu tiên, năm 1943.