Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

Bảo tàng Việt Nam: Lớp vỏ hoành tráng và sự thiếu hụt của tri thức bảo tàng học

 Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Trong hơn hai thập kỷ qua, bảo tàng ở Việt Nam đã bước vào một giai đoạn phát triển nhanh chóng về số lượng. Nhiều công trình được dựng lên từ hệ thống bảo tàng công lập với nguồn vốn nhà nước đến những bảo tàng tư nhân ra đời nhờ tiềm lực sưu tập của những nhà sưu tập giàu có. Nhưng sự nở rộ ấy lại không đem đến một đời sống bảo tàng học thực sự mà thay vào đó chúng ta chứng kiến sự song song của hai trạng thái hoạt động khi bảo tàng công vận hành theo cơ chế hành chính nặng nề và bảo tàng tư nhân thì trượt vào vòng lặp của việc học lóm, bắt chước về hình thức từ thế giới mà không chạm tới cốt lõi.

Các bảo tàng tư nhân thường ra đời với niềm kiêu hãnh cá nhân, với mong muốn khẳng định tên tuổi của chủ nhân và để lại một dấu ấn cho đời sau. Sự háo hức ấy dễ dàng trượt vào sự sao chép bề ngoài khi người ta nhìn thấy ánh sáng lạnh của một bảo tàng ở Seoul, đường cong kiến trúc của một bảo tàng ở Paris hay những tủ kính lấp lánh trong một bảo tàng ở Tokyo hoặc lập tức dễ dàng bắt gặp một hình ảnh bảo tàng quen thuộc nào đó của thế giới tại Việt Nam chỉ đơn giản qua cái khung tranh.

Nhưng bảo tàng không bao giờ chỉ là tường trắng và không gian sang trọng, nó cần một nền tảng bảo tồn khoa học, một hệ thống tư liệu hóa chuẩn mực, một bộ máy nghiên cứu và giáo dục gắn liền với công chúng, cùng một triết lý giám tuyển định hình nên câu chuyện xuyên suốt của việc trưng bày bảo tàng. Khi những điều đó thiếu vắng thì bảo tàng chỉ còn là một showroom xa xỉ cho những bộ sưu tập cá nhân.

Nếu ở khối tư nhân, sự học lóm, bắt chước về bề mặt là căn bệnh phổ biến thì trong khối công lập căn bệnh lại nằm ở sự trì trệ. Nhiều bảo tàng nhà nước được xây dựng to lớn nhưng trưng bày theo lối niên đại cứng nhắc, hiện vật xếp đặt đơn điệu, thiếu hẳn đối thoại với đời sống đương đại. Chúng tồn tại như những kho lưu trữ công cộng nhưng không được biến thành thiết chế tri thức năng động. Công chúng đi thăm một lần rồi không quay lại bởi không có trải nghiệm học thuật hay cảm xúc của bảo tàng học nào đủ sức lôi cuốn họ.

Đi sâu hơn, cả hai khối công và tư đều gặp chung một khoảng trống khi Việt Nam chưa có đội ngũ giám tuyển chuyên nghiệp đủ để vận hành bảo tàng như một không gian tri thức. Các chuyên gia bảo tồn thì hiếm hoi, hệ thống kho lưu trữ không đạt chuẩn quốc tế, hạ tầng kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm thường bị xem nhẹ. Luật di sản lại không phân định rõ ràng thế nào là "phòng trưng bày" và thế nào là "bảo tàng" đã dẫn đến tình trạng hỗn độn khi mọi công trình treo biển bảo tàng đều mặc nhiên được coi là bảo tàng "thực sự". Trong một môi trường như vậy, bảo tàng tư nhân đang trở thành một loại trang sức xã hội hơn là một định chế văn hóa.

Hệ quả của thực trạng này không chỉ nằm ở việc lãng phí nguồn lực hay sự xuống cấp hiện vật mà nó còn tạo nên một đứt gãy tri thức. Công chúng đến bảo tàng nhưng không học được cách đọc hiện vật, không hình thành thói quen tiếp cận văn hóa bằng chiều sâu mà chỉ tiếp nhận ấn tượng bề mặt. Các nhà nghiên cứu quốc tế nhìn vào hệ thống ấy và khó lòng coi Việt Nam như một đối tác ngang hàng. Khi niềm tin học thuật bị xói mòn, bảo tàng Việt Nam càng bị gạt ra ngoài bản đồ toàn cầu.

Nhìn sang thế giới, ta thấy một sự khác biệt rất rõ rệt

Một bảo tàng tư nhân như Leeum ở Seoul vận hành như một thiết chế quốc tế, vừa bảo tồn vừa sản xuất tri thức.

Một bảo tàng tư nhân như The Broad ở Los Angeles không chỉ trưng bày mà còn xuất bản catalogue định kỳ, mở kho lưu trữ cho công chúng tiếp cận, tạo thành một mạng lưới tri thức liên tục.

Benesse Art Site Naoshima (Nhật), một bảo tàng tư nhân nhưng triết lý giám tuyển và bối cảnh địa phương tạo thành điểm đến học thuật toàn cầu.

Trong khi đó ở Việt Nam, bảo tàng công mắc kẹt trong lối vận hành hành chính, còn bảo tàng tư nhân thì mải mê chạy đua với hình thức kiến trúc và trưng bày ánh sáng mà quên mất trách nhiệm của khoa học bảo tàng.

Bức tranh tổng thể ấy cho thấy một nghịch lý, chúng ta có nhiều công trình nhưng thiếu nội dung sâu sắc, có nhiều lớp vỏ bên ngoài nhưng lại không có giá trị về linh hồn văn hóa bên trong, có tham vọng nhưng lại không có nền tảng. Nếu bảo tàng công không cải tổ khỏi cơ chế hành chính ì ạch hay bảo tàng tư nhân không thoát khỏi tâm lý mô phỏng hình thức thì tương lai bảo tàng Việt Nam sẽ chỉ là một hệ thống mờ nhạt, tồn tại trên bản đồ như những điểm sáng kiến trúc nhưng lại trống rỗng trong việc tạo ra tri thức và nuôi dưỡng văn hóa.

Bảo tàng không thể chỉ là chiếc hộp trưng bày, cũng không thể chỉ là biểu tượng quyền lực hay công trình trang trí du lịch mà phải là một cơ thể sống, nơi hiện vật được bảo tồn đúng chuẩn, nơi tri thức được sản xuất và lưu thông, nơi công chúng tìm thấy sự đối thoại giữa quá khứ và hiện tại.

Một bảo tàng nếu không có khả năng nghiên cứu, không có hồ sơ nguồn gốc đúng chuẩn, không có triết lý giám tuyển thì không phải là bảo tàng. Nó chỉ là một nhà kho sang trọng được chiếu sáng bằng ánh đèn.

Đã đến lúc phải từ bỏ thói quen mô phỏng bề ngoài và thoát khỏi cơ chế quan liêu cũ kỹ. Bảo tàng Việt Nam chỉ có thể bước vào bản đồ quốc tế khi nó dám đi từ nền tảng khoa học bảo tàng, xây dựng đội ngũ chuyên môn và đặt công chúng vào trung tâm của mọi hoạt động.

Nếu không, toàn bộ hệ thống bảo tàng hôm nay sẽ trở thành những tượng đài rỗng, tồn tại để phô trương nhưng bị lịch sử bỏ quên.